Khi Vương Đình Khánh viết "Chiều vín đổ bóng em"*
Đặng Văn Sinh
V
|
ới 48 bài, trong
đó có đến 40 bài là thơ tự do hoặc bảy chữ, "Chiều vín đổ bóng em", giống như một tín hiệu gửi đến người
đọc, những năm gần đây, các nhà thơ Bắc Giang thường ưa chuộng kiểu tư duy nghệ
thuật phóng khoáng mà không muốn bị hạn chế bởi niêm luật cứng nhắc của văn vần
truyền thống, nên chỉ dành một phần khá khiêm tốn cho lục bát. Nói cách khác,
lục bát đã đạt đến giới hạn cuối cùng của cái hay cái đẹp, vượt ra khỏi khả năng
trời cho con người rồi, muốn làm lục bát hay hơn nữa có lẽ phải nhờ đến những
thiên tài. 8 bài lục bát trên tổng số 48 bài, quả thật có hơi ít, nhưng thà ít
mà chất lượng còn hơn nhiều mà biến thành vè hoặc diễn ca, vừa tốn giấy mực vừa
làm mất thời gian của người đọc.
Cũng
phải nói ngay, "Chiều vín đổ bóng em"
là tập thơ không thuần nhất một phong cách. Nó là kết quả ngoài ý muốn của sự
tìm tòi, thể nghiệm, thỉnh thoảng có những câu vụt lóe sáng nhưng cũng có không
ít câu, thậm chỉ cả bài chỉ ở dạng trung bình. Dường như Vương Đình Khánh cũng
tiên lượng được sở trường sở đoản của mình, vì thế, anh viết khá kiệm lời, thay
vào đó là tập trung kiến tạo hình ảnh ngôn ngữ, hình ảnh tâm trạng trên một cái
nền suy tưởng mang sắc thái huyền ảo. Diễn ngôn của "Chiều vín đổ bóng em" không ồn ào lên gân, không đánh bóng từ
ngữ để làm dáng mà là những dòng tâm sự rút ra từ kinh nghiệm sống được diễn
đạt dưới dạng tự cảm của người trong cuộc như là số phận không thể tránh khỏi:
"Ta ngồi tựa nắng cũng gầy/ Tay ôm
đầy gió, giữ ngày chông chênh" (Vu vơ chiều), hay là: "Em tắm giặt giữa bao điều giả dối/ Tủi chiều
đời vớt cánh phù dung" (Lời níu gọi).
Mối
liên hệ nội tại giữa cảnh vật và tình người được Vương Đình Khánh xử lý như một
thủ pháp ẩn dụ kết hợp với những dòng tự sự có xu hướng triết lý làm câu thơ tự
nhiên sáng lên:
"Anh đi
Ngả vào em bóng núi
Thổi vào em gió ngàn"
(Sao anh không ở lại)
"Vứt bỏ những giận hờn đục đẽo
Lóe phía chân trời mong manh bóng anh"
(Lời níu gọi)
"Kìa ai gánh nặng mồ côi
Bước chân cuốn cả mưa rơi vào lòng"
(Thu phố)
"Trăng treo ở phía xa mờ
Thơ treo tôi phía vu vơ cái nghèo"
(Đời thơ)
Công
bằng mà nói, Vương Đình Khánh không có nhiều bài thơ hay mà chỉ có những câu
thơ hay. Anh mạnh ở lối cấu tứ từng đơn vị ngôn ngữ bất chợt thăng hoa, nhưng
cũng không ít bài thơ hoặc khổ thơ, cứ sắp đến phần kết, khi mạch cảm xúc đang
vận hành suôn sẻ thì bị chững lại bởi những câu thơ chẳng khác gì văn xuôi:
"Nuôi con vắt kiệt tuối xuân
Bằng nước mắt hao gầy
do
người chồng bỏ đi để lại"
(Không
hẹn)
"Có tiếng thét xung phong
Cùng lời thề quyết thắng
Và tiếng gọi:
'Mẹ
ơi hết giặc con về'"
(Tình đồng
đội)
"Mẹ đi núi em tìm sao thấy được
Nhịp chân mẹ về theo suối vang ngân"
(Ngóng mẹ)
"Thế thời còn lắm âu lo
Xin anh làm phúc truyền cho một bài"
(Anh Chí
Phèo)
Ngoại
trừ những bất cập phát sinh trong quá trình thể nghiệm hướng đi mới, "Chiều vín đổ bóng em" vẫn là tập
thơ hàm chứa những thông điệp nghệ thuật, không hiếm bài đa thanh, đa nghĩa,
khiến người đọc phải suy ngẫm. Hàng loạt những vấn đề tác giả ký thác vào những
con chữ dưới dạng "ảo hóa" cần được bóc tách để nhận dạng phong cách
nghệ thuật.
"Đơn côi" là khoảnh khắc tâm trạng
của khách "đa tình", là sự cô đơn trong một không gian cằn cỗi khi mà
anh ta nhận ra, ở đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn, thời gian cũng "Đơn côi như số phận". Có vẻ như sự
liên tưởng đến "định mệnh" là một thứ "bệnh" được gọi là
hoang tưởng lúc các thi nhân rơi vào hoàn cảnh bế tắc hay bão hòa cảm xúc:
"Đêm hè
Gió còng khô
Liếm sao trời vẫn khát
Ta rơi rơi
Không ẩn nơi mình"
(Đơn côi)
Trong
khi ấy, "Cảnh ngộ" lại như
một lát cắt ấn tượng của tác giả trong khoảnh khắc về một loại chợ người, không
phải bán sức lao động mà là bán thân xác mình được gọi một cách hình ảnh là
"chợ tạm". Hình thức diễn
đạt thuộc dạng trung tính bằng những câu đưa đẩy, nếu chỉ đọc lướt qua, thậm
chí còn không hiểu người viết muốn nói gì. Có thể đây cũng là ý đồ tác giả một
khi buộc phải tái hiện cảnh ngộ không mấy vui vẻ này. Anh đã góp một tiếng nói
giầu lòng nhân ái đến đám chị em làm nghề buôn phấn bán son của một người cầm
bút có lương tâm:
"Họ nhún nhảy
Múa may
Đua sắc hương
Thành
cơn gió
Qua chợ tạm
Cuốn đi..."
Tuy
nhiên, những vần thơ thuộc dạng trên không
nhiều. Những bài thơ viết về tình yêu của Vương Đình Khánh mới đóng vai
trò chủ đạo trong "Chiều vín đổ bóng
em". "Cầu bập bênh",
"Mầu yêu", "Sao anh không ở lại", "Em đợi", "Nhớ
tìm", "Hối tiếc"... là những ví dụ điển hình. Trong "Cầu bập bênh", ngay ở khổ đầu, tác
giả viết: "Rượu ủ từ thời dựng nước/
Hồn rừng trong lá men say/ Tay rót hay mắt em rót/ Nghiêng trời bồng bềnh trăng
mây". Đây là bài thơ có tứ đẹp, hình ảnh đẹp và ngôn ngữ đẹp. Đương
nhiên nó không mới, tách riêng ra chưa chắc đã hay, nhưng một khi được gộp lại,
tất cả những đơn vị ngôn ngữ cấu thành sẽ tạo nên hiệu hứng thẩm mỹ làm người
ta cảm được cái bồng bềnh như đang say của chủ thể trữ tình.
Nói
về các dạng thức của tình yêu, Vương Đình Khánh có những câu thơ, khổ thơ được
cấu trúc chỉ mang tính gợi. Câu kết thường không mấy rõ ràng mà lắm khi mông
lung, quẩn quanh như là được hình thành từ ảo giác:
"Người
lặng lẽ bỏ đi
Ngọn gió thôi lạc bước
Tôi khắc vào hồn cây
Đợi một ngày phía trước"
(Biết).
Khổ
thơ giống một lời nhắn nhủ, như là sự dẫn dụ người đọc khi nhà thơ sử dụng hai
hình ảnh khá đắt làm điểm tựa cho cả bài "Ngọn gió thôi lạc bước" và " Tôi khắc vào hồn cây".
Thơ
và tình yêu không phải lúc nào cũng song hành với nhau như đôi bạn tri âm.
Không ít thi nhân rơi vào hoàn cảnh tình vỡ mộng tan còn hồn thơ thì "quằn
quại":
"Nhịp tim đạp nhói đau thời trai
trẻ
Cõi đam mê vạn kiếp vẫn đâm chồi
Đời thấu khổ sao mà đa đoan thế
Xót hồn thơ quằn quại không lời"
Chỉ
với khổ thơ trên, "Chia tay"
là nỗi đau đến tận cùng của một người cầm bút vướng vào lưới tình. Thật ra
nguyên nhân tan vỡ của các cuộc tình đều na ná giống nhau nhưng cái cách đau
buồn sau sự tan vỡ thì mỗi người một kiểu. Có anh đau giả buồn vờ vì đã quá
chai sạn trong trường tình, tinh quái như một gã Sở Khanh, nhưng cũng có những
chàng ngu ngơ bị dư âm ấy ám ảnh suốt đời. Tuy nhiên "Chia tay" không phải là tất cả. Vương Đình Khánh còn đi xa hơn
trong cảm nhận về tình yêu khi anh viết:
"Bản còn đâu chìm trong sương phủ
Em ở đâu dò bước anh tìm"
(Chiều vín đổ bóng
em)
Bài
thơ ít nhiều đã thoát ra khỏi bút pháp tả thực, sẽ chuyển sang cấp độ ảo nhờ
những hình ảnh "chiều buông nhẹ tấm
chăn sương núi" nếu như tác giả không hạ một câu khá tầm thường:
"Ở trong ta nỗi nhớ đậu về".
Đây là một câu thơ "bẹt", nặng về kể lể mà thiếu tầm vóc tư tưởng.
May thay, ở khổ thứ hai, sau khi nhắc lại hình ảnh "sương phủ", một
nét đặc trưng của khung cảnh miền núi, tác giả gỡ lại được hai câu làm cho bài
thơ sáng lên:
"Leo lét bóng nhà sàn ngọn lửa
Ta vín nghiêng chiều, chiều vín đổ bóng
em"
Có vẻ
như "ảo hóa" chính là phong cách của Vương Đình Khánh. Thủ pháp này
còn được lặp lại ở khá nhiều bài trong tập. "Ảo hóa" kết hợp với xây
dựng hình tượng đôi khi phi lý sẽ là cặp đôi nâng bài thơ lên khỏi giới hạn
trần thuật.
Cũng
là một hình ảnh ấn tượng, nhưng ở cấp độ khác nhau, "Gùi thơ xuống núi" được hình thành từ một khung cảnh rừng đang
vào mùa gieo hạt trong sự hứng khởi của vạn vật tạo nên không gian sinh tồn
tràn đầy âm thanh và màu sắc:
"Hôm
nay
Tôi gùi thơ xuống núi
Ủ
cái bếp cũng vội
Bỏ
cái nương đang gieo hạt vào mùa
Mặc cái rừng nhớ xào xạc mà đi"
(Gùi thơ xuống
núi).
Đây
là bài thơ tự cảm sau khi tác giả chuyển được đối tượng ngoại cảnh vào tâm thức
của chủ thể bằng nguồn cảm hứng hướng nội.
Tuy
số lượng không nhiều nhưng lục bát Vương Đình Khánh đầy tâm trạng như một sự
giãi bày về thân phận con người trong những hoàn cảnh trớ trêu nên thường đượm nỗi
đắng cay. Có thể nói chất liệu lục bát của anh là những sợi tơ mành tâm trạng nhuốm
màu hoàng hôn dệt nên bức tranh gam trầm gợi cho ta cảm thấy cái se lạnh của
một chiều mưa thu:
"Con đường thăm thẳm người xa
Xênh xang gánh cả chiều tà mưa rơi
Kìa ai gánh nặng nỗi đời
Bước chân gánh cả mưa trôi vào
lòng"
(Thu phố)
Khi
viết lục bát, Vương Đình Khánh luôn chú ý đến nhịp điệu diễn tả tâm trạng qua
kỹ thuật chọn từ và gieo vần làm người đọc cũng rung cảm với nhịp tâm hồn nhà
thơ. "Tiếng lòng ơi ới chòng chành
về đêm" là một câu thơ hay ở cặp từ láy "ơi ới", "chòng
chành" tạo ra sự liên tưởng ngoài văn bản qua phương thức so sánh với
hình ảnh "tiếng gà chấp chới":
"Tiếng gà chấp chới sang canh
Tiếng lòng ơi ới chòng chành vào đêm
Đường xa một bóng vai mềm
Nổi chìm một kiếp giữa miền bể dâu"
(Vào đêm)
Đến
"lục bát hai câu"(Gót hồng),
Vương Đình Khánh tìm được tứ khá đẹp tuy không độc đáo khi anh tả người con gái
tắm suối bằng những hình ảnh "ngọn
gió ngây ngô", "thả lẳng lơ bóng mình". Tả thực mà như ảo,
ảo mà như thực. Đây là những câu lục bát có đẳng cấp không dễ làm nếu như người
viết không chịu tìm tòi và trải nghiệm:
"Ngượng gì ngọn gió ngây ngô
Nước trong người thả lẳng lơ bóng mình"
Còn
câu kết "Người đi hương thoảng lưng
đồi/ Mây chiều sông Lục xô trời đổ nghiêng" không chỉ tả cảnh mà còn
tả tình. Cái tình ẩn trong cảnh. Mây chiều sông Lục giống như một hoài niệm xa
đấy mà gần trong gang tấc. Có thể nói, hầu hết lục bát Vương Đình Khánh đều
buồn man mác, và chính cái buồn ấy làm nên vẻ đẹp của những câu thơ.
Nếu
xét về hình thức thì thơ Vương Đình Khánh khá là đa dạng, mà một trong số đó là
sử dụng kiểu cấu trúc của tục ngữ dân gian qua "Hoang mạc thời gian" và "Gùi thơ xuống núi". Trừ hai cầu đầu, "Hoang mạc thời gian" vận hành theo
nhịp thơ bốn chữ uốn lượn như dòng nước chảy. Bài thơ không biểu đạt một hiện
tượng cụ thể nào mà là một trạng thái tâm hồn trôi bồng bềnh giữa dòng vô thức,
ẩn dụ thân phận con người trong mối tương quan với vũ trụ, nhân sinh:
"Theo vết dòng sông
Vớt những câu thơ
Ghép thành bến đợi
Mặc nơi ngọn nguồn
Sóng chìm sóng nổi".
Giống
nhau về hình thức nhưng "Tự nhủ"
lại lại khác "Hoang mạc thời gian"
về nội dung biểu đạt. "Tự nhủ"
là một câu hỏi nghi vấn với chính mình về thân phận con người nhỏ bé trong
trong khoảnh khắc thời gian. Đó cũng chính là lời cảnh báo với nhân quần sau
khi con người đã tìm cách hủy diệt nhau qua những cuộc chiến được nhân danh bằng
đủ những lời hoa mỹ. Những câu thơ được đặt trong sự so sánh giữa cái hữu hạn
của một đời người với với cái vô cùng của vũ trụ: "Sao ta cứ đua chen/ Tìm con đường hủy diệt/ Sao ta cứ đam mê/ Tìm mục
tiêu chính mình/ Chiến tranh/ Ta có thói quen hay là ta quá dại?". Trong mối tương quan ấy, tác giả hơn một lần đề xuất mọi
người hãy chung sống hòa bình: "Ta
sống một đời tích tắc/ Chia vui một vòm trời xanh/ Cùng đau một cây gãy cành...".
"Chiều vín đổ bóng em" còn được xem
như là tập thơ của lòng nhân ái khi tác giả dành không ít bài viết về thân phận
con người trong đó có "Lộc đời".
"Lộc đời" thực chất là một
bài tự sự dưới dạng văn vần kể về một người bà cưu mang đứa cháu bị bỏ rơi từ
khi còn ẵm ngửa đến lúc trưởng thành dù phải trải qua trăm cay nghìn đắng.
Chuyện kể, sau hai mươi năm, đứa trẻ bất hạnh trở thành một cô gái xinh đẹp,
còn người bà đã chạm ngưỡng bảy mươi, coi đưa cháu nuôi như một thứ "lộc
trời". Chuyện nếu chỉ dừng lại ở đấy thì chưa thể gọi là thơ. Bài thơ chỉ
thực sự là thơ khi tác giả sử dụng hệ thống ngôn từ đầy hình ảnh biểu cảm là
lời kết cho một hành động nghĩa cử của người đàn bà có tấm lòng bồ tát:
"Thời gian của bà, thời gian của
cháu
Ai đợi ai một kiếp luân hồi
Cháu Thảo ơi! Hãy nhanh tay cho kịp
Đỡ bà cười mơ trọn giấc thiên thu".
Ngoài
thủ pháp "ảo hóa", vốn được xem như phong cách trong "Chiều vín
đổ bóng em, Vương Đình Khánh còn hay viết các bài thơ tự sự ít câu, ít từ như
một dạng triết lý thế sự nhân sinh. Loại thơ này phần nhiều nhan đề chỉ có một
từ nhưng nội hàm lại khá phong phú khi nó đề cập đến một triết lý sống, một
cách ứng xử văn hóa, đạo đức trong mối quan hệ xã hội. Trong bài "Biết" đã dẫn ở trên, từ mối tương
quan giữa "tôi" và "người" bởi một cuộc gặp gỡ bất chợt,
hai bên giả vờ làm như chưa từng quen
biết nhau, thế nhưng ở phần kết, tâm trạng nhân vật trữ tình lại tỏ ra bâng
khuâng khi "người ấy" bỏ đi: "Tôi khắc vào hồn cây/ Đợi một ngày phía trước". Rõ ràng, ngoài
tâm trạng của nhân vật "tôi" rất là phiếm định, tác giả còn đưa người
đọc đến một cảnh giới mông lung chỉ có thể cảm nhận bằng tưởng tượng chứ không
thể nhận thức lý tính. Đến "Chợt"
thì yếu tố triết luận đã gần như bao quát toàn bộ bài thơ. Triết lý thông qua
hình tượng dễ thấm vào lòng người hơn là triết lý ngôn từ khô khan. Bài thơ chỉ
có ba câu nói về sự không tương đồng giữa những kẻ may mắn trong khoảnh khắc
được giầu sang phú quý nhưng không chắc đã có nhân cách bởi còn thiếu một nền
tảng văn hóa và đạo đức. Họ có vẻ như nhân vật Trạng Lợn trong truyện cười dân
gian bỗng dưng gặp thời nhảy lên thành ông nọ bà kia như Đặng Dung đã viết
"Thời lai đồ điếu thành công dị".
Đó là mối liên hệ khá biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả. Những gì là ăn
may theo kiểu chụp giật sẽ không bền vững bởi sự thành đạt bao giờ cũng phải
trải qua một quá trình:
"Chợt nở tung như hạt vỡ
Chợt đời được lên ngôi
Nhưng không chợt được thành người".
"Chiều vín đổ bóng em" chưa phải là
tập thơ toàn bích, thậm chí đây đó còn tồn tại không ít tì vết, nhưng nó rất
đáng đọc bởi tác giả đã làm rung động lòng người bằng cách riêng của mình mà
một trong những bí quyết đó là sự trung thực đến tận cùng. Thơ Vương Đình Khánh
có cái thực trong cái ảo, cái ảo nâng hiện thực lên tạo thành vẻ trang nhã như
một bức tranh gam trầm, nhìn vẻ ngoài thì bàng bạc nhưng sâu lắng, dễ chinh phục
lòng người.
Chí Linh,
02 tháng 3 năm 2013
Đ.V.S
* Thơ Vương Đình Khánh, NXB Hội Nhà văn
2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét