KIẾN NGHỊ VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc góp ý kiến vào
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (dưới đây gọi tắt là Dự thảo), chúng tôi, những
người Việt Nam ký tên dưới đây, xin trình bày với Quốc hội và Uỷ ban Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp 1992 một số kiến nghị, đồng thời mong mỏi toàn thể đồng bào
trong và ngoài nước thẳng thắn nói lên ý kiến để nhân dân ta có một Hiến
pháp bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và sự phát triển bền vững của đất nước, mang
lại tự do hạnh phúc cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Hiến pháp của một quốc gia do dân làm chủ bảo đảm quyền
lực thực sự thuộc về nhân dân và được hình thành từ sự thỏa thuận giữa các
thành phần đa dạng trong xã hội. Dự thảo chưa thấu suốt bản chất của một hiến
pháp dân chủ, chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân với chính quyền
theo tinh thần thỏa thuận kiến tạo một môi trường có sự kiểm soát bên trong và
bên ngoài đối với quyền lực. Kiểm soát bên trong giữa các nhánh quyền lực nhà
nước bằng các cơ chế đối trọng kiềm chế lẫn nhau, các cơ quan lập pháp, hành
pháp và tư pháp không thể vượt quá giới hạn được ấn định. Kiểm soát từ bên
ngoài đối với công quyền được thực hiện bởi nhân dân với vai trò quan trọng
của xã hội dân sự mà tiền đề là các quyền tự do về ngôn luận, báo chí, lập
hội, hội họp, biểu tình,...
Hiến pháp phải mang tính chính đáng được đo bằng nhiều
tiêu chí. Thứ nhất, hiến pháp phải có mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền,
kiến tạo tự do, dân chủ, công bằng, hạnh phúc; đồng thời đoàn kết toàn dân, loại
bỏ mọi sự chia rẽ hay áp bức, hướng đến sự phát triển bền vững của dân tộc. Thứ
hai, hiến pháp phải thể hiện ý chí chung của nhân dân, thể hiện sự đồng thuận
của nhân dân để lập ra các cơ quan nhà nước. Thứ ba, hiến pháp phải được xây
dựng theo các nguyên tắc pháp luật phổ biến của thế giới văn minh, phù hợp với
các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Theo tinh thần đó, trước mắt chúng tôi kiến nghị 7 điểm
như sau.
Kiến nghị thứ nhất về Lời nói đầu và về Chương I
Lời nói đầu của Dự thảo không làm rõ mục tiêu của hiến
pháp và chủ thể quy định hiến pháp. Hiến pháp cần xác định mục tiêu trước hết
là để bảo đảm sự an toàn, tự do và hạnh phúc của mọi người dân. Một bản hiến
pháp tốt phải hạn chế sự lạm quyền của những người cầm quyền, tạo dựng khuôn
khổ cho các sinh hoạt chính trị, kinh tế và văn hoá diễn ra một cách an bình và
hiệu quả. Hiến pháp cũng phải hướng đến hạnh phúc của các thế hệ tương lai.
Quyền lập hiến (xây dựng, ban hành hay sửa đổi hiến pháp)
là quyền sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải thuộc về
toàn dân, chứ không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc
hội. Lời nói đầu cần xác định rõ chủ thể quyết định, ban hành hiến pháp là
nhân dân.
Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của
bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào.
Lời nói đầu của Dự thảo không đáp ứng được các yêu cầu
trên nên chúng tôi đề nghị bỏ và thay bằng:
“Kế tiếp nền văn
hiến và truyền thống bất khuất của các thế hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ
đất nước, đã đấu tranh vì độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân, vì
một xã hội dân chủ, công bằng và pháp quyền, vì tự do và hạnh phúc của các thế
hệ hiện tại và tương lai,
chúng tôi, nhân dân Việt Nam, quyết định xây dựng và ban
hành bản Hiến pháp này.”
Trong Chương I, cần nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền nhân
dân đòi hỏi phải tôn trọng ý của dân tộc. Nếu hiến pháp thực sự do nhân
dân quyết định thì việc định trước vai trò lãnh đạo nhà nước và xã
hội thuộc về một tổ chức chính trị hay một tầng lớp là trái với quyền làm
chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và ngược với bản
chất của một nhà nước pháp quyền.
Chủ thể nào lãnh đạo xã hội sẽ do nhân dân bầu
chọn ra trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ. Một chính đảng
thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại
trong các cuộc bầu cử như vậy. Hiến pháp của Liên Xô năm 1977 quy định ở
Điều 6 vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã
hội đã không tránh được sự sụp đổ của chế độ Xô-viết khi không còn
lòng tin của dân.
Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù
hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng
đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam
trước bối cảnh hiện nay của đất nước.
Ý kiến nêu trên được tiếp thu sẽ tạo cơ hội cho Đảng
Cộng sản Việt Nam lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành
lực lượng lãnh đạo chính trị được xã hội chấp nhận.
Kiến nghị thứ hai về quyền con người
Một mục đích của việc thành lập Nhà nước là để bảo vệ các
quyền đương nhiên của con người.
Dự thảo đã điều chỉnh thứ tự để đề cao các quyền này so
với Hiến pháp hiện hành, nhưng lại có nhiều điểm chưa phù hợp với các quy định
và chuẩn mực quốc tế về quyền con người; như các quy định trong Dự thảo về giới
hạn quyền (Điều 15), “không lợi dụng quyền con người, quyền công dân” (Điều
16), “quyền không tách rời nghĩa vụ” (Điều 20). Dự thảo còn quy định quá nhiều
nghĩa vụ một cách tùy tiện (Điều 41, Điều 42, Điều 49,…). Việc nhấn mạnh trong
Dự thảo các lý do về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn
định chính trị, việc đưa cụm từ “theo quy định của pháp luật”, ... nhằm hạn chế
những quyền đó sẽ mở đường cho việc nhân danh hiến pháp để vi phạm quyền con
người, đàn áp các công dân thực thi quyền tự do như đã diễn ra trong thực tế
những năm qua ở nước ta.
Chúng tôi yêu cầu sửa Dự thảo theo đúng tinh thần của
Tuyên ngôn về Quyền Con người năm 1948 và các công ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia.
Nếu các quyền này được ghi trong Hiến pháp mà không được
thực thi nghiêm túc như hiện nay, thì việc quy định các quyền ấy cũng trở nên
vô nghĩa. Vì vậy chúng tôi yêu cầu Hiến pháp quy định thành lập một Ủy ban Quốc
gia về Quyền Con người hoạt động độc lập.
Kiến nghị thứ ba về sở hữu đất đai
Chế độ sở hữu tư nhân về đất đai đã tồn tại từ lâu trên
đất nước ta. Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân kể từ Hiến pháp Việt
Nam 1980 là sự sao chép Hiến pháp Liên Xô, một điều hoàn toàn xa lạ với nhân
dân Việt Nam và đã gây ra rất nhiều bất ổn xã hội. Điều 57 Dự thảo tiếp tục
khẳng định đất đai “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” là
duy trì quy định sai trái, bỏ qua những vấn đề ngày càng trầm trọng do quy định
này gây ra mà hàng triệu khiếu nại, khiếu kiện về đất đai trong những năm qua
chỉ là phần nổi của tảng băng chìm hết sức nguy hiểm.
Không thừa nhận sở hữu tư nhân, tập thể, cộng đồng về đất
đai cùng tồn tại với sở hữu nhà nước là tước đoạt một quyền tài sản quan trọng
bậc nhất của người dân. Đánh đồng sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân về đất
đai là tạo điều kiện cho quan chức các cấp chính quyền tham nhũng, lộng quyền,
bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp cùng trục lợi, gây thiệt hại cho nhân
dân, đặc biệt là nông dân.
Dự thảo còn “hợp hiến hóa” việc thu hồi đất, trong đó lại
mở rộng phạm vi áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội; đây là một
sự thụt lùi so với Hiến pháp 1992 và có thể gây bùng nổ bất ổn xã hội.
Vì thế chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 57 của Dự thảo,
trở lại như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Có thể quy định như sau: “Sở hữu
tư nhân, tập thể, cộng đồng và nhà nước về đất đai được tôn trọng. Nhà nước có
trách nhiệm bảo vệ và thống nhất quản lý đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản
và các tài nguyên, nguồn lợi khác ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các
tài sản khác do Nhà nước đầu tư.”
Thay thế quy định thu hồi đất bằng trưng mua đất và không
áp dụng cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội như nêu trong Điều 58 của Dự
thảo.
Kiến nghị thứ tư về tổ chức Nhà nước
Tổ chức bộ máy Nhà nước phải phân biệt rạch ròi các nhánh
lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ quan hiến định khác. Tất cả các
cơ quan nhà nước phải tuân thủ Hiến pháp và luật. Các nhánh quyền lực ràng
buộc, chế ước lẫn nhau nhưng không thể bị chi phối bởi bất kỳ một tổ chức hay
cá nhân duy nhất nào, nghiêm cấm mọi sự độc quyền quyền lực. Đặc biệt, hệ thống
tư pháp phải được bảo đảm trên thực tế quyền xét xử độc lập, chỉ dựa vào Hiến pháp
và luật. Tòa án Hiến pháp phải được thành lập, có chức năng phán quyết, chứ
không phải là tư vấn, kiến nghị như chức năng của Hội đồng Hiến pháp được quy
định trong Dự thảo.
Kiến nghị thứ năm về lực lượng vũ trang
Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích của
bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang
chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân. Lực lượng
vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành
với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo. Chúng tôi yêu cầu
bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kiến nghị thứ sáu về trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp
Quyền lập hiến là quyền của toàn dân, phải phân biệt với
quyền lập pháp của Quốc hội. Vì vậy phải có trưng cầu dân ý để phúc quyết Hiến
pháp. Chúng tôi đề xuất quy định trong Hiến pháp: “Bảo đảm quyền phúc quyết của
nhân dân đối với Hiến pháp, thông qua trưng cầu dân ý được tổ chức thật sự minh
bạch và dân chủ với sự giám sát của người dân và báo giới.”
Kiến nghị thứ bảy về thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp
Việc lấy ý kiến đóng góp của toàn dân về sửa đổi Hiến pháp
là một việc hệ trọng đến vận mệnh quốc gia, phải được tiến hành một cách nghiêm
chỉnh, không thể tắc trách, lấy lệ. Vì vậy, thời hạn lấy ý kiến của nhân dân
chỉ trong vòng ba tháng là quá ngắn, dễ dẫn đến tình trạng làm một cách hình
thức cho qua chuyện. Vì vậy chúng tôi kiến nghị gia hạn thời gian lấy ý kiến
của nhân dân đến hết năm 2013, đồng thời khuyến khích đề xuất các dự thảo khác
để Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cùng toàn thể đồng bào tham khảo,
so sánh, thảo luận nhằm xây dựng một bản hiến pháp phù hợp nhất cho quốc gia.
(*)
Sửa Hiến pháp theo tinh thần của các kiến nghị nêu trên sẽ
phát huy dân chủ và hoà hợp dân tộc – những đòi hỏi hết sức bức xúc của nhân
dân trong giai đoạn trước mắt, cũng như cho sự phát triển bền vững lâu dài của
đất nước.
Chúng tôi tha thiết mong mỏi đồng bào trong và ngoài nước
hưởng ứng bản Kiến nghị này bằng cách đăng ký tham gia ký tên theo địa chỉ thư
điện tử: kiennghisuadoihienphap2013@gmail.com
Hà Nội, ngày 19 tháng 1 năm 2013
Chú thích: (*) Theo tinh thần đó, một số chuyên gia luật ở trong
nước đã soạn một dự thảo hiến pháp được gửi kèm Kiến nghị này như một tài liệu
để tham khảo và thảo luận
DANH SÁCH NGƯỜI KÝ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP 1992
Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu, Hà Nội
Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức yêu nước TP
Hồ Chí Minh, TP HCM
Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM
Nguyễn Huệ Chi, GS, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện
Văn học, Hà Nội
Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập báo Lao động, TP HCM
Phạm Vĩnh Cư, nhà nghiên cứu, Hà Nội
Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
Lê Đăng Doanh, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ
tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM
Nguyễn Văn Dũng, nhà văn, võ sư, Huế
Hồ Ngọc Đại, GS TS, nhà giáo, Hà Nội
Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương
Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, nguyên Phó Chủ
tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, đại biểu Hội đồng Nhân dân TP Hồ
Chí Minh khóa 4, 5, TP HCM
Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
Lê Hiền Đức, Giải thưởng Liêm chính 2007, Tổ chức Minh
bạch Quốc tế, Hà Nội
Phan Hồng Giang, TSKH, Hà Nội
Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Phó Giám đốc Tổng công
ty Du lịch Thành phố (Saigontourist), TP HCM
Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Nguyễn Gia Hảo, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng
Chính phủ Võ Văn Kiệt, Hà Nội
Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt
nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân
vận Mặt trận, Thành uỷ TP Hồ Chí Minh, TP HCM
Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thừa Thiên -
Huế, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế
Nguyễn Văn Hồng (tức Cung Văn), nguyên Tổng Thư ký Ban
chấp hành Sinh viên đoàn Đại học Văn khoa Sài Gòn 1964-1965, Đà Nẵng
Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng,
Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đà Nẵng
Trần Ngọc Kha, nhà báo, Hà Nội
Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, nguyên
thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên
Viện IDS, TP HCM
Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ
tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du
lịch Bình Quới, TP HCM
Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội
Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Ban Dân vận Trung ương,
Hà Nội
Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, Đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên
Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
Phạm Gia Minh, TS, Hà Nội
Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải
phóng, TP HCM
Nguyên Ngọc, nhà văn, nguyên thành viên Viện IDS, Hội An
Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Chủ tịch
Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, TP HCM
Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ
tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn, Hà Nội
Phạm Đức Nguyên, PGS TS, giảng viên cao cấp Đại học, Hà
Nội
Hồ Ngọc Nhuận, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh, nguyên Giám
đốc chính trị nhật báo Tin sáng, TP HCM
Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
Hoàng Xuân Phú, GS Viện Toán học, Hà Nội
Trần Việt Phương, nguyên trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng,
nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Nguyễn Đăng Quang, nguyên Đại tá Công an, Hà Nội
Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ
Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM
Trần Đình Sử, GS TS, Hà Nội
Nguyễn Trọng Tạo, nhà văn, Hà Nội
Lê Văn Tâm, TS, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam tại
Nhật Bản, Nhật Bản
Trần Công Thạch, hưu trí, TP HCM
Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
Trần Thị Băng Thanh, PGS TS, Hà Nội
Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
Đào Tiến Thi, thạc sĩ, Hà Nội
Nguyễn Minh Thuyết, GS TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn
hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, Hà Nội
Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội
Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn
Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn
Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, nguyên Chủ tịch Viện IDS, Hà
Nội
Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
Nguyễn Viện, nhà văn, TP HCM
Nguyễn Hữu Vinh, doanh nhân, Hà Nội
Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, Huế
Nguyễn Đông Yên, GS TS, Viện Toán học, Hà Nội
Nguyễn Phú Yên, nhạc sĩ, TP HCM
Tài liệu để tham khảo, thảo luận:
DỰ
THẢO HIẾN PHÁP 2013
LỜI NÓI ĐẦU
Kế tiếp nền văn hiến và truyền thống bất khuất của các thế
hệ tiền nhân đã dựng xây và bảo vệ đất nước, đã đấu tranh vì tự do và độc lập
của dân tộc,
vì một xã hội công bằng, dân chủ và tôn trọng pháp quyền,
vì mục tiêu hạnh phúc và tự do của các thế hệ hiện tại và tương lai,
chúng tôi, nhân dân Việt Nam, thông qua các đại diện của
mình, xây dựng bản Hiến pháp này.
CHƯƠNG I. CÁC
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Chủ quyền quốc gia
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, có chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.
Điều 2. Chủ quyền nhân dân
Chủ quyền Việt Nam thuộc về nhân dân và tất cả các quyền
lực nhà nước xuất phát từ nhân dân. Quyền lập hiến là một quyền không thể bị
tước đoạt của nhân dân.
Điều 3. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là quốc gia thống nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển. Nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, có quyền phát huy những
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
4. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện chính sách phát
triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội
lực, hội nhập vào sự phát triển chung của đất nước.
Điều 4. Công dân
1. Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Quốc
tịch Việt Nam được luật quy định.
2. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất khỏi lãnh thổ
Việt Nam, giao nộp cho nhà nước khác.
3. Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài.
4. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận của
cộng đồng dân tộc Việt Nam.
5. Người gốc Việt Nam có quốc tịch nước khác hoặc chưa có
quốc tịch nước nào có quyền có quốc tịch Việt Nam.
6. Địa vị của người nước ngoài được đảm bảo theo quy định
của luật pháp quốc tế và điều ước quốc tế.
Điều 5. Các điều ước quốc tế
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận, kế thừa và tôn
trọng các điều ước quốc tế đã được các chính quyền Việt Nam trước đây ký kết và
ban hành không trái với các hiến pháp tương ứng và các quy tắc chung được luật
pháp quốc tế công nhận vào thời điểm đó.
2. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thừa nhận bất cứ điều
ước, thỏa thuận hay tuyên bố nào mà các chính quyền Việt Nam trước đây đã ký
kết hoặc đưa ra một cách bí mật, không đúng thẩm quyền hoặc không đúng theo các
thủ tục pháp luật vào thời điểm đó.
3. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thừa nhận bất cứ điều
ước, thỏa thuận hay tuyên bố do bất cứ đảng phái chính trị, tổ chức phi nhà
nước hay cá nhân nào đã ký kết hoặc đưa ra, một cách bí mật hay công khai, liên
quan đến chủ quyền hay lãnh thổ Việt Nam.
Điều 6. Tôn trọng hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân
1. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nỗ lực duy trì hòa bình quốc
tế và từ bỏ chiến tranh xâm lược.
2. Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và giữ gìn an ninh quốc gia là
nghĩa vụ thiêng liêng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
3. Các lực lượng vũ trang được trao sứ mệnh thiêng liêng
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
4. Các lực lượng vũ trang phải duy trì tính trung lập về
chính trị, đặt lợi ích của nhân dân lên trước bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào.
Điều 7. Tính chất dân sự của lực lượng cảnh sát
Lực lượng cảnh sát có sứ mệnh thực thi luật pháp và giữ
gìn trật tự. Cảnh sát thuộc lĩnh vực dân sự, không thuộc về các lực lượng vũ
trang.
Điều 8. Trách nhiệm của công chức
1. Công chức là công bộc của nhân dân và chịu trách nhiệm
trước nhân dân.
2. Địa vị và tính trung lập chính trị của công chức được
đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Điều 9. Đảng phái chính trị
1. Các đảng phái chính trị được tự do thành lập và hoạt
động theo các nguyên tắc dân chủ. Quyền đối lập chính trị được tôn trọng.
2. Pháp luật bảo đảm sự bình đẳng giữa các đảng phái chính
trị.
Điều 10. Nền kinh tế quốc dân
1. Nền kinh tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dựa trên sự
tôn trọng tự do và sáng kiến của các doanh nghiệp và cá nhân trong đời sống
kinh tế.
2. Nhà nước có thể quy định và điều phối các hoạt động
kinh tế nhằm duy trì sự tăng trưởng cân bằng, bền vững và ổn định, nhằm phân
phối thu nhập, ngăn chặn sự thống lĩnh thị trường và lạm quyền kinh tế.
3. Nhà nước có nghĩa vụ thúc đẩy sự phát triển của các
ngành kinh tế để có nền kinh tế quốc gia cân đối. Nhà nước thúc đẩy kinh tế
bằng việc phát triển khoa học, công nghệ, thông tin, nguồn nhân lực và khuyến
khích sáng tạo.
Điều 11. Quốc kỳ, quốc huy, quốc ca, quốc khánh và thủ đô
1. Quốc kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình chữ nhật,
chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm
cánh.
2. Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình tròn, nền
đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, chung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa
bánh xe răng và dòng chữ: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3. Quốc ca nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhạc và lời
của bài “Tiến quân ca”.
4. Ngày Quốc khánh là Ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9
năm 1945.
5. Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hà Nội.
CHƯƠNG II. QUYỀN
CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
Điều 12. Nguyên tắc tôn trọng các quyền con người
1. Ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các quyền con người,
được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế (1948) và các điều ước quốc
tế về quyền con người khác mà Việt Nam là thành viên, được tôn trọng và bảo vệ.
2. Các cơ quan nhà nước, công chức và viên chức có nghĩa
vụ tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong các lĩnh vực dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Điều 13. Quyền bình đẳng
1. Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do mà
không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào dựa vào giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo,
quan điểm, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các
yếu tố khác.
2. Các nhóm thiểu số được ưu tiên bảo vệ.
Điều 14. Quyền sống, tự do và an toàn cá nhân
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.
Quyền sống trong một môi trường trong lành của mọi người phải được tôn trọng và
bảo vệ.
Điều 15. Tự do không bị làm nô lệ
Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như
nô lệ. Mọi hình thức nô lệ và buôn bán người đều bị cấm.
Điều 16. Quyền không bị tra tấn và các quyền trong lĩnh
vực tư pháp hình sự
1. Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn
ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt, giữ hay giam giữ một cách tuỳ tiện.
Trong vòng 24 giờ kể từ khi bị bắt, người bị bắt phải được đưa ra trước một tòa
án để xem xét phê chuẩn hoặc hủy bỏ việc bắt giữ.
3. Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền
được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại
một phiên toà xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần
thiết để bào chữa cho mình.
4. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi nào
không cấu thành một tội phạm hình sự theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc
tế vào thời điểm thực hiện hành vi đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức
hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện.
Điều 17. Quyền được tòa án bảo vệ và quyền được xét xử
công bằng
1. Mọi người đều có quyền được các toà án có thẩm quyền
bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền
cơ bản của họ đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.
2. Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng,
công khai bởi một toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa
vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ.
Điều 18. Bảo vệ danh dự, uy tín và quyền riêng tư
1. Danh dự và uy tín cá nhân của mọi người được tôn trọng.
2. Cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở và thư tín của mọi
người được tôn trọng.
Điều 19. Quyền tự do đi lại và tự do cư trú
1. Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú
trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia.
2. Mọi người đều có quyền rời khỏi và quyền trở về Việt
Nam.
Điều 20. Quyền kết hôn
1. Mọi người khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia
đình mà không có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo hay
giới tính.
2. Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn
và tự nguyện của cặp vợ chồng tương lai.
Điều 21. Quyền sở hữu
1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản tư nhân hoặc sở
hữu chung với người khác. Không ai bị tước đoạt tài sản một cách tuỳ tiện.
2. Đất đai có thể thuộc sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở
hữu cộng đồng hoặc sở hữu nhà nước.
Điều 22. Tư do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn
giáo.
Điều 23. Tự do ngôn luận, biểu tình, hội họp và lập hội
1. Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến
bằng mọi hình thức. Tư nhân có quyền ra báo, xuất bản.
2. Mọi người đều có quyền tự do biểu tình, hội họp một
cách ôn hoà.
3. Mọi người đều có quyền tự do lập hội. Không ai bị ép
buộc phải tham gia vào bất cứ tổ chức nào.
Điều 24. Quyền tham gia chính trị
Mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý đất nước, một
cách trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu mà họ tự do lựa chọn trong các cuộc
bầu cử.
Điều 25. Quyền hưởng an sinh xã hội
Mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội.
Điều 26. Quyền lao động và nghiệp đoàn
1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn
nghề nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được
bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp.
2. Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho
những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
3. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù
lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng
đáng với nhân phẩm.
4. Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập các
nghiệp đoàn để bảo vệ các quyền lợi của mình.
5. Quyền đình công của người lao động được bảo đảm bằng
luật.
Điều 27. Quyền có mức sống thích đáng
1. Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích
đáng, đủ để đảm bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, cũng như có
quyền được bảo hiểm trong trường hợp thất nghiệp, đau ốm, góa bụa, già hoặc
thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnh khách quan vượt quá khả năng đối
phó của họ.
2. Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và
giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em, dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được
hưởng sự bảo trợ xã hội như nhau.
Điều 28. Quyền học tập
Mọi người đều có quyền học tập. Giáo dục tiểu học là bắt
buộc và miễn phí.
Điều 29. Quyền về văn hóa
1. Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá
của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học
cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học.
2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật
chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật
nào mà người đó là tác giả.
Điều 30. Bảo vệ người tiêu dùng
Nhà nước phải có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng.
Điều 31. Nguyên tắc chung của nghĩa vụ
Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng. Khi
hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn
chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng
đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu
chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân
chủ.
Điều 31. Nghĩa vụ nộp thuế
Mọi công dân có nghĩa vụ nộp thuế theo các điều kiện luật
định.
Điều 32. Bảo vệ Tổ quốc và tri ân những người có công
1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng. Mọi công dân
đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
2. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tôn vinh công lao
của tất cả những người đã hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc, ghi nhận và tôn
vinh công lao của các thương binh, các cựu chiến binh bất luận họ đã phục vụ
trong chính thể nào trong quá khứ và có chính sách hỗ trợ họ trong giáo dục,
đào tạo nghề và trong mưu sinh.
Điều 33. Nghĩa vụ quân sự
Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia lực
lượng vũ trang dự bị theo luật định.
CHƯƠNG III. LẬP
PHÁP
Điều 34. Quốc hội
1. Quyền lập pháp được nhân dân ủy quyền cho Quốc hội.
Quốc hội bao gồm Hạ viện và Thượng viện.
2. Thành viên của Quốc hội là các nghị sĩ, gồm Hạ nghị sĩ
và Thượng nghị sĩ. Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ do nhân dân bầu ra thông qua
bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
3. Không ai có thể đồng thời là Hạ nghị sĩ và Thượng nghị
sĩ.
4. Quốc hội có quyền lập pháp, phê chuẩn việc bổ nhiệm
lãnh đạo các cơ quan hành pháp, bổ nhiệm các thẩm phán, lãnh đạo các cơ quan
hiến định độc lập theo quy định của Hiến pháp và luật.
Điều 35. Hạ nghị sĩ
1. Các Hạ nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm và có thể được bầu
lại.
2. Mỗi đơn vị bầu cử được bầu 1 (một) Hạ nghị sĩ.
3. Đơn vị bầu cử Hạ nghị sĩ gồm các đơn vị hành chính cơ
sở (cấp xã) nằm trong một vùng sao cho các đơn vị có dân số xấp xỉ ngang nhau.
4. Số đơn vị bầu cử của một đơn vị hành chính cấp tỉnh
được tính bằng số nguyên làm tròn của con số được tính bằng dân số của đơn vị
cấp tỉnh đó (theo tổng điều tra dân số gần nhất) nhân với 250 rồi chia cho dân
số toàn quốc. Một đơn vị hành chính cấp tỉnh có ít nhất một đơn vị bầu cử.
5. Mọi công dân đủ 25 tuổi trước ngày bầu cử có thể là ứng
cử viên Hạ nghị sĩ tại một đơn vị bầu cử nếu: (a) có được chữ ký của 10 ngàn cử
tri ủng hộ, hoặc (b) đã từng là Nghị sĩ, hoặc (c) được một đảng chính trị đề
cử.
6. Tuy các Hạ nghị sĩ được bầu theo từng đơn vị bầu cử, họ
đại diện không chỉ cho người dân của đơn vị bầu cử ấy mà cho người dân cả nước.
Điều 36. Thượng nghị sĩ
1. Các Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6 năm và có thể được bầu
lại.
2. Mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương) là một đơn vị bầu cử Thượng nghị sĩ.
3. Mọi công dân đủ 30 tuổi trước ngày bầu cử có thể là ứng
cử viên Thượng nghị sĩ tại một đơn vị bầu cử Thượng nghị sĩ nếu: (a) có được
chữ ký của 10 ngàn cử tri ủng hộ, hoặc (b) đã từng là Nghị sĩ, hoặc (c) được
một đảng chính trị đề cử.
4. Số Thượng nghị sĩ mà mỗi đơn vị được bầu cử là 2. Đối
với những tỉnh có người dân tộc thiểu số quá 20 % dân số tỉnh đó, thì bắt buộc
phải có 1 Thượng nghị sĩ là người dân tộc thiểu số.
5. Trong lần bầu Thượng nghị sĩ đầu tiên, mỗi đơn vị bầu
cử, bằng bốc thăm, chọn ra 1 Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm và 1 Thượng nghị
sĩ có nhiệm kỳ 6 năm, sao cho cứ 3 năm sẽ tiến hành bầu lại một nửa số Thượng
nghị sĩ của Thượng viện.
6. Tuy các Thượng nghị sĩ được bầu theo từng đơn vị bầu
cử, họ đại diện không chỉ cho người dân của đơn vị bầu cử ấy mà cho người dân
cả nước.
Điều 37. Bầu cử Thượng viện và Hạ viện
1. Việc bầu cử toàn bộ các Hạ nghị sĩ và các Thượng nghị
sĩ lần đầu tiên theo Hiến Pháp này được tiến hành trong vòng 100 ngày kể từ
ngày bản Hiến pháp có hiệu lực.
2. Nghị sĩ hết nhiệm kỳ vào ngày tính đúng 36 tháng đối
với các Hạ nghị sĩ và Thượng nghị sĩ được bầu lần đầu có nhiệm kỳ 3 năm kể từ
ngày tuyên thệ nhậm chức; vào ngày tính đúng 72 tháng đối với các Thượng nghị
sĩ có nhiệm kỳ 6 năm kể từ ngày tuyên thệ nhậm chức.
3. Trong vòng 100 ngày trước khi các Nghị sĩ hết nhiệm kỳ,
phải tổ chức bầu cử các Nghị sĩ mới cho nhiệm kỳ tiếp theo. Nếu đơn vị bầu cử
không hội đủ số người đắc cử theo quy định thì phải tổ chức bầu lại từ các ứng
viên thất cử của đợt bầu trước đó trong vòng 15 ngày sau khi cuộc bầu cử trước
kết thúc. (Các) đợt bầu cử lại này được tiến hành cho đến khi chọn đủ số người
đắc cử theo quy định và trong mọi trường hợp phải kết thúc trước ngày các Nghị
sĩ đương nhiệm hết nhiệm kỳ 15 ngày.
4. Nếu khuyết Nghị sĩ vì bất cứ lý do gì, thì (a) nếu thời
gian nhiệm kỳ còn lại dưới 1 năm sẽ không có bầu cử bổ sung; hoặc (b) nếu thời
gian nhiệm kỳ còn lại bằng hay trên 1 năm phải tổ chức bầu bổ sung tại đơn vị
bầu cử đó cho đủ số bị khuyết trong vòng 60 ngày kể từ khi các Viện xác nhận sự
khuyết. Nhiệm kỳ của người được bầu bổ sung sẽ chấm dứt cùng với nhiệm kỳ của
các Nghị sĩ đương nhiệm.
5. Thủ tục ứng cử, tranh cử, bầu cử được quy định chi tiết
trong luật bầu cử.
Điều 38. Sự chuyên trách, tuyên thệ và quyền miễn trừ của
Nghị sĩ
1. Trong khi đương nhiệm các Nghị sĩ không được đồng thời
giữ bất kỳ chức vụ nào khác tại bất kỳ cơ quan, tổ chức công hay tư, trong các
lực lượng vũ trang hay cảnh sát. Nếu đã giữ các chức vụ như vậy trước khi được
bầu làm Nghị sĩ thì phải chính thức từ nhiệm các chức vụ đó trước khi thực hiện
nhiệm vụ Nghị sĩ và việc từ chối từ nhiệm sẽ được coi là từ bỏ nhiệm vụ Nghị
sĩ.
2. Các Nghị sĩ được trả lương từ Ngân khố quốc gia.
3. Các Nghị sĩ, trước khi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, sẽ
phải tuyên thệ trước mỗi Viện: “Tôi long trọng tuyên thệ thực hiện các nhiệm vụ
của mình một cách mẫn cán và tận tâm, để bảo vệ chủ quyền và các lợi ích của
nhân dân và đất nước; làm mọi việc trong thẩm quyền của mình vì sự phồn vinh
của đất nước và hạnh phúc của nhân dân; tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Việc từ chối tuyên thệ sẽ được coi là từ bỏ nhiệm
vụ Nghị sĩ.
4. Nghị sĩ sẽ không phải chịu trách nhiệm bên ngoài nghị
viện về ý kiến chính thức đã nêu hoặc về việc bỏ phiếu của mình tại Nghị viện.
5. Không Nghị sĩ nào có thể bị bắt hoặc giam giữ mà không
được sự đồng ý của với đa số 2/3 của các Nghị sĩ của Nghị viện mà Nghị sĩ đó là
thành viên, ngoại trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Điều 39. Tính liêm chính và tránh xung đột lợi ích của
Nghị sĩ
1. Nghị sĩ có nghĩa vụ duy trì chuẩn mực cao về liêm
chính, phải ưu tiên lợi ích quốc gia và thực hiện các nhiệm vụ của mình phù hợp
với lương tâm.
2. Nghị sĩ không được lạm dụng chức vụ, quyền hạn của
mình, không được đòi hỏi các lợi ích về tài sản hay địa vị, hoặc giúp người
khác thu lợi, thông qua thông đồng hay sự sắp xếp của nhà nước, các tổ chức
công quyền hay các ngành công nghiệp.
3. Nghị sĩ phải khai báo tài sản của mình theo luật định.
4. Nghị sĩ, vợ hay chồng của Nghị sĩ, cũng như các doanh
nghiệp do họ sở hữu hay chiếm quyền chi phối, không thể tham dự các cuộc đấu
thầu hay ký hợp đồng với các cơ quan công quyền và các doanh nghiệp do nhà nước
sở hữu hay chiếm quyền chi phối.
Điều 40. Tổ chức Hạ viện
1. Mỗi Hạ nghị sĩ có một lá phiếu khi biểu quyết tại Hạ viện.
2. Mọi quyết định của Hạ viện được coi là được thông qua
nếu được đa số phiếu, trừ các quyết định đặc biệt nêu trong Hiến pháp này đòi
hỏi đa số 2/3 số phiếu.
3. Hạ viện bầu ra một Chủ tịch và một Phó Chủ tịch.
4. Nếu vì bất cứ lý do gì mà Chủ tịch Hạ viện bị khuyết,
thì Phó Chủ tịch tạm thời làm quyền Chủ tịch cho đến khi Hạ viện bầu ra Chủ
tịch mới trong vòng 60 ngày.
5. Hạ viện quyết định về tổ chức nội bộ của mình, có thể
thể lập ra Văn phòng Hạ viện, các ủy ban thường trực hay lâm thời.
Điều 41. Tổ chức Thượng viện
1. Mỗi Thượng nghị sĩ có một lá phiếu khi biểu quyết tại
Thượng viện.
2. Mọi quyết định của Thượng viện sẽ coi là được thông qua
nếu được đa số phiếu tán thành, trừ các quyết định đặc biệt nêu trong Hiến pháp
này đòi hỏi đa số 2/3 số phiếu.
3. Thượng viện bầu ra một Chủ tịch và một Phó Chủ tịch.
4. Nếu vì bất cứ lý do gì mà Chủ tịch Thượng viện bị
khuyết, thì Phó Chủ tịch tạm thời làm quyền Chủ tịch cho đến khi Thượng viện
bầu ra Chủ tịch mới trong vòng 60 ngày.
5. Thượng viện quyết định về tổ chức nội bộ của mình, có
thể thể lập ra Văn phòng Thượng viện, các ủy ban thường trực hay lâm thời.
Điều 42. Họp Hạ viện, Thượng viện và Quốc hội
1. Trừ trường hợp Hiến pháp hay luật quy định khác, cuộc
họp của Hạ viện (hay Thượng viện) là hợp lệ nếu có mặt của đa số trong tổng số
Hạ nghị sĩ (hay Thượng nghị sĩ), quyết định hợp lệ được thông qua với đa số
phiếu hiện diện.
2. Họp Quốc hội là phiên họp chung của Hạ viện và Thượng
viện do Chủ tịch Hạ viện chủ tọa hay Chủ tịch Thượng viện chủ tọa khi Chủ tịch
Hạ viện vắng mặt. Quốc hội ban hành quy chế về thủ tục, thể thức họp Quốc hội.
Các quyết định của Quốc hội là các quyết định được đưa ra tại các phiên họp
chung này.
3. Các cuộc họp của Hạ viện, Thượng viện, Quốc hội được mở
công khai cho công chúng, trừ khi đa số thành viên có mặt quyết định, hoặc khi
Chủ tịch xét thấy cần thiết vì lợi ích an ninh quốc gia thì công chúng không
thể tham dự.
4. Việc công bố công khai các thủ tục của kỳ họp kín sẽ
được luật quy định.
5. Biên bản cuộc họp phải đầy đủ, chi tiết, ghi rõ ý kiến
và số phiếu biểu quyết của từng Nghị sĩ. Có thể đồng thời ghi âm, ghi hình cuộc
họp để lưu trữ. Mọi công dân đều có quyền tiếp cận biên bản của các cuộc họp mở
công khai, theo thủ tục do luật định.
Điều 43. Quyền trình dự
án luật
1. Các Nghị sĩ, cơ quan hành pháp có thể đệ trình dự án
luật.
2. Một nhóm ít nhất 30.000 cử tri có quyền trình dự án
luật. Thủ tục về việc này do luật quy định.
3. Dự án luật phải được nộp cho Văn phòng Hạ viện.
4. Người, hay nhóm công dân bảo trợ dự án luật, khi đệ
trình dự án luật cho Hạ viện, có trách nhiệm giải trình rõ các hệ quả về tài
chính của việc thực thi dự án luật.
5. Người, nhóm người hay cơ quan trình dự án luật có thể
rút lại dự án luật trong quá trình thẩm định và xem xét thông qua.
Điều 44. Thẩm định, thảo luận, thông qua dự luật
1. Dự án luật, dự thảo luật đã được đệ trình lên Hạ viện
được gọi chung là dự luật. Dự luật phải trải qua các khâu thẩm định theo quy
định của luật.
2. Hạ viện thảo luận, xem xét dự luật và biểu quyết thông
qua với đa số phiếu hiện diện hay bác bỏ. Trong mọi trường hợp nghị quyết thông
qua hay bác bỏ, trong vòng 3 ngày dự luật cùng hồ sơ bác bỏ hay thông qua đều
phải chuyển sang Văn phòng Thượng viện.
3. Nếu Hạ viện đã thông qua dự luật thì dự luật được
Thượng viện xem xét và dự luật được Thượng viện thông qua nếu đạt đa số phiếu
hiện diện chấp thuận. Trong trường hợp đó dự luật đã được Quốc hội (cả 2 viện)
thông qua.
4. Nếu Thượng viện bác bỏ thì trong vòng 3 ngày dự luật
phải được chuyển lại cho Hạ viện cùng với nghị quyết nêu rõ lý do bác bỏ. Hạ
viện sẽ xem xét lại và nếu dự luật được Hạ viện thông qua lần nữa với đa số 2/3
của các Hạ nghị sĩ thì dự luật được coi là đã được Quốc hội thông qua, nếu
không đạt đa số 2/3 thì vẫn phải chuyển qua Thượng viện xem xét.
5. Trong trường hợp đặc biệt, nếu xét thấy cần, Hạ viện có
thể yêu cầu Thượng viện xem xét và biểu quyết trước một dự luật, sau đó Hạ viện
mới xem xét và biểu quyết. Khi đó vai trò của mỗi Viện thay thế cho nhau trong
quy trình nêu trên.
6. Thời gian xem xét và biểu quyết dự luật tại Thượng viện
không được quá một nửa (1/2) thời gian xem xét và biểu quyết tại Hạ viện. Thời
gian xem xét và biểu quyết dự luật tại Hạ viện không được quá hai lần thời gian
xem xét và biểu quyết tại Thượng viện.
7. Dự án luật không thể bị loại bỏ vì không được thông qua
trong kỳ họp mà nó được trình ra, ngoại trừ trong trường hợp nhiệm kỳ của các
Nghị sĩ đã hết.
Điều 45. Dự luật trở thành luật
1. Dự luật đã được Quốc hội thông qua phải được gửi đến
Tổng thống trong vòng 7 ngày.
2. Sau khi nhận được dự luật đã được Quốc hội thông qua,
Tổng thống có thể chuyển dự luật cho Tòa án Hiến pháp để xét xem có phù hợp với
Hiến pháp hay không. Trong trường hợp Tòa án Hiến Pháp xác minh dự luật phù hợp
với Hiến pháp, nó trở thành luật. Trong trường hợp dự luật có các điều khoản cụ
thể được Tòa án Hiến pháp cho là không hợp hiến và Tòa án Hiến pháp không xác
định các điều khoản đó là không thể tách rời toàn bộ dự luật, thì Tổng Thống có
thể loại bỏ các điều khoản được cho là vi hiến đó sau khi đã tham vấn ý kiến
của Chủ tịch Hạ viện và dự luật trở thành luật với sự loại bỏ đó.
3. Trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được dự luật từ Quốc
hội, nếu Tổng thống chấp thuận thì dự luật trở thành luật.
4. Nếu Tổng thống phản đối dự luật, thì trong vòng 15 ngày
kể từ khi nhận được từ Quốc hội, Tổng thống phải gửi trả lại Quốc hội xem xét
lại dự luật với giải thích bằng văn bản sự phản đối, nhưng không được yêu cầu
Quốc hội xem xét lại từng phần của dự luật hay đưa ra đề xuất sửa đổi.
5. Nếu Tổng thống phản đối dự luật, nhưng quá thời hạn 15
ngày kể trên mà Tổng thống không trả lại dự luật cho Quốc hội, thì dự luật tự
động trở thành luật.
6. Trong trường hợp Tổng thống trả dự luật lại cho Quốc
hội, Quốc hội phải xem xét lại dự luật, sau đó: (a) sửa đổi theo trình tự thông
thường, hoặc (b) thông qua văn bản gốc của dự luật với đa số 2/3 của các đại
biểu có mặt, trường hợp này thì dự luật trở thành luật.Điều 46. Công bố luật
1. Khi dự luật đã trở thành luật, Tổng thống phải công bố
luật không chậm trễ.
2. Trong trường hợp dự luật tự động trở thành luật (theo
Khoản 5 Điều 45) hay trở thành luật theo (b) Khoản 6 Điều 45, thì Tổng thống
cũng phải ký công bố không chậm trễ; nếu Tổng thống vẫn không công bố thì Chủ
tịch Hạ viện ký công bố và hành vi này của Tổng thống có thể trở thành căn cứ
cho việc luận tội vi phạm Hiến pháp.
3. Luật được công bố trên Công báo và có hiệu lực vào ngày
do luật định hoặc 30 ngày sau ngày ký công bố nếu luật không định rõ ngày có
hiệu lực.
Điều 47. Ngân sách
1. Không một khoản tiền nào từ ngân sách nhà nước được
chi, cho dù Cơ quan Hành pháp có yêu cầu, nếu chưa được Quốc hội thông qua.
2. Hành pháp sẽ soạn thảo dự luật ngân sách cho mỗi năm
tài chính và đệ trình Hạ viện ít nhất 90 ngày trước ngày khởi đầu của năm tài
chính mới.
3. Quốc hội không tăng số tiền của bất kỳ khoản chi nào,
không tạo ra bất kỳ mục chi mới nào trong dự luật ngân sách nếu không có sự
đồng ý của Cơ quan Hành pháp.
4. Hạ viện quyết định về dự luật ngân sách trong vòng 45
ngày kể từ ngày dự luật ngân sách được đệ trình và chuyển cho Thượng viện.
5. Thượng viện quyết định về dự luật ngân sách đã được Hạ
viện chuyển qua trong vòng 20 ngày.
6. Nếu dự luật ngân sách không được thông qua trước khi
bắt đầu năm tài chính mới, Cơ quan Hành pháp có thể giải ngân, theo cách phù
hợp với ngân sách của năm tài chính trước, cho các mục đích sau đây cho đến khi
dự luật ngân sách được Quốc hội thông qua: (a) cho việc duy trì hoạt động của
các cơ quan được thành lập theo Hiến pháp hay luật; (b) cho việc thực hiện các
khoản chi bắt buộc theo quy định của pháp luật; và (c) cho việc tiếp tục các dự
án trước đó đã được phê duyệt trong ngân sách.
7. Hạ viện và Thượng viện có thể có phiên họp chung để xem
xét và quyết định về ngân sách khi thấy cần thiết.
Điều 48. Kiểm toán thu chi ngân sách
Báo cáo tài chính cuối cùng về thu chi ngân sách quốc gia
sẽ được Kiểm toán Nhà nước kiểm toán hàng năm và trình cho Quốc hội.
Điều 49. Thuế
Các loại và mức thuế được xác định bằng luật.
Điều 50. Nợ
Mọi kế hoạch của Cơ quan Hành pháp về phát hành trái phiếu
quốc gia và ký kết hợp đồng mà có thể phát sinh nghĩa vụ tài chính ngoài ngân
sách của Nhà nước đều phải được Hạ viện phê chuẩn.
Điều 51. Chất vấn
1. Hạ nghị sĩ có quyền chất vấn các Bộ trưởng bằng văn bản
hoặc bằng các câu hỏi trực tiếp tại các phiên họp của Hạ viện.
2. Chất vấn bằng văn bản phải được trả lời bằng văn bản
trong vòng 21 ngày kể từ ngày nhận được chất vấn.
3. Các Bộ trưởng có trách nhiệm trả lời các câu hỏi được
nêu ra trong mỗi phiên họp của Hạ viện.
Điều 52. Điều trần
1. Để phục vụ cho hoạt động lập pháp, các ủy ban của Hạ
viện và Thượng viện có thể tổ chức các cuộc điều trần để nghe những người có
liên quan giải thích, làm rõ những vấn đề nhất định nhằm tạo cơ sở cho các
quyết định lập pháp và giám sát của Quốc hội.
2. Những người được mời điều trần trước các ủy ban có thể
là các Nghị sĩ, các quan chức chính phủ, lãnh đạo các tổ chức dân sự, công
đoàn, các doanh nhân, chuyên gia, học giả, nhà khoa học...
3. Để chọn ra các quan chức có chất lượng, tất cả các ứng
viên tiềm năng vào các chức Thủ tướng, Bộ trưởng, Chủ tịch hay lãnh đạo của các
cơ quan hiến định đều phải điều trần trước khi được bổ nhiệm và phê chuẩn
4. Thủ tục mời và tiến hành điều trần do luật định.
5. Biên bản các cuộc điều trần được công bố công khai, trừ
các cuộc điều trần liên quan đến an ninh quốc gia, và được lưu trữ theo luật
định.
Điều 53. Trưng cầu dân ý toàn quốc
1. Cuộc trưng cầu dân ý cấp quốc gia có thể được tổ chức
về những vấn đề đặc biệt quan trọng đối với nhân dân và quốc gia.
2. Hạ viện có thể quyết định tổ chức trưng cầu dân ý cấp
quốc gia. Tổng thống với sự chấp thuận của Thượng viện có quyền quyết định tổ
chức trưng cầu dân ý cấp quốc gia. Khi có yêu cầu của trên 500 ngàn cử tri thì
phải tổ chức trưng cầu dân ý.
3. Kết quả của cuộc trưng cầu dân ý cấp quốc gia có tính
bắt buộc nếu có hơn ½ số người có quyền bầu cử tham gia cuộc trưng cầu dân ý.
4. Các nguyên tắc và thủ tục tổ chức cuộc trưng cầu dân ý
do luật định.
Điều 54. Giám sát, điều tra và bãi nhiệm
1. Hạ viện có thể giám sát công việc của nhà nước hoặc
điều tra những vấn đề cụ thể của công vụ nhà nước, có quyền yêu cầu đệ trình
các tài liệu trực tiếp liên quan đến các vấn đề đó, yêu cầu nhân chứng cung cấp
lời khai hoặc báo cáo.
2. Dựa trên kết quả giám sát, điều tra, chất vấn và điều
trần, Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Bộ trưởng.
3. Các thủ tục và các vấn đề liên quan đến giám sát và
điều tra hành chính nhà nước được luật quy định.
Điều 55. Phế truất Tổng thống
1. Quyết định truy tố Tổng thống về việc vi phạm Hiến pháp
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng phải được Hạ viện thông qua bằng nghị quyết
với ít nhất đa số 2/3 tổng số thành viên Hạ viện, trên cơ sở đề nghị của ít
nhất 60 Hạ nghị sĩ.
2. Quyết định truy tố Tổng thống được xét xử bởi Thượng
viện.
3. Từ ngày có quyết định truy tố, Tổng thống bị tạm đình
chỉ việc thực hiện nhiệm vụ Tổng thống, Chủ tịch Thượng viện tạm thời đảm nhiệm
chức vụ quyền Tổng thống. Nếu Thượng viện phán quyết Tổng thống vô tội thì việc
tạm đình chỉ nhiệm vụ Tổng thống chấm dứt. Nếu Thượng viện phán quyết Tổng thống
có tội thì Tổng thống bị phế truất.
Điều 56. Phê chuẩn điều ước quốc tế
1. Quốc hội có quyền đồng ý ký kết và phê chuẩn các điều
ước quốc tế liên quan đến an ninh; các điều ước quốc tế liên quan đến các tổ
chức quốc tế quan trọng; các điều ước hữu nghị, thương mại và hàng hải; các
điều ước quốc tế liên quan đến bất kỳ hạn chế nào về chủ quyền; các điều ước
hòa bình; các điều ước quốc tế phát sinh nghĩa vụ tài chính quan trọng đối với
Nhà nước hoặc nhân dân; và các điều ước quốc tế liên quan đến lập pháp.
2. Đại diện có thẩm quyền và được ủy quyền để ký các điều
ước quốc tế chỉ được ký điều ước sau khi đã được sự đồng ý của Quốc hội.
3. Sau khi được Quốc hội phê chuẩn, Tổng thống ký công bố
điều ước quốc tế và điều ước có hiệu lực.
Điều 57. Tuyên bố tình trạng chiến tranh
1. Quốc hội có quyền nhân danh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tuyên bố tình trạng chiến tranh và ký kết hiệp ước hòa bình.
2. Quốc hội chỉ có thể thông qua nghị quyết về tình trạng
chiến tranh trong trường hợp có sự xâm lược quân sự đối với lãnh thổ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Trong thời gian Quốc hội không họp, Tổng thống có thể tuyên
bố tình trạng chiến tranh.
CHƯƠNG IV. HÀNH
PHÁP
Điều 58. Quyền hành pháp
1. Quyền hành pháp được nhân dân ủy quyền cho Tổng thống.
2. Tổng thống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nguyên thủ quốc
gia và bảo đảm cho sự liên tục của cơ quan nhà nước.
3. Tổng thống có trách nhiệm bảo đảm việc tuân thủ Hiến
pháp, bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia cũng như sự bất khả xâm phạm và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia.
4. Tổng thống thực hiện nhiệm vụ của mình trong phạm vi và
theo các nguyên tắc do Hiến pháp và luật quy định.
Điều 59. Bầu Tổng thống và Phó Tổng thống
1. Tổng thống và Phó Tổng thống cùng đứng chung một liên
danh, do cử tri bầu ra trong cuộc bầu cử phổ thông, bình đẳng và trực tiếp bằng
phiếu kín.
2. Công dân Việt Nam đủ 35 tuổi, tính đến ngày bầu cử, và
có quyền bầu cử Quốc hội, có thể là ứng cử viên Tổng thống và ứng cử viên Phó
Tổng thống. Ứng cử viên Tổng thống và ứng cử viên Phó Tổng thống, với tư cách
một liên danh chung, phải có được chữ ký ủng hộ của ít nhất 100 ngàn công dân
có quyền bầu cử Quốc hội.
3. Liên danh nhận được hơn 1/2 tổng số phiếu bầu hợp lệ sẽ
trúng cử chức vụ Tổng thống và Phó Tổng thống.
4. Nếu không liên danh nào nhận được đa số phiếu, thì sẽ
tổ chức lại việc bỏ phiếu giữa 2 liên danh đạt số phiếu cao nhất vào ngày thứ
14 sau ngày bỏ phiếu lần thứ nhất.
5. Nếu một trong hai liên danh tham gia vòng bầu thứ hai
đồng ý rút khỏi danh sách, một trong hai người trong liên danh mất quyền bầu cử
hoặc chết, thì liên danh đạt phiếu cao kế tiếp trong lần bầu thứ nhất sẽ thay
thế liên danh đó. Trong trường hợp này, ngày bỏ phiếu sẽ được gia hạn thêm 14
ngày.
6. Liên danh nhận được số phiếu bầu cao hơn trong lần bỏ
phiếu lần thứ hai sẽ là những người được bầu làm Tổng thống và Phó Tổng thống.
7. Các nguyên tắc và thủ tục đề cử ứng cử viên Tổng thống,
Phó Tổng thống cách thức tiến hành bầu cử cũng như những yêu cầu về tính hợp lệ
của cuộc bầu cử Tổng thống sẽ do luật quy định.
8. Chủ Tịch Hạ viện ra quyết định tổ chức cuộc bầu cử Tổng
thống không trước 120 ngày và không sau 100 ngày tính đến ngày hết nhiệm kỳ
Tổng thống; trong trường hợp khuyết Tổng thống, không muộn hơn 14 ngày kể từ
thời điểm bị khuyết. Quyết định tổ chức bầu cử phải quy định rõ ngày bầu cử sẽ
là một ngày nghỉ trong khoảng thời gian giữa 60 đến 67 ngày kể từ ngày ra quyết
định.
Điều 60. Tuyên thệ nhậm chức và nhiệm kỳ Tổng thống
1. Tại lễ nhậm chức trước Quốc hội, Tổng thống sẽ tuyên
thệ như sau: “Tôi trịnh trọng tuyên thệ trước nhân dân rằng sẽ trung thành thực
thi các nghĩa vụ của Tổng thống bằng việc tuân thủ Hiến pháp, bảo vệ quốc gia,
thúc đẩy tự do và thịnh vượng của nhân dân, nỗ lực bảo tồn và phát triển văn
hóa dân tộc”.
2. Tổng thống và Phó Tổng thống có nhiệm kỳ 5 năm tính từ
ngày nhậm chức. Một người không thể làm Tổng thống quá hai nhiệm kỳ.
Điều 61. Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ trước thời hạn
1. Nhiệm vụ của Tổng thống có thể chấm dứt trước kỳ hạn
trong những trường hợp sau: (a) Tổng thống chết; (b) Tổng thống từ chức; (c)
Tổng thống bị truất quyền; và (d) do bị bệnh tật trầm trọng và kéo dài, Tổng
thống không còn năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực, trong trường
hợp (d), phải được Quốc hội xác nhận với đa số 3/4 tổng số Hạ nghị sĩ và Thượng
nghị sĩ, sau các cuộc giám định y khoa.
2. Trong trường hợp Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ, Phó Tổng
thống sẽ đảm nhận chức Tổng thống trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ.
3. Trong trường hợp khuyết Phó Tổng thống, Thượng viện bầu
Phó Tổng thống mới theo đề nghị của Tổng thống.
4. Trường hợp đồng thời khuyết cả Tổng thống và Phó Tổng
thống, Chủ tịch Thượng viện tạm thời làm quyền Tổng thống cho đến khi Quốc hội
bầu ra Tổng thống và Phó Tổng thống mới, theo phương thức đa số, cho thời gian
còn lại của nhiệm kỳ.
Điều 62. Thẩm quyền của Tổng thống
Tổng thống có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Hoạch định chính sách quốc gia;
2. Ký ban hành các đạo luật;
3. Ký các điều ước quốc tế, sau khi được Quốc hội phê
chuẩn ký ban hành các điều ước quốc tế;
4. Bổ nhiệm các đại sứ với sự phê chuẩn của Thượng viện;
5. Tiếp nhận quốc thư, đón nhận các phái đoàn ngoại giao;
6. Tổ chức các cơ quan hành pháp theo quy định của luật;
7. Chỉ đạo hoạt động của các cơ quan hành pháp;
8. Bổ nhiệm các Bộ trưởng với sự chấp thuận của Quốc hội;
9. Bãi nhiệm các Bộ Trưởng;
10. Tổ chức các Hội đồng tư vấn;
11. Quyết định các vấn đề được luật quy định về đặc xá,
giảm án, phục hồi các quyền và đại xá;
12. Trao các tước vị và danh hiệu theo các điều kiện luật
định;
13. Trao quốc tịch Việt Nam;
14. Các quyền khác theo luật định.
Điều 63. Thống lĩnh tối cao các lực lượng vũ trang
1. Tổng thống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Thống lĩnh tối
cao của các lực lượng vũ trang Việt Nam.
2. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thống
phong cấp bậc quân hàm quân đội theo quy định của luật.
3. Thẩm quyền của Tổng thống về quyền thống lĩnh tối cao
đối với các lực lượng vũ trang sẽ được quy định cụ thể trong luật.
Điều 64. Thủ tướng và các thành viên Chính phủ
1. Thủ tướng và các Bộ trưởng là các thành viên Chính phủ,
được Tổng thống bổ nhiệm và Quốc hội phê chuẩn.
2. Thủ tướng có trách nhiệm hỗ trợ Tổng thống và điều hành
các Bộ theo chỉ đạo của Tổng thống.
3. Không ai trong quân đội có thể được bổ nhiệm làm Thủ
tướng trừ khi đã giải nhiệm.
4. Cơ quan công tố thuộc Bộ Tư pháp.
CHƯƠNG V. TƯ
PHÁP
Điều 65. Hoạt động tư pháp
1. Quyền lực tư pháp được trao cho các tòa án, gồm các
thẩm phán có trình độ chuyên môn theo luật định.
2. Các tòa án gồm: Tòa án Tối cao, tòa án các cấp khác và
Tòa án Hiến pháp.
Điều 66. Tổ chức Tòa án Tối cao
1. Trong Tòa án Tối cao có Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối
cao.
2. Trong Tòa án Tối cao có thể thành lập các tòa chuyên
trách.
3. Việc tổ chức Tòa án Tối cao, các tòa án chuyên trách và
các tòa án khác theo luật định.
Điều 67. Thẩm phán Toà án Tối cao
1. Chánh án Tòa án tối cao do Tổng thống bổ nhiệm với sự
đồng ý của Quốc hội.
2. Các Thẩm phán Tòa án Tối cao do Tổng thống bổ nhiệm
theo đề xuất của Chánh án Tòa án Tối cao và với sự đồng ý của Quốc hội.
3. Các thẩm phán khác do Chánh án Tòa án Tối cao bổ nhiệm
với sự đồng ý của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao.
Điều 68. Nhiệm kỳ thẩm phán Toà án Tối cao
1. Nhiệm kỳ của Chánh án Tòa án Tối cao là 6 năm và không
thể được tái bổ nhiệm.
2. Nhiệm kỳ của thẩm phán của Tòa án Tối cao là 6 năm và
họ có thể được tái bổ nhiệm theo quy định của luật.
3. Nhiệm kỳ của các thẩm phán ngoài Chánh án và Thẩm phán
của Tòa án Tối cao là 10 năm, họ có thể được tái bổ nhiệm theo các điều kiện
luật định.
4. Tuổi về hưu của các thẩm phán được luật quy định.
Điều 69. Tòa án Hiến pháp
Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền xét xử đối với các vấn đề
sau đây:
1. Sự phù hợp của luật và điều ước quốc tế với Hiến pháp;
2. Sự phù hợp của các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà
nước ở trung ương ban hành với Hiến pháp;
3. Sự phù hợp của mục tiêu, hoạt động của các đảng chính
trị với Hiến pháp;
4. Tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước,
giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với chính quyền địa phương và giữa các
chính quyền địa phương;
5. Khiếu nại của những người cho rằng các quyền hiến định
của họ đã bị xâm phạm bởi một đạo luật hay văn bản pháp luật khác trái với Hiến
pháp.
Điều 70. Tổ chức Tòa án Hiến pháp
1. Tòa án Hiến pháp gồm 15 thẩm phán được Quốc hội bầu
chọn trong số những người có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật.
Thẩm phán Tòa án Hiến pháp có nhiệm kỳ 9 năm và không thể được bầu chọn nhiều
hơn một nhiệm kỳ.
2. Chánh án và Phó Chánh án Tòa án Hiến pháp do Tổng thống
bổ nhiệm trong số các ứng cử viên do Hội đồng thẩm phán Tòa án Hiến pháp giới
thiệu.
3. Tổ chức và hoạt động của Tòa án Hiến pháp được quy định
trong một đạo luật.
Điều 71. Nguyên tắc độc lập
Thẩm phán các tòa án phải xét xử độc lập theo lương tâm,
chỉ tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Thẩm phán không được tham gia các đảng
chính trị.
CHƯƠNG VI. CÁC
CƠ QUAN HIẾN ĐỊNH ĐỘC LẬP
Điều 72. Các cơ quan hiến định độc lập
Các cơ quan hiến định độc lập, không phải là các cơ quan
lập pháp, hành pháp hay tư pháp, bao gồm Ngân hàng Trung ương, Kiểm toán Nhà
nước, Uỷ ban Bầu cử, Ủy ban Nhân quyền và Hội đồng Hoà giải Dân tộc.
Điều 73. Ngân hàng Trung ương
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đảm nhiệm vai trò Ngân hàng
Trung ương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
2. Tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
được quy định bởi một đạo luật.
Điều 74. Kiểm toán Nhà nước
1. Kiểm toán Nhà nước hoạt động theo các nguyên tắc nghề
nghiệp.
2. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các pháp nhân và
tổ chức nhà nước về tính hợp pháp, tính kinh tế, hiệu quả và sự mẫn cán.
3. Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Hạ viện và có trách nhiệm
trình Hạ viện: các báo cáo phân tích việc thực hiện ngân sách và các mục tiêu
của chính sách tiền tệ; ý kiến liên quan đến việc chấp thuận quyết toán ngân
sách; thông tin về kết quả kiểm toán, kết luận kiểm toán và kiến nghị theo quy
định của luật.
4. Chủ tịch Kiểm toán Nhà nước không được tham gia đảng
chính trị hay bất cứ hoạt động công vụ nào khác không phù hợp với chức trách
của mình.
5. Tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước được quy
định bằng một đạo luật.
Điều 75. Ủy ban Bầu cử
1. Các Ủy ban Bầu cử được thiết lập với mục đích điều hành
công bằng các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý toàn quốc, xử lý các vấn đề hành
chính liên quan đến các chính đảng.
2. Ủy ban Bầu cử Trung ương gồm 3 thành viên do Tổng thống
bổ nhiệm, 3 thành viên do Quốc hội lựa chọn và 3 thành viên do Chánh án Tòa án
Tối cao lựa chọn. Các thành viên của Ủy ban thành viên bầu ra một Chủ tịch.
3. Nhiệm kỳ của thành viên Ủy ban là 6 năm.
4. Các thành viên Ủy ban không thể tham gia các đảng chính
trị hoặc các hoạt động chính trị.
5. Các chiến dịch tranh cử được thực hiện dưới sự điều
hành của Ủy ban Bầu cử mỗi cấp trong phạm vi luật định với nguyên tắc bảo đảm
cơ hội bình đẳng cho các ứng cử viên.
6. Tổ chức, chức năng và các vấn đề quan trọng khác của Ủy
ban Bầu cử Trung ương và Ủy ban Bầu cử các cấp sẽ do luật quy định.
Điều 76. Ủy ban Nhân quyền
1. Ủy ban Nhân quyền là một cơ quan độc lập, có vai trò
thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền
quốc tế 1948 và trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ủy ban
Nhân quyền do Hạ viện thành lập với sự đồng thuận của Thượng viện, gồm 9 thành
viên, có sự tham gia của đại diện nhiều thành phần xã hội.
2. Ủy ban Nhân quyền có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
a. Giáo dục và nâng cao nhận thức của công chúng, công
chức và viên chức về quyền con người;
b. Tư vấn cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội
về các vấn đề liên quan đến quyền con người;
c. Nghiên cứu, đề xuất việc gia nhập các điều ước quốc tế
về quyền con người;
d. Nhận các khiếu nại về các vi phạm các quyền được quy
định tại tại Hiến pháp này hoặc các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
3. Thành viên Ủy ban Nhân quyền không giữ bất kỳ chức vụ
nào khác, trừ chức vụ giảng viên đại học, cũng không thực hiện bất kỳ hoạt động
nghề nghiệp nào khác. Các thành viên cũng không được tham gia đảng chính trị
nào, không thực hiện các nhiệm vụ công không phù hợp với chức trách của mình.
4. Phương thức tổ chức và hoạt động của Ủy ban Nhân quyền
sẽ được quy định bởi một đạo luật.
Điều 77. Hội đồng Hòa giải Dân tộc
1. Hội đồng Hoà giải Dân tộc thực hiện hòa giải và hòa hợp
dân tộc, xóa bỏ thù hận, hướng đến việc khắc phục các sai lầm trong quá khứ,
nhằm mang lại công bằng, đoàn kết dân tộc, phát huy các năng lực của người Việt
Nam trên toàn thế giới.
2. Hội đồng Hoà giải Dân tộc gồm 19 thành viên do Hạ viện
bổ nhiệm với sự đồng thuận của Thượng viện. Năm (5) thành viên đến từ mỗi khu
vực miền Bắc, Trung, Nam Việt Nam và bốn (4) thành viên thuộc cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài.
3. Hội đồng Hoà giải Dân tộc có các nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
a. Nghiên cứu, xác định lại giá trị pháp lý của các luật,
điều ước quốc tế đã được các chính quyền Việt Nam trong quá khứ ban hành, ký
kết trái thẩm quyền hoặc gây hại nghiêm trọng cho quốc dân. Đề xuất với Quốc
hội các giải pháp khắc phục các sai lầm quá khứ.
b. Tập hợp thông tin, đề nghị trả tự do, tổ chức việc đối
thoại, xin lỗi, bồi thường cho những người đã từng bị xử phạt, điều tra, truy
tố, xét xử oan, chỉ vì lý do họ đã có những hành động nhằm thúc đẩy dân chủ,
công bằng và tiến bộ xã hội, nhằm bảo vệ các quyền con người, hoặc chỉ để thực
thi các quyền tự do của mình.
c. Nghiên cứu, trình Quốc hội các chính sách, dự án luật
có thể khắc phục những sai lầm khác của các chế độ trong quá khứ nhằm hoà giải
và hòa hợp dân tộc.
4. Hội đồng Hoà giải Dân tộc sẽ được Hạ viện giải tán sau
khi đã hoàn tất nhiệm vụ.
CHƯƠNG VII. TỰ
QUẢN ĐỊA PHƯƠNG
Điều 78. Chính quyền địa phương
1. Chính quyền địa phương thực hiện các công vụ địa
phương, tức là các công vụ không được quy định trong Hiến pháp và trong các đạo
luật về các cơ quan khác của Nhà nước. Các công vụ địa phương do nhân dân của
địa phương đó tự đề ra. Chính quyền địa phương giải quyết các vấn đề hành chính
liên quan đến an sinh của dân cư địa phương, quản lý tài sản và có thể đề ra
các quy định liên quan đến tự chủ địa phương trong phạm vi luật định.
2. Chính quyền địa phương ở mỗi cấp có thể có một hội đồng
và bộ máy hành chính nhà nước cấp địa phương.
3. Hội đồng địa phương do dân địa phương bầu và có quyền
quy định về các công vụ địa phương.
4. Trong địa phương mình, bộ máy hành chính thực thi các
công vụ được quy định trong Hiến pháp, luật và các công vụ địa phương. Người
đứng đầu cơ quan hành chính địa phương do nhân dân địa phương đó trực tiếp bầu
ra.
5. Xã là đơn vị cơ sở của chính quyền địa phương, nơi dân
chủ trực tiếp được thực hiện ở mức cao nhất trong các cấp chính quyền.
6. Chính quyền đô thị được luật quy định.
7. Các loại chính quyền địa phương do luật định
Điều 79. Tổ chức Chính quyền địa phương
Việc tổ chức và thẩm quyền của chính quyền địa phương, thủ
tục bầu các thành viên hội đồng (nếu có) và người đứng đầu chính quyền địa
phương và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động của chính quyền địa phương sẽ
do luật định theo nguyên tắc chính quyền cấp càng thấp thì việc áp dụng dân chủ
trực tiếp càng cao.
CHƯƠNG VIII. SỬA
ĐỔI HIẾN PHÁP
Điều 80. Thủ tục sửa đổi Hiến pháp
1. Một dự luật sửa đổi Hiến pháp có thể được trình bởi các
chủ thể sau: ít nhất 1/5 số Hạ nghị sĩ theo luật định, Thượng viện, hoặc Tổng
thống.
2. Nếu Tổng thống trình dự luật sửa đổi Hiến pháp thì dự
luật không được thay đổi các điều khoản liên quan đến Tổng thống trong Hiến
pháp hiện hành.
3. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được thực hiện bởi một đạo
luật được Hạ viện thông qua và sau đó được Thượng viện thông qua với cùng nội
dung trong thời hạn 60 ngày.
4. Dự luật sửa đổi Hiến pháp được Hạ viện thông qua nếu
được ít nhất 2/3 số phiếu có mặt của ít nhất 2/3 tổng số Hạ nghị sĩ theo luật
định; Dự luật sửa đổi Hiến pháp được Thượng viện thông qua nếu được ít nhất 2/3
số phiếu có mặt của ít nhất 2/3 tổng số Thượng nghị sĩ theo luật định.
5. Trong vòng 60 ngày kể từ khi Dự luật sửa đổi Hiến pháp
đã được Quốc hội thông qua phải tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân phúc quyết.
CHƯƠNG IX. ĐIỀU
KHOẢN CHUYỂN ĐỔI
Điều 81. Hiệu lực Hiến pháp và quy định chuyển đổi
1. Hiến pháp này có hiệu lực sau 100 ngày kể từ ngày được
nhân dân phúc quyết thông qua.
2. Trong vòng 100 ngày sau khi Hiến pháp có hiệu lực, Quốc
hội hiện hành (đã thông qua Hiến pháp) phải căn cứ vào đó ban hành các luật mới
về bầu cử Quốc hội và bầu cử Tổng thống. Các cuộc bầu cử Hạ viện, Thượng viện
và Tổng thống đầu tiên được tổ chức theo quy định của các luật đó trong vòng
180 ngày từ khi luật có hiệu lực.
3. Chính phủ, trong vòng 2 năm sau khi Hiến pháp này có
hiệu lực, phải rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật hiện hành, đệ trình để
Quốc hội sửa đổi các quy định trái với Hiến pháp và ban hành các luật mới nhằm
thực thi Hiến pháp.
4. Trong vòng 2 năm sau khi Hiến pháp này có hiệu lực,
pháp luật đang có hiệu lực vào thời điểm Hiến pháp được Quốc hội thông qua vẫn
còn giá trị. Sau thời hạn 2 năm này, tất cả các quy định trái với Hiến pháp này
đều trở nên vô hiệu, các quy định khác vẫn còn giá trị.
Bản Dự thảo Hiến pháp 2013 này được đăng trên bauxitevn vào lúc 10:55 ngày 24/03/2013
Nguồn: BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét