NGUYỄN DU SỢ AI?
(Về bài thơ MỘNG ĐẮC
THÁI LIÊN Của Nguyễn Du )
Vũ Bình Lục
夢得採蓮
阮攸
緊束蛺蝶裙
採蓮棹小艇
湖水何浺瀜
水中有人影
採採西湖蓮
花實俱上船
花以贈所畏
實以贈所憐
今晨去採蓮
乃約東鄰女
不知來不知
隔花聞笑語
共知憐蓮花
誰者憐蓮幹
其中有真絲
牽連不可斷
蓮葉何青青
蓮花嬌盈盈
採之勿傷藕
明年不復生
Phiên âm:
Mộng đắc thái liên
Ngũ thủ
I
Khẩn thúc giáp điệp quần
Thái liên trạo tiểu đình
Hồ thủy hà xung
dung
Thủy trung hữu nhân ảnh.
II
Thái thái Tây hồ liên
Hoa thực câu
thưởng thuyền
Hoa dĩ tặng sở
úy
Thục dĩ tặng sở liên.
III
Kim thần khứ thái liên
Nãi ước đông lân nữ
Bất tri lai bất
lai
Cách hoa văn tiếu ngữ.
IV
Cộng tri liên liên hoa
Thùy giả liên
liên cán
Kỳ trung hữu
lân ti
Thiên liên bất
khả đoạn.
V
Liên điệp hà thanh thanh
Liên hoa kiều doanh doanh
Thái chi vật thương ngẫu
Minh niên bất
phục sinh.
Dịch nghĩa:
CHIÊM BAO THẤY
HÁI SEN
(Năm bài)
I
Xắn gọn quần
cánh bướm
Chèo thuyền con hái sen
Nước hồ đầy lai
láng
Dưới nước có bóng người.
II
Hái, hái sen hồ
Tây
Cả hoa và gương đều bỏ lên thuyền
Hoa để tặng người mình sợ
Gương để tặng người mình thương.
III
Sáng sớm nay đi
hái sen
Có hẹn với cô hàng xóm
Không biết có đến không
Sau khóm hoa nghe tiếng cười nói.
IV
Ai cũng biết
thích hoa sen
Nhưng mấy ai thích thân cây sen
Trong thân cây
sen có những sợi tơ bền
Vấn vương không
dứt được.
V
Lá sen xanh biết
bao
Hoa sen đẹp mơn mởn
Hái chớ làm hỏng ngó
Năm sau sẽ không
mọc.
Dịch thơ:
I
Xắn gọn quần cánh bướm
Chèo thuyền con hái sen
Nước hồ đầy lai
láng
Dưới nước bóng
người in.
II
Tây hồ hái hái sen
Hoa gương bỏ
lên thuyền
Hoa tặng người
mình sợ
Gương tặng người mình quen.
III
Sáng nay đi hái sen
Hẹn cô kia đi
với
Chẳng biết có đến không
Cách hoa nghe cười nói.
IV
Hoa sen ai cũng ưa
Cuống sen chẳng
ai thích
Trong cuống có
tơ mành
Vấn vương không
thể dứt.
V
Lá sen màu xanh xanh
Hoa sen dáng
xinh xinh
Hái sen chớ
đụng ngó
Năm sau hoa
chẳng sinh.
PHẠM KHẮC KHOAN VÀ LÊ THƯỚC
Bài thơ này Nguyễn Du viết khi đã ra
làm quan với nhà Nguyễn, in trong tập thơ chữ Hán Nam trung tạp ngâm, khoảng 27
bài. Như thế là tác giả viết vào thời
điểm từ sau năm 1802, đời vua Gia Long. Một bài thơ liên hoàn, tả một giấc mơ
được hái sen ở hồ Tây (Mộng đắc thái liên). Chỉ là một giấc chiêm bao thôi, có
lẽ là hình ảnh từ những năm tháng tươi đẹp của tác giả khi còn trẻ, được thừa hưởng
vinh hoa phú quý ở một thế gia quyền quý, rồi một đi không trở lại, kể từ khi
Tây Sơn kéo quân ra Bắc Hà tiêu diệt tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh đã suy tàn,
năm 1786.
Quả là một giấc mơ tươi trong, rất
hiếm thấy ở các tác phẩm thơ của Nguyễn Du, kể cả chữ Hán và chữ Nôm. Bài thứ
nhất tả cảnh chung, khái quát, về cảnh hái sen ở Tây hồ.
Xắn gọn quần cánh bướm,
Chèo thuyền con hái sen.
(khẩn thúc giáp
điệp quần
Thái liên trạo tiểu đình)
Đấy là tả người
đi hái sen, chèo chiếc thuyền nhỏ mà lướt nhẹ trên mặt hồ, luồn qua những hoa
sen và lá sen. Nhưng ai là người Xắn gọn quần cánh bướm ở đây? Chắc là những cô
gái trẻ, con nhà tử tế quanh hồ mà tác giả quan sát thấy. Có nữ tú, ắt có cả
nam thanh, trong đó có thi sĩ đa tình đa cảm Tố Như…Hai câu tiếp theo tả nước
hồ đầy lai láng và xanh trong, in rõ bóng người hái sen. Mấy nét chấm phá về
cảnh và người hái sen Tây hồ trong một ngày đẹp trời, bình yên, thơ mộng. Có
cảnh và có người trong cảnh, nhưng tả người mới chỉ ở vài điểm nhấn, ví như
Giáp điệp quần, tức quần lụa mỏng, tựa như cánh bướm phất phơ và hình người hái
sen in dưới mặt nước hồ trong, thanh thoát.
Bài II, tả cụ
thể công việc hái sen, đương nhiên có cả mục đích của việc hái sen nữa. Hái hoa
sen, và cả gương sen, cả hoa và gương đều bỏ lên thuyền. Thế thôi, chưa có gì
đặc biệt. Những người dân ven hồ Tây, nhiều gia đình lấy việc hái sen (cả hoa
và gương) làm kế sinh nhai. Nhưng cũng có những người khá giả, lại lấy việc hái
sen chủ yếu để tiêu khiển, như một thú chơi tao nhã. Với tác giả bài thơ này, thì
Hoa để tặng người mình sợ / Gương để tặng người mình thương (Hoa dĩ tặng sở úy
/ Thục dĩ tặng sở liên). Hai câu sau thấy chứa nhiều uẩn khúc trong tình ý. Hoa
sen trắng hay hoa sen hồng, đều đẹp. Hương sen thơm nhẹ, tinh khiết. Đó là một
loài hoa quý xưa nay, còn có cái tên rất đẹp là hoa phù dung. Hoa ấy hái
về dùng để tặng người mình yêu quý, trân trọng, còn để cắm vào bình hoa trong
nhà mình để thưởng lãm, hoặc dâng lên bàn thờ tiên tổ, ấy là lẽ thường. Nếu như
hoa sen với sắc hoa và hương quyến rũ, làm biểu tượng cho cái đẹp trang nhã và
quý phái, tức biểu tượng của giá trị thẩm mĩ, thì gương sen, trong có hạt sen
rất quý, phần nhiều chỉ nghiêng về giá trị vật chất. Nhưng với Tố Như thì hoa
để tặng người mình sợ, còn gương để tặng người mình thương, thì đã là một sự
khác thường rồi! Cũng có người bình giải bài thơ này, đến đây thì bế tắc, không
sao đoán định được tình ý sâu kín của tác giả. Một tính cách cang cường như Cao
Bá Quát, khi tả hoa sen Tây Hồ, hay hoa sen trong bồn quý của một ông bạn
thân, đều gửi gắm ý chí thanh cao ngạo nghễ của mình, rõ ràng, quyết liệt. Còn
Nguyễn Du trong trường hợp này thì sao? Ẩn số này, phải chăng có thể liên tưởng
đến tính cách của tác giả, thông qua những cứ liệu ở tiểu sử, và đặc biệt là cả
ở văn chương nữa?
Tiểu sử cho hay, Nguyễn Du là một
trong số 21 người con, cả trai lẫn gái của cụ Nguyễn Nghiễm, một vị quan to ở
phủ chúa Trịnh, có tới tám bà vợ. Mẹ Nguyễn Du quê Bắc Ninh, kém chồng tới
32 tuổi. Cha chết, rồi mẹ chết khi Nguyễn còn trẻ, phải nương tựa vào một người
anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Triều Lê-Trịnh bị Tây Sơn lật đổ năm 1786,
ba anh em Nguyễn Du chạy trốn theo Lê Chiêu Thống sang Tàu, nhưng không kịp,
phải quay về. Nguyễn Du chạy về Thái Bình, lẩn trốn ở nhà người anh vợ là Đoàn
Nguyễn Tuấn, bấy giờ đã ra làm quan với Tây Sơn, từ năm 1786. Có thể Nguyễn Du
dựa vào vị trí của anh vợ, nên được an toàn chăng? Tuy nhiên, không thể nói là
ông không phải lo sợ gì nữa trong hoàn cảnh Tây Sơn có thể truy xét, bởi ông là
quan lại cũ của triều Lê, lại chống Tây sơn quyết liệt, kể cả mưu toan khởi
binh nhằm “phục Lê” nhưng không thành. Mười năm gió bụi, ăn nhờ ở đậu, thấp
thỏm lo âu, buồn bã trong đói nghèo, bệnh tật nơi góc biển bờ sông. Tây sơn đổ,
Nguyễn Du ra làm quan với nhà Nguyễn (1802), thăng dần lên đến chức Cai bạ
Quảng Bình (1809-1812), rồi lại được thăng tới chức Tham tri bộ Lễ, nhưng hình
như không mấy khi được vui vẻ, chủ yếu là do bị quan trên chèn ép. Một số quan
lại đương thời, xưa cộng tác với Tây Sơn, hoặc từng làm quan với nhà Lê, thường
bị phái công thần ghanh ghét, tìm cách triệt tiêu, thế nên Nguyễn Du không thể
không lo sợ, cố kín đáo giữ mình, thành ra có lúc bị Gia Long quở trách: “Nhà
nước dùng người tài giỏi thì cất lên, không hề phân biệt người Bắc người Nam.
Khanh với Ngô Vị (con Ngô Thì sĩ) đã được trẫm biết tài mà bổ dụng, làm quan
đến chức Tham tri, biết điều gì cứ nói, để làm hết chức trách của mình, sao lại
cứ rụt rè, sợ sệt, chỉ dạ dạ vâng vâng thế thôi?”. Sự đố kị, ganh ghét trong
nội bộ quan lại thời ấy, khiến bao kẻ phải chết tức tưởi, như Đặng Trần Thường,
Nguyễn Gia Cát, Vũ Quý Đỉnh…chẳng phải đáng sợ lắm sao? Đến như chính một người
anh của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ, từng làm quan cho Tây Sơn, sau lại làm quan với
nhà Nguyễn, chỉ do xích mích gì đó với tri phủ Nguyễn Văn Chiêu, bị hắn truy
bức, tức quá mà chết (theo gia phả). Những sự thật đau lòng như thế, thử hỏi
một người như Nguyễn Du, dẫu cho có khí phách cang cường chăng nữa, cũng không
biết sợ hay sao? Thơ văn Nguyễn Du, ngay trong tập Nam trung tạp ngâm này, cũng
không ít bài thể hiện tâm sự buồn chán và lo sợ trước cảnh “Thượng uyển oanh
kiều đa đố sắc” (Những con oanh đẹp trong vườn thượng uyển hay ghen ghét nhau).
Ngay như ở Thanh Hiên thi tập viết trước đó, tác giả cũng từng viết: Gặp đời
loạn vì muốn giữ toàn sinh mệnh nên luôn luôn sợ người ta (Loạn thế toàn sinh
cửu úy nhân)…Thế nên Hoa để tặng người mình sợ ở bài Mộng đắc thái liên, hẳn có
nguyên cớ chi đây! Phải chăng, người mình sợ ấy là những kẻ có thế lực đương
thời? Tặng hoa, có thể chỉ như một hành vi có tính chất ngoại giao, nhất thời,
nôm na chỉ là cái “mẹo” giao đãi, cao hơn một chút là cái “mẹo làm quan”, trong
những hoàn cảnh nhất định nào đó, như một sự nhún mình, khôn khéo, nhưng mà
không phải thực lòng. Danh tướng nhà Hán như Hàn Tín, lúc bĩ cực, cũng còn phải
tạm thời chấp nhận chui qua háng kẻ mạnh, chỉ để được tồn tại mà tính kế lâu
dài. Người quân tử biết cứng biết mềm, cốt để giữ cái mục tiêu lớn, thế mới
thật đáng nể trọng. Nguyễn Du là người có bản lĩnh, biết trong cương ngoại nhu
chăng? Cũng không ngoại trừ khả năng này nữa: Với những bậc trí giả, chỉ biết
sợ những kẻ tài giỏi, anh hùng trong thiên hạ mà thôi! “Sợ” ở đây không hẳn là
sợ hãi, mà phải hiểu theo nghĩa tôn trọng, kính sợ người có tài và nhân cách
cao cả hơn đời và hơn mình. Với Nguyễn Du, trong trường hợp này, liệu còn có
những ý tưởng sâu kín nào khác nữa chăng? Còn như gương sen để tặng người mình
thương, cũng không mấy khó hiểu. Gương sen, trong có hạt sen quý, nhiều giá trị
sử dụng, để tặng người thân thương, vừa chân tình, vừa gần gũi…
Bài III, cũng tả cảnh hái sen, nhưng
mà ở một chi tiết khác. Thi sĩ sáng nay đi hái sen, vốn đã có hẹn với một cô
nàng hàng xóm nào đó, chắc là xinh đẹp trẻ trung. Hẹn rồi đấy, nhưng mà không
biết bóng giai nhân ấy đã đến chưa (bất tri lai bất tri)? Chưa thấy người đẹp
hiển hiện trước mắt, nhưng cách hoa nghe cười nói (cách hoa văn tiếu ngữ), thì
hình như đã thấy xốn xang trong dạ rồi. Sen tốt tươi, bạt ngàn bông thắm lá
xanh, chưa nhìn thấy người hái sen, nhưng tiếng cười nói vui vẻ của người hái
sen lẫn trong những bông thắm lá xanh, thật tuyệt. Chỉ tả tiếng cười nói của những
người hái sen thôi, đã thấy rõ cái đẹp hòa trong cái đẹp, thiên nhiên và con
người đằm thắm trữ tình, sinh động, thanh thoát…
Hai bài thơ còn lại của liên khúc
hái sen, dành cho việc triết luận của tác giả. Hoa sen ai cũng ưa / Cuống sen
chẳng ai thích (Cộng tri liên liên hoa / Thùy giả liên liên cấn), cũng là sự
thường tình ở đời. Hoa sen để thưởng lãm, còn như thân cây sen, mấy ai dùng làm
gì, thường bỏ đi. Nhưng có một sự thật là thân cây sen có những sợi tơ bền /
Vấn vương không dứt được. Nghĩa là thân cây sen vẫn có giá trị sử dụng riêng,
người đời ít biết, nên thường coi rẻ. Nghĩa là hoa có giá trị của hoa, gương
sen có giá trị của gương, lá sen có giá trị của lá, còn thân cây sen vẫn có giá
trị của thân…Ví như ở đời, cao thấp khác nhau, nhưng ai cũng có giá trị của
riêng mình, đóng góp của riêng mình, chớ nên xem thường, chớ nên có thái độ “Hạ
mục vô nhân”. Phải chăng, Nguyễn Du muốn mượn ý này, để bàn về quan niệm nhân
sinh, để cảnh tỉnh người đời? Bài cuối cùng, lại nêu một ý tưởng khác, cũng xoay
quanh hình ảnh sen và công việc hái sen. Lá sen màu xanh xanh / Hoa sen dáng
xinh xinh, điều ấy ai cũng biết cả rồi. Nhưng mà Hái sen chớ đụng ngó / Năm sau
hoa chẳng sinh (Thái chi vật thương ngẫu / Minh niên bất phục sinh), thì đó lại
là lời nhắc nhở ân cần của tác giả. Ngó sen là biểu tượng của sự sinh sôi, biểu
tượng của tương lai, phải biết trân trọng, giữ gìn. Đấy chính là minh triết của
vũ trụ, đồng thời cũng thể hiện tinh thần nhân văn của bậc trí giả và tâm hồn
nhân hậu của thi nhân…
Chiêm bao thấy hái sen của Tố Như
quả là một bài thơ đẹp, một giấc mơ đẹp. Ở đấy, thấy hiện lên cảnh hái sen rất
thơ mộng, trong trẻo Tây hồ. Những hàm ẩn ý tình trong hương hoa, sắc hoa, cả
gương sen và thân sen nữa, phong phú, đằm thắm trữ tình và ngổn ngang những triết
lý nhân sinh sâu thẳm…
Hà
Nội-Mùa hạ năm 2012
V.B.L
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét