George Orwell
Trại Súc Vật
(Chuyện ở nông
trại)
Chương 9
Cái móng bị thương của Chiến Sĩ chữa mãi vẫn không
khỏi. Trong khi đó lũ súc vật tiến hành khôi phục cối xay gió ngay sau lễ mừng
chiến thắng. Chiến Sĩ không nghỉ ngày nào, nó rất tự hào là đã không để cho
những con khác thấy nó đang bị đau. Chỉ đến tối nó mới bảo với Bà Mập là bị vết
thương hành hạ. Bà Mập phải nhai lá cây và đắp vào vết thương cho Chiến Sĩ. Nó
cùng với Benjamin thuyết phục Chiến Sĩ hãy tự bảo trọng.
"Phổi loài ngựa không được khoẻ đâu", Nó
nói.
Nhưng Chiến Sĩ không nghe. Nó bảo chỉ có một ước
nguyện duy nhất là được trông thấy cối xay gió hoàn thành trước khi nghỉ hưu mà
thôi.
Ngay từ khi mới thiết lập luật lệ của Trại Súc Vật, đã
có qui định tuổi nghỉ hưu của ngựa và lợn là mười hai, của bò là mười bốn, của
chó là chín, của cừu là bảy, còn của gà là năm. Chúng cũng đã thống nhất là sẽ
không để cho những con về hưu phải thiếu thốn bất cứ thứ gì. Thực ra thì cho
đến nay cũng chưa có con nào nghỉ hưu cả, nhưng thời gian gần đây vấn đề này
rất hay được đem ra bàn thảo. Bây giờ, khi miếng đất cạnh khu vườn được đem đi
trồng lúa mạch rồi thì lại có tin là một góc bãi cỏ dài sẽ được rào riêng ra
cho những con già cả. Cũng có tin nói rằng ngựa hưu sẽ được lĩnh hai cân ngũ
cốc mỗi ngày, đấy là mùa hè, còn mùa đông thì được bảy cân cỏ khô, ngày lễ thì
còn được phát thêm một củ cà rốt hay một quả táo nữa. Sang năm Chiến Sĩ sẽ tròn
mười hai tuổi.
Hiện nay đời sống của chúng phải nói là khá chật vật.
Mùa đông năm nay lạnh không khác gì năm trước mà thực phẩm thì khan hiếm hơn.
Khẩu phần, trừ của chó và lợn, đều bị cắt bớt. Tuyệt đối bình quân, Chỉ Điểm
giải thích, là trái với nguyên tắc của Súc Sinh Kinh. Nó dễ dàng chứng minh cho
những con khác thấy rằng thực ra là chúng có đủ lương thực, khan hiếm thực phẩm
chỉ là giả tạo. Dĩ nhiên là lúc này cần phải có một sự điều chỉnh nhất định
(Chỉ Điểm nói là "điều chỉnh" chứ không phải "cắt bớt")
nhưng nếu so với thời còn lão Jones thì sự cải thiện là rõ ràng. Bằng một giọng
đọc nhanh và the thé chói tai, nó đưa ra những con số rất cụ thể, chứng minh
rằng chúng thu được nhiều yến mạch, nhiều cỏ khô, nhiều củ cải hơn thời còn lão
Jones, công việc lại nhẹ nhàng hơn, nước uống có chất lượng cao hơn, chúng sống
lâu hơn, tỉ lệ trẻ sơ sinh sống sót cao hơn, chúng có nhiều rơm làm nệm hơn, ít
chấy rận hơn. Mọi con đều tin như thế. Thực ra mà nói thì chúng cũng đã quên
gần hết những chuyện thời ông Jones rồi. Chúng chỉ biết rằng cuộc sống hiện nay
rất khó khăn, vất vả, chúng thường bị đói, bị rét và hễ mở mắt ra là chúng phải
làm. Trước đây chắc là còn khó khăn nữa. Chúng vui lòng tin như thế. Ngoài ra,
quan trọng hơn nữa là trước đây chúng là nô lệ, bây giờ chúng được tự do, Chỉ
Điểm luôn nhấn mạnh như vậy.
Nhân khẩu ngày một tăng. Mùa thu vừa rồi có bốn chị
lợn nằm ổ cùng một lúc, chúng sinh được những ba mươi mốt con cả thảy. Tất cả
đều là lợn khoang, cả trại chỉ có một mình Napoleon là lợn giống nên có thể
đoán ngay được chúng là con ai. Toàn trại được thông báo rằng hiện đang tiến
hành mua gạch và gỗ, khi nào mua được thì sẽ xây lớp học. Còn hiện thời thì lũ
lợn con sẽ được giao cho Napoleon dạy dỗ trong khu nhà bếp. Lũ lợn con được đưa
ra vườn chơi nhưng bị cấm tiếp xúc với bọn thú con khác loài. Một điều luật mới
cũng được đưa ra trong khoảng thời gian này, ấy là khi gặp nhau thì tất cả phải
đứng sang bên, nhường đường cho lợn đi trước, đồng thời, giống lợn, không phân
biệt chức vụ được đeo băng xanh ở đuôi vào các ngày chủ nhật.
Năm nay là một năm khá thành công, nhưng tiền thì vẫn
thiếu. Còn phải mua gạch, vôi và cát để xây trường học; lại còn phải tiết kiệm
để mua máy móc cho cối xay gió nữa. Rồi phải mua dầu thắp, nến và đường cho
riêng Napoleon (nó cấm các (những) con lợn khác ăn đường vì sợ chúng sẽ bị tăng
trọng) và bao nhiêu thứ khác như dụng cụ, đinh, dây thừng, than, dây thép, tấm
lợp và bánh bích qui cho chó nữa. Phải bán một phần cỏ khô và khoai tây, hợp
đồng bán trứng gà đã tăng lên đến sáu trăm quả mỗi tuần thành thử số gà gần như
không tăng, nếu không nói là giảm vì số trứng chúng để lại ấp quá ít. Tháng
mười hai đã giảm khẩu phần một lần, tháng hai lại bị giảm một lần nữa và để tiết
kiệm, từ nay ban đêm không được thắp đèn trong các chuồng nữa. Nhưng lũ lợn có
vẻ như vẫn sống khoẻ, chí ít con nào cũng lên cân. Một lần, vào buổi chiều
tháng hai, trong khu sân trại bỗng có một mùi thơm nồng, lũ súc vật chưa từng
ngửi thấy mùi này bao giờ. Hoá ra mùi ấy xuất phát từ cái nhà nằm ở sau bếp,
thời còn lão Jones vẫn dùng để nấu bia, nhưng lâu nay bỏ không. Có con nào đó
nói rằng đấy là mùi lúa mạch nấu. Lũ súc vật hít hà mãi cái mùi thơm nồng, cay
cay đó và cố đoán xem tối nay chúng có được ăn "hèm" không. Nhưng tối
hôm đó không có "hèm", đến chủ nhật chúng lại được thông báo rằng từ
nay lúa mạch sẽ để dành riêng cho lũ lợn. Miếng đất cạnh khu vườn đã được gieo
lúa mạch rồi. Sau đó lại có tin nói rằng từ nay mỗi con lợn sẽ được nửa lít bia
một ngày, riêng Napoleon thì được uống hai lít, mà phải uống bằng cốc pha lê.
Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng cuộc đời vẫn đáng sống
hơn xưa rất nhiều. Chưa bao giờ chúng được hát, được nghe nói chuyện, được đi
mít tinh, biểu tình nhiều như bây giờ. Napoleon ra lệnh mỗi tuần phải có một
cuộc Diễu Hành mà nó gọi là Tự Phát, mục đích là để ngợi ca cuộc đấu tranh và
những thành quả của Trại Súc Vật. Đúng giờ qui định tất cả sẽ rời bỏ ngay công
việc, xếp thành đội ngũ, lần lượt là lũ lợn rồi đến ngựa, bò, cừu và cuối cùng
là gà, vịt và đi đều bước xung quanh trang trại. Con gà trống màu đen của
Napoleon luôn luôn đi đầu, còn hai bên đoàn diễu hành là lũ chó. Chiến Sĩ và Bà
Mập mang lá cờ màu xanh giữa có hình sừng và móng và khẩu hiệu "Đồng chí
Napoleon muôn năm". Các buổi mít tinh bao giờ cũng kết thúc với màn trình
bày bài thơ ngợi ca Napoleon và báo cáo của Chỉ Điểm về những thành tích trong
việc tăng gia sản xuất thời gian vừa qua; những dịp lễ lạt thường có bắn các
loạt súng chào mừng nữa. Lũ cừu đặc biệt khoái đi diễu hành, nếu có con nào
phàn nàn (nhất là khi vắng bọn chó và lợn) là diễu hành chỉ tổ rét và mất thời
gian thì chúng lập tức tụng bài cầu nguyện muôn thuở: "Bốn chân tốt, hai
chân xấu", mà chúng tụng to đến nỗi át được mọi (cả những) lời phàn nàn, hậm
hực. Nhưng nói chung là đa số thích những buổi lễ lạt kiểu ấy. Chúng thấy được
an ủi phần nào vì các buổi tụ tập như vậy nhắc nhở chúng rằng chúng thực sự là
chủ nhân của trang trại và mọi việc chúng làm đều là vì chúng mà thôi. Những
bài hát, những cuộc diễu hành, số liệu của Chỉ Điểm, tiếng súng chào mừng,
tiếng gáy của con gà trống và ngọn cờ tung bay trước gió đã giúp quên đi, dù
chỉ trong phút chốc cái đói cồn cào đang hành hạ chúng.
Tháng tư, Trại Súc Vật tự tuyên bố là Nước Cộng Hòa,
cần phải bầu Tổng Thống. Chỉ có một ứng cử viên duy nhất. Napoleon trúng cử một
trăm phần trăm. Ngay hôm đó lại có tin đã tìm thấy những tài liệu mới chứng tỏ
Tuyết Tròn đã cộng tác với lão Jones ngay từ đầu. Hoá ra là Tuyết Tròn không
chỉ sử dụng chiến thuật khôn khéo nhằm làm thất bại Chiến Dịch Chuồng Bò, như
chúng đã thấy trước đây, mà còn đứng hẳn về phía lão Jones nữa. Chính Tuyết
Tròn đã dẫn đầu đoàn người xâm nhập, miệng hô lớn: "Loài người muôn
năm!". Còn những vết thương trên lưng nó, vẫn có mấy con còn sống trông
thấy những vết thương ấy và nhớ rõ rằng đấy chính là vết răng của Napoleon.
Sau nhiều năm vắng bóng, giữa mùa hè vừa rồi con Moses
bỗng lại xuất hiện. Nó hầu như không thay đổi, vẫn chẳng chịu làm gì và suốt
ngày kể chuyện hão huyền về Núi Xôi. Nó thường đậu trên cành cây, vẫy vẫy đôi
cánh đen và nói hàng giờ liền, miễn là có con nào đó chịu nghe.
"Ở trên kia, thưa các đồng chí", Nó vừa nói
vừa lấy mỏ chỉ lên trời, "phía trên những đám mây màu đen kia là Núi Xôi,
là nơi các loài vật khốn khổ chúng ta sẽ được yên nghỉ đời đời."
Nó còn nói rằng nó đã từng bay tới đó một lần rồi, đã
từng trông thấy những cánh đồng cỏ ba lá xanh tốt quanh năm, trông thấy những
khu vườn mọc đầy bánh nhân hạt lanh cũng như đường cục. Thế mà có nhiều con
tin. Chúng nghĩ rằng chúng đang bị đói, khổ, vất vả; thế thì việc có một thế
giới an lành hơn ở đâu đó cũng là lẽ công bằng mà thôi. Nhưng điều chúng không
thể hiểu được chính là thái độ của bọn lợn đối với Moses. Lũ lợn miệt thị rằng
Núi Xôi chỉ là chuyện bịa, nhưng Moses không những không bị đuổi đi mà còn được
cấp một vại bia mỗi ngày.
Cuối cùng thì móng của Chiến Sĩ cũng khỏi, nó lao vào
công việc hăng hơn lúc nào hết. Những con khác cũng phải làm không khác gì tù
khổ sai. Ngoài công việc thường kì của trại và khôi phục cối xay gió thì còn
việc xây trường cho lũ lợn con nữa. Trường học được khởi công vào tháng ba. Đôi
khi tưởng chừng như không thể nào chịu nổi thời gian và cường độ lao động ấy
với một cái dạ dày lép kẹp, nhưng Chiến Sĩ không hề ngã lòng. Không có một dấu
hiệu gì, kể cả trong lời nói cũng như việc làm chứng tỏ sức lực của nó không
còn được như xưa nữa. Tuy thế, tướng mạo của nó có thay đổi chút ít, da nó
không còn được nhuận như trước, hông nó trông cũng nhỏ đi. Mọi con đều nói:
"Có cỏ non là Chiến Sĩ sẽ bình phục ngay ấy mà", nhưng mùa xuân đã
về, cỏ non đã lên xanh mà Chiến Sĩ chẳng hề mập thêm chút nào. Những khi trông
nó gồng mình kéo đá lên khỏi bờ dốc, có cảm tưởng như sức nó đã kiệt, phải là
một ý chí sắt đá lắm mới đứng vững được như thế. Nhìn vào đôi môi, người tinh
có thể thấy rằng nó đang định nói: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa", nhưng
không thể thốt lên lời. Bà Mập và Benjamin lại nhắc nó giữ gìn sức khoẻ, nhưng
nó vẫn bỏ ngoài tai. Ngày sinh nhật lần thứ mười hai đang đến gần. Nó chỉ quan
tâm đến một việc duy nhất sau đây: làm sao gom được thật nhiều đá trước khi
nghỉ hưu, còn sau đó muốn ra sao thì ra.
Một hôm, lúc ấy đã khá khuya, bỗng có tin Chiến Sĩ gặp
nạn. Hoá ra là nó đi kéo xe đá một mình. Không phải là tin đồn nữa, sự thật là
thế, mấy phút sau có hai con bồ câu bay về.
"Chiến Sĩ bị ngã! Nó ngã nằm nghiêng, không dậy
được nữa rồi!", hai con bồ câu thông báo.
Gần một nửa số súc vật trong trang trại lao về phía gò
đất. Chiến Sỹ nằm đó, giữa hai càng xe, cổ vươn ra, nhưng yếu quá, không thể
nhấc đầu lên được. Lưng nó đẫm mồ hôi, hai mắt trông dại hẳn đi. Một dòng máu
nhỏ đang rỉ ra khỏi miệng. Bà Mập quì xuống bên cạnh.
"Chiến Sĩ!", nó hỏi, "Anh sao
vậy?"
"Không thở được nữa rồi", Chiến Sỹ thều thào
nói, "Nhưng không sao. Tôi nghĩ các bạn sẽ dựng lại được cối xay gió. Có
nhiều đá lắm rồi. Dù sao cũng chỉ một tháng nữa là tôi sẽ nghỉ hưu thôi. Nói
thật, tôi mong được nghỉ hưu lắm. Benjamin cũng già rồi, nếu nó cũng được nghỉ
hưu cùng lúc với tôi để cho có bạn thì tốt biết bao."
"Đi báo cho Chỉ Điểm ngay", Bà Mập nói.
Tất cả lập tức chạy về khu nhà chính để tìm Chỉ Điểm.
Chỉ có Bà Mập và Benjamin ở lại. Benjamin yên lặng nằm xuống bên cạnh Chiến Sĩ
và dùng đuôi đuổi ruồi cho nó. Khoảng mười lăm phút sau thì Chỉ Điểm tới, mặt
lộ đầy vẻ thương cảm và sốt sắng. Nó nói rằng đồng chí Napoleon rất buồn khi
biết tin tai nạn đã xảy ra với một trong những người lao động trung thành nhất
của trang trại và đang sắp xếp để đưa Chiến Sĩ đến chữa tại bệnh viện ở
Willingdon. Nhưng lũ súc vật lại cảm thấy có cái gì đó không yên tâm vì từ
trước tới nay ngoài Mollie và Tuyết Tròn ra thì chưa có con nào đi khỏi trang
trại, vả lại chúng cũng không thích giao một đồng chí bệnh hoạn vào tay con
người. Nhưng Chỉ Điểm dễ dàng thuyết phục được chúng rằng các bác sĩ thú y ở
Willingdon sẽ chữa cho Chiến Sĩ tốt hơn là cứ để nó nằm ở trại. Khoảng nửa
tiếng sau thì Chiến Sĩ đứng dậy được, nó lết dần về chuồng. Bà Mập và Benjamin
lấy rơm trải cho nó một cái ổ khá dày.
Chiến Sĩ nằm trong chuồng hai ngày liền. Lũ lợn tìm
được một chai thuốc màu hồng khá to ở trong tủ thuốc đặt tại phòng tắm và đem
ra cho nó. Bà Mập bắt nó uống hai lần một ngày, ngay sau bữa ăn. Buổi tối Bà
Mập vào chuồng của Chiến Sĩ để tâm sự, trong khi Benjamin thì đuổi ruồi cho nó.
Chiến Sĩ nói rằng nó chẳng có gì phải phàn nàn. Nếu lần này hồi phục được thì
nó có thể sống thêm khoảng ba năm nữa, nó mong được sống những ngày thanh thản
còn lại trong góc cái bãi cỏ rộng dành cho những con về hưu. Nó sẽ dành trọn
thời gian rảnh rỗi để học tập, nâng cao trình độ. Nó bảo nó sẽ dành toàn bộ
quãng đời còn lại để học cho thuộc hai mươi hai chữ cái.
Benjamin và Bà Mập chỉ có thể chăm sóc Chiến Sĩ sau
giờ tan tầm, thế mà cái xe đến bắt nó lại xuất hiện vào lúc gần trưa. Mấy con
lợn đang chỉ huy cả bọn gieo hạt cải ở ngoài đồng thì bỗng thấy Benjamin phi
nước đại từ trang trại tới, miệng gào đến lạc cả giọng. Đây là lần đầu tiên
chúng thấy Benjamin xúc động như vậy, cũng là lần đầu tiên chúng thấy nó phi
nước đại.
"Mau lên! Mau lên!", Nó gào lên, "Lại
đây mau lên! Họ mang Chiến Sỹ đi rồi!"
Cả bọn lập tức bỏ việc và cùng chạy về phía khu nhà
chính, không đợi lũ lợn có cho phép hay không. Quả nhiên, trong sân có một cái
xe song mã đóng kín cửa, bên sườn xe có ghi hàng chữ khá to, anh chàng đánh xe
đội một cái mũ phớt trông rất láu cá. Chiến Sĩ không còn trong chuồng nữa.
Lũ súc vật tập trung quanh chiếc xe.
"Đi khoẻ nhá, Chiến Sĩ!", Chúng đồng thanh
hô, "Tạm biệt!"
"Ngu, ngu thế", Benjamin vừa gào thét, vừa
chạy xung quanh, chân nện xuống đất ầm ầm, "Ngu, không nhìn thấy chữ gì
à?"
Cả bọn như tỉnh ngộ, yên lặng nhìn nhau. Con lừa
Muriel bắt đầu đánh vần, nhưng Benjamin đã đẩy nó ra và đọc:
"Lò mổ Alfred Simmond, Willingdon. Mua bán thịt,
xương, da ngựa. Cung cấp cũi chó. Đã hiểu chưa? Chúng mang Chiến Sỹ đi làm thịt
đấy!"
Một tiếng thét kinh hoàng cùng phát ra từ mọi lồng
ngực. Đúng lúc đó, anh chàng đánh xe ra roi và hai con ngựa kéo bắt đầu chạy
nước kiệu. Cái xe từ từ đi ra khỏi sân. Cả lũ cùng chạy theo sau, vừa chạy vừa
khóc như mưa như gió. Bà Mập lao lên. Cái xe cũng tăng tốc. Bà Mập cố phóng
lên, nhưng sức nó không còn, làm sao theo nổi hai con kia.
"Chiến Sĩ!", Nó gào lên, "Chiến Sĩ!
Chiến Sĩ! Chiến Sĩ!"
Không biết Chiến Sĩ có nghe thấy tiếng gọi từ bên
ngoài hay không, nhưng cái mõm với một vệt màu trắng chạy dọc sống mũi của nó
có lấp ló phía trong cái cửa sổ nhỏ ở đằng sau xe.
"Chiến Sĩ!", Bà Mập gào đến lạc giọng,
"Chạy đi! Chạy đi! Chạy mau lên! Chúng giết mày đấy!"
Tất cả đồng thanh thét lên:
"Chạy đi, Chiến Sĩ , Chạy đi!"
Nhưng hai con ngựa đã tăng tốc, cái xe ngày một đi xa
hơn. Không biết là Chiến Sĩ có nghe rõ Bà Mập nói gì hay không, nhưng không còn
trông thấy mõm nó bên trong cửa sổ nữa, đồng thời người ta nghe thấy tiếng chân
nó nện vào thành xe đều và vang không khác gì tiếng trống ngũ liên. Đấy là
Chiến Sĩ đạp vào thành xe để tìm lối thoát. Trước đây thì chỉ vài cái đạp như
thế cũng đủ làm cho chiếc xe này biến thành củi rồi. Nhưng lạy chúa tôi! Sức nó
nay còn đâu và tiếng đạp cứ nhỏ dần, nhỏ dần rồi im hẳn. Không biết làm thế
nào, lũ súc vật đành quay ra cầu cứu hai con ngựa kéo, xin chúng đừng chạy nữa.
"Các đồng chí! Các đồng chí!", Chúng lại
đồng thanh gào lên, "Các đồng chí có biết đang mang người anh em của mình
đi đâu không?"
Nhưng hai con vật ngu lâu, đầu óc tăm tối đó không
hiểu, chúng chỉ khẽ vểnh tai lên và càng chạy nhanh thêm. Không còn thấy Chiến
Sĩ thấp thoáng bên trong cái cửa sổ nhỏ nữa. Có con nghĩ đến việc chạy ra để
đóng cánh cổng lớn lại, nhưng quá trễ mất rồi, chiếc xe đã ra đến đường lớn và
đi xa dần. Từ đấy không ai còn trông thấy Chiến Sĩ nữa.
Ba ngày sau có thông báo rằng Chiến Sĩ đã mất tại bệnh
viện ở Willingdon, mặc dù đã được chăm sóc rất tận tình. Chính Chỉ Điểm thông
báo như thế. Nó còn nói rằng nó đã ở cạnh Chiến Sĩ trong giờ phút lâm chung.
"Thật vô cùng cảm động", Chỉ Điểm vừa nói
vừa lau nước mắt, "Tôi ngồi bên Chiến Sĩ khi đồng chí ấy trút hơi thở cuối
cùng. Trước khi chết đồng chí ấy đã yếu lắm, không nói được nữa, nhưng đồng chí
ấy vẫn cố thì thầm nói rằng đồng chí ấy chỉ tiếc không được tham dự lễ khánh
thành cối xay gió. "Tiến lên, các đồng chí - đồng chí ấy nói - Vì sự
nghiệp của cuộc Khởi Nghĩa hãy tiến lên! Trại Súc Vật muôn năm! Đồng chí
Napoleon muôn năm! Đồng chí Napoleon bao giờ cũng đúng!" - Đấy chính là
những lời nói cuối cùng của đồng chí ấy."
Lúc đó thái độ của Chỉ Điểm đột nhiên thay đổi. Nó
ngồi im một lúc, sau đó nhìn quanh khắp lượt rồi mới tiếp tục câu chuyện.
Nó bảo rằng từ khi đưa Chiến Sỹ đi thì ở trại đã lan
truyền những tin đồn thất thiệt. Một số con nhìn thấy chữ "Lò mổ"
trên thành xe đã vội kết luận rằng Chiến Sĩ bị đưa đi làm thịt. Chỉ Điểm nói
rằng nó không thể tin là các con vật trong trại lại ngu ngốc đến thế. Không thể
tin, Chỉ Điểm vừa nói vừa vẫy đuôi và nhảy loạn xạ lên, là các con vật trong
trại lại có thể nghĩ về lãnh tụ kính yêu, nghĩ về đồng chí Napoleon theo chiều
hướng đó! Mọi việc đơn giản hơn rất nhiều. Số là ông bác sĩ thú y đã mua lại
cái xe của lò mổ, nhưng ông ta chưa kịp xoá tên chủ cũ đi. Lí do chỉ có vậy
thôi.
Nghe nói thế, cả bọn đều cảm thấy yên lòng. Còn khi
Chỉ Điểm tả rõ cảnh chăm sóc, cũng như những thuốc men đắt tiền mà Napoleon hạ
lệnh mua để chạy chữa cho Chiến Sĩ trong những ngày cuối cùng vừa qua thì những
nghi ngờ lâu nay được giải toả hẳn và nỗi buồn mất bạn vơi đi bội phần: dù sao
thì Chiến Sĩ cũng được mồ yên mả đẹp rồi.
Chính Napoleon tham dự cuộc họp vào sáng chủ nhật và
đọc một bài diễn văn tưởng niệm Chiến Sĩ. Chúng ta không có điều kiện, nó nói,
đưa thi hài của người đồng chí quá cố về trang trại, nhưng nó đã ra lệnh làm
một vòng hoa thật lớn, hoa lấy ngay trong vườn trại và đưa đến Willingdon để
đặt lên mộ Chiến Sĩ. Lũ lợn sẽ tổ chức bốn chín ngày [1] thật to cho Chiến Sĩ,
nó hứa như vậy. Napoleon kết thúc bài diễn văn bằng cách nhắc lại hai khẩu hiệu
của Chiến Sĩ: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa" và "Đồng chí Napoleon lúc
nào cũng đúng". Napoleon còn bảo rằng tất cả các con vật trong trang trại
nên học tập Chiến Sĩ, lấy khẩu hiệu của Chiến Sĩ làm khẩu hiệu hành động của
chính mình.
Đúng hôm tổ chức bốn chín ngày cho Chiến Sỹ thì có một
cái xe chở một thùng gỗ lớn đến toà nhà chính. Tối hôm đó từ trong toà nhà vọng
ra tiếng hát, tiếng tranh luận ồn ào và vào lúc mười một giờ thì người ta nghe
thấy tiếng cốc thủy tinh vỡ loảng xoảng, rồi tất cả chìm vào màn đêm yên lặng.
Toà nhà chính đóng cửa kín mít cho đến tận trưa hôm sau, trong khi đó lại có
tin đồn rằng lũ lợn đã kiếm được tiền và mua hẳn một thùng whisky.
Chương 10
Nhiều năm đã trôi qua. Xuân đi, đông lại, cuộc đời
loài vật như bóng câu qua cửa sổ. Chỉ còn Benjamin, Bà Mập, con quạ Moses và
một vài con lợn là còn nhớ được "ngày xưa", khi chưa Khởi Nghĩa.
Muriel đã chết. Bluebell, Jessie và Pincher cũng không
còn. Ông Jones cũng chết rồi, chết trong trại tế bần dành cho người nghiện.
Không ai nhắc đến Tuyết Tròn nữa. Chỉ có vài con vật còn nhớ Chiến Sĩ. Bà Mập
đã thành một con ngựa già béo phị, chân chậm, mắt mờ. Nó đã quá tuổi hưu hai
năm, nhưng thực ra, đã có con nào được hưu trí đâu. Không còn ai nhắc đến
chuyện ngăn một mảnh đất cho những con già cả nữa. Napoleon đã thành một con
lợn đực to sụ, phải nặng tạ rưỡi là ít. Chỉ Điểm cũng béo lắm, mắt híp lại, gần
như không trông thấy gì. Chỉ có Benjamin là vẫn như xưa, tuy râu có trắng ra và
sau khi Chiến Sĩ mất thì càng tỏ ra lầm lì, ít nói hơn.
Trại Súc Vật có thêm nhiều thành viên mới, tất nhiên
là không nhiều như chúng nghĩ lúc đầu. Một số con được sinh ra ngay tại đây,
đối với chúng, cuộc Khởi Nghĩa chỉ là một truyền thống mù mờ, được truyền khẩu
cho nhau. Một số được mua từ nơi khác về, những con này chưa từng nghe ai nói
chuyện đó trước khi đến đây. Ngoài Bà Mập, trại còn có thêm ba con ngựa nữa.
Đấy là những con to, khỏe, chăm làm, tốt bụng nhưng ngu lắm. Không con nào
thuộc quá chữ B. Chúng tin tưởng tuyệt đối vào Súc Sinh Kinh và những câu
chuyện về cuộc Khởi Nghĩa, đặc biệt là những chuyện do Bà Mập, mà chúng coi như
mẹ, kể lại; nhưng có vẻ như chúng cũng chẳng hiểu mô tê gì.
Trang trại được tổ chức tốt và ngày một phồn vinh hơn;
chúng còn mở rộng thêm bằng cách mua của Pilkington hai khu đất nữa. Cối xay
gió đã hoàn thành, chúng mua được cả máy đập lúa, máy nâng hạ và còn xây được
thêm nhiều toà nhà. Whymper cũng mua được cho mình một cỗ xe nhỏ. Chúng không
lắp máy phát điện lên cối xay gió mà dùng nó để xay xát, nhờ thế chúng kiếm
được khối tiền. Chúng lại đang xây một cối xay gió nữa, sẽ lắp máy phát điện ở
đấy, chúng bảo thế. Nhưng những thứ xa xỉ như đèn điện, nước nóng, tuần làm
việc ba ngày mà chúng từng mơ mộng thời còn Tuyết Tròn thì không được nhắc đến
nữa. Napoleon từng tuyên bố rằng những tư tưởng đại loại như vậy là trái hoàn
toàn với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Hạnh phúc chân chính, nó bảo, là lao động
hăng say và sống đạm bạc, tiết kiệm.
Trang trại giàu có thêm, nhưng ngoại trừ lũ lợn và chó
ra, đời sống của các con khác thì vẫn như xưa. Cũng có thể một phần là do có
nhiều lợn và chó quá. Bọn này cũng làm việc, dĩ nhiên là theo cách của mình.
Chỉ Điểm giải thích không mệt mỏi rằng tổ chức và kiểm tra công tác của trại là
những việc phải làm thường xuyên, liên tục. Mà những giống khác đâu có đảm
đương được, việc này cần nhiều trí thông minh lắm. Thí dụ, Chỉ Điểm bảo rằng lũ
lợn mất rất nhiều công sức vào việc soạn những cái gọi là "tài liệu",
"dữ liệu", "báo cáo", "biên bản", "ghi
nhớ". Đấy là những tờ giấy to, viết đầy chữ và sau khi viết xong thì đem
vào lò đốt. Nhờ thế mà trang trại mới được phồn vinh như ngày nay đấy, Chỉ Điểm
thường nói như vậy. Dù sao mặc lòng, những thứ ấy chẳng thể làm lũ chó, lợn ấy
no được, mà chúng phàm ăn lắm.
Cuộc sống của những con khác thì vẫn như xưa. Ngày
chúng thường bị đói, đêm chúng ngủ trên ổ rơm, nước thì uống ngay ở dưới ao,
làm việc ngoài đồng trống, mùa đông thì mất ngủ vì rét, mùa hè thì khổ vì ruồi.
Thỉnh thoảng những con có tuổi cố nhớ lại xem nay đời sống của chúng có khá hơn
ngay sau Khởi Nghĩa, khi chúng vừa đuổi lão Jones đi, hay không. Nhưng chúng
không nhớ nổi. Không có gì cho chúng so sánh: trong đầu chúng chỉ có mỗi những
số liệu của Chỉ Điểm, những con số luôn luôn chứng tỏ rằng mọi thứ đều được cải
thiện, đều tốt thêm một bước mỗi ngày. Thôi thì đành vậy vả lại chúng cũng
chẳng có nhiều thời gian để mà suy nghĩ lung tung. Chỉ có Benjamin già nua là
khẳng định rằng nó nhớ hết, nhớ đến từng chi tiết mọi việc đã qua và biết rõ
rằng chúng chưa bao giờ khổ hơn cũng chẳng bao giờ được sướng hơn, vẫn là đói,
là bán mặt cho đất bán lưng cho trời, là bị loè bịp; qui luật cuộc đời vốn là
như thế, nó thường bảo như vậy.
Dù sao chúng vẫn cứ hi vọng. Hơn thế nữa, chúng còn
luôn tự hào được là công dân của Trại Súc Vật. Trong nước này, mà là nước Anh
hẳn hoi đấy nhé, đây là trang trại duy nhất của súc vật và do súc vật quản lí!
Tất cả mọi con vật, từ những con nhỏ nhất cho đến những con mới được mua từ
cách xa cả chục cây số về, đều tự hào như thế. Nhất là khi chúng nghe thấy
tiếng súng nổ, khi trông thấy lá cờ xanh tung bay là tim chúng lại đập rộn rã,
khi ấy, dù đang nói chuyện gì chúng cũng quay lại đề tài về những năm tháng hào
hùng, về việc lật đổ lão Jones, về việc thiết lập Bảy Điều Răn và về những trận
chiến đấu oanh liệt chống lũ người xâm lược. Chúng cũng không quên nhắc nhở
nhau những kì vọng thuở ban đầu. Chúng tin rằng lời tiên tri của Thủ Lĩnh già
về ngày thành lập Nước Cộng Hòa Súc Vật trên toàn lãnh thổ Anh quốc, ngày con
người bị tống khứ khỏi sứ sở này nhất định sẽ tới. Ước mơ của chúng sẽ thành
hiện thực, nhất định ngày đó sẽ tới, dù còn lâu, dù rằng tất cả những con đang
sống hiện nay sẽ không được chứng kiến, nhưng ngày đó nhất định sẽ tới. Chúng
cũng không quên bài "Súc Sinh Anh quốc", con nào cũng biết hát bài
này, nhưng chúng chỉ dám hát thầm với nhau mà thôi. Dù cuộc sống còn nhiều khó
khăn, dù không phải tất cả ước mơ của chúng đều được thực hiện, nhưng trong
thâm tâm chúng biết rằng chúng là những con vật đặc biệt. Dù chúng chưa được
no, nhưng chúng không phải làm để nuôi bọn người tàn độc; dù chúng còn phải lao
động vất vả, nhưng đấy là chúng làm cho chính mình. Không con nào đi hai chân,
không còn quan hệ chủ tớ. Tất cả đều bình đẳng.
Một hôm, đấy là đầu mùa hạ, Chỉ Điểm bỗng ra lệnh cho
lũ cừu đi theo nó ra cánh đồng bỏ hoang bên ngoài trại, nơi có cả một rừng bạch
dương non. Lũ cừu ở đó cả ngày, tha hồ nhai lá, dĩ nhiên là dưới sự chỉ đạo của
Chỉ Điểm. Tối hôm đó Chỉ Điểm quay lại trang trại một mình, hôm đó thời tiết
tốt nên nó bảo lũ cừu ngủ ngay ngoài đồng cho mát. Chúng ở lại đó suốt một tuần
liền. Ngày nào Chỉ Điểm cũng ra với lũ cừu. Theo như nó nói thì nó đang dạy lũ
cừu một bài hát mới mà yên tĩnh thì học mới mau "vào".
Một chiều, hôm ấy lũ cừu đã học xong và trở về rồi,
trong khi cả bọn đang quay về sau một ngày lao động thì chúng bỗng nghe thấy
tiếng ngựa kêu thất thanh từ phía trại vọng lại. Quá hỏang sợ, tất cả lập tức
đứng như trời trồng. Đấy là tiếng kêu của Bà Mập. Nó lại kêu lên lần nữa, tất
cả lập tức phóng thật nhanh vào sân trại để xem có chuyện gì. Và chúng nhìn
thấy chính cái điều đã làm Bà Mập hoảng loạn.
Đấy là một con lợn đang bước đi bằng hai chân sau.
Vâng, chính là Chỉ Điểm đang đi. Có vẻ vụng về, dĩ
nhiên rồi, một phần vì chưa quen, một phần vì quá nặng, nhưng nó vẫn giữ được
thăng bằng và đi từ bên này sang tận bên kia sân. Một lúc sau thì từ cửa chính
ngôi nhà cả đàn lợn bước ra, tất cả, không trừ con nào, đều đi bằng hai chân
sau. Một số con bước đi một cách tự tin, một số con còn lảo đảo, giá có cái ba
toong thì vững hơn, nhưng tất cả đều đi một vòng quanh sân mà không con nào bị
ngã. Cuối cùng là tiếng chó sủa dữ dội, tiếng gà gáy vang rền và Napoleon bước
ra, lưng thẳng tắp, dáng oai vệ, nó nhìn khắp lượt, xung quanh tíu tít bày cừu.
Chân trước nó cầm một cái roi to.
Xung quanh lặng ngắt như tờ. Ngạc nhiên pha lẫn hoảng
sợ, lũ súc vật tụ vào một góc để nhìn đàn lợn nối nhau đi quanh sân. Thế giới
đảo điên hết rồi sao? Phút hoảng loạn ban đầu rồi cũng qua và dù có sợ bầy chó,
dù bao năm đã quen không dám phàn nàn, không dám phản đối, lần này chắc chắn
chúng sẽ lên tiếng phản đối. Nhưng đúng lúc đó, như có hiệu lệnh, bọn cừu đồng
thanh gào lên:
"Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt,
hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn!"
Chúng tụng như thế năm phút liền, không ngưng nghỉ.
Khi lũ cừu im thì đàn lợn đã vào hết trong nhà rồi, có phản đối cũng chẳng ai
nghe.
Benjamin cảm thấy như có con nào đang lấy mũi cọ vào
vai mình. Nó quay đầu lại. Hoá ra là Bà Mập. Đôi mắt đã mờ của nó trông càng
buồn hơn lúc nào hết. Nó khẽ ngoạm vào bờm của Benjamin và kéo ra phía đầu hồi
của nhà kho lớn. Chúng đứng đó, yên lặng ngắm những dòng chữ màu trắng trên bức
tường sơn hắc ín.
"Tôi chẳng còn trông thấy gì cả - Cuối cùng Bà
Mập lên tiếng - Ngay khi còn trẻ tôi cũng có đọc được chữ nào đâu. Nhưng tôi
thấy hình như bức tường trông khác lắm. Bảy Điều Răn vẫn thế chứ, anh
Benjamin?"
Đây là lần đầu tiên Benjamin từ bỏ thói quen cố hữu
của nó và khẽ đọc cho Bà Mập nghe. Trên bức tường chỉ còn ghi một Điều Răn duy
nhất như sau:
MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG, NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON
BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC.
Sau đó thì ngay cả việc những con lợn đốc công mang
theo roi ra đồng cũng không làm chúng ngạc nhiên nữa. Chúng cũng không ngạc
nhiên khi thấy bọn lợn mua đài, rồi thảo luận kí hợp đồng đặt máy điện thoại
cũng như đặt mua các báo như John Bull [2] , Tits-Bit 1 và Daily Mirror 2 .
Chúng cũng không ngạc nhiên khi trông thấy Napoleon mồm ngậm tẩu thuốc đi dạo
trong vườn, cũng như khi thấy lũ lợn lấy quần áo của ông Jones ra diện nữa.
Napoleon chọn cho mình chiếc áo khoác đen, quần ống túm, ủng da; trong khi con
lợn cái mà nó thích nhất được bộ lụa tơ tằm mà bà Jones thường mặc khi đi nhà
thờ, vào những ngày chủ nhật.
Một tuần sau, buổi chiều, có rất nhiều xe cộ đi vào
trại. Đấy là đại biểu các trang trại lân cận được mời đến thăm quan Trại Súc
Vật. Quan khách rất ngạc nhiên khi được xem các cánh đồng, các công cụ sản xuất
của trại, đặc biệt là cối xay gió. Lúc đó các con vật đang nhổ cỏ trên cánh
đồng trồng củ cải. Chúng làm việc chăm chỉ, ít khi ngẩng đầu lên. Chúng cũng
không biết trong hai loại đó, quan khách và lợn, bọn nào đáng sợ hơn.
Tối hôm đó có tiếng hát và tiếng cười rất to vẳng lại
từ phía ngôi nhà chính. Lũ súc vật bỗng cảm thấy tò mò, muốn biết trong nhà đó
đang nói chuyện gì vì đây là lần đầu tiên con người và con vật gặp nhau như
những đối tác bình đẳng. Rồi không con nào bảo con nào, chúng cùng nằm xuống và
im lặng bò đến gần toà nhà chính.
Chúng hơi lưỡng lự khi bò đến cổng, nhưng Bà Mập đã
tiến lên hàng đầu. Khi đến gần toà nhà thì chúng nhón gót đứng lên, những con
đủ chiều cao có thể nhìn được qua cửa sổ. Bên trong, có sáu điền chủ và sáu con
lợn xuất chúng nhất đang ngồi xung quanh một cái bàn dài. Napoleon ngồi ngay
đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đã quen với việc ngồi ghế từ
lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đã ngưng, chắc là để nâng cốc chúc mừng
nhau. Một chiếc bình khá to được chuyền tay nhau và tất cả các li đều được rót
đầy bia. Không ai để ý đến lũ súc vật đang tò mò nhìn qua cửa sổ.
Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li bia, đứng dậy.
Ông nói rằng sau đây ông sẽ đề nghị nâng li chúc mừng. Nhưng ông xin được nói
vài lời trước đã.
"Thật là vô cùng phấn khởi - ông nói - đối với
ông, cũng như đối với tất cả những người đang có mặt ở đây hôm nay, vì giai
đoạn nghi kị và hiểu lầm đã chấm dứt". Đã có thời kì, dĩ nhiên là ông cũng
như những người có mặt ở đây hôm nay không hề muốn như thế, nhưng rõ ràng là đã
có những thời kì mà những người xung quanh nhìn các chủ nhân đáng kính của Trại
Súc Vật với một thái độ, không thể nói là thù địch, nhưng với một sự thiếu
thiện cảm. Đáng tiếc là đã xảy ra một vài va chạm, đã lưu truyền một vài quan
niệm sai lầm. Có ý kiến cho rằng một trang trại của lợn và do lợn quản lí là
một điều bất bình thường và không nghi ngờ gì rằng trại này sẽ tạo ra những ảnh
hưởng không hay cho những trang trại xung quanh. Nhiều điền chủ, phải nói là
khá nhiều, không hề điều nghiên, đã vội kết luận rằng ở đây sẽ có nhiều hành vi
quá trớn và thiếu kỉ cương. Họ lo lắng về ảnh hưởng của trang trại này không
chỉ đối với súc vật mà còn đối với cả những người làm thuê cho họ nữa. Nhưng
tất cả những mối ngờ vực đó đã chấm dứt. Hôm nay, ông và các đồng nghiệp đã
được mời thăm quan trang trại, họ đã xem xét rất kĩ, họ đã tìm thấy gì? Không
chỉ công nghệ hiện đại nhất mà cả kỉ cương, trật tự của trại đều xứng đáng cho
các trang trại khắp nơi học tập. Ông tin không nói sai khi bảo rằng những loài
súc vật hạ đẳng ở đây làm việc nhiều hơn nhưng lại nhận được khẩu phần ít hơn
so với các trại khác trong khu vực. Tóm lại, ông và các đồng nghiệp đã trông
thấy ở đây nhiều điều đáng phải áp dụng ngay.
Ông nói xin chúc tình hữu nghị giữa Trại Súc Vật và
các trại khác đã, đang và sẽ tồn tại mãi mãi. Quyền lợi của loài lợn và của
loài người không hề và không được mâu thuẫn nhau. Cả hai đều có chung mục đích
và có chung những khó khăn. Vấn đề sức lao động thì ở đâu chả giống nhau, có
phải thế không? Đến đây thì rõ ràng là Pilkington định nói một câu khôi hài đã
chuẩn bị sẵn từ lâu, nhưng buồn cười qua, không thể thốt thành lời. Sau một lúc
cố gắng đè nén tình cảm, Pilkington nói một câu như sau:
"Nếu các bạn phải xử lí những loài vật hạ đẳng,
thì chúng tôi, chúng tôi cũng phải xử lí các giai cấp hạ đẳng."
Đáp lại câu nói ý vị đó 3 là tiếng cười tưởng muốn vỡ
nhà, Pilkington lại chúc mừng lũ lợn về việc ăn ít, làm nhiều và kỉ cương, nề
nếp của trại.
Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi người cùng đứng
dậy, đổ đầy bia vào li.
"Thưa các ngài!", Pilkington kết thúc bài
diễn văn như vậy, "Thưa các ngài, xin các ngài cùng nâng cốc chúc Trại Súc
Vật ngày càng thịnh vượng."
Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm. Napoleon khoái bài
diễn văn đến nỗi đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống. Khi tiếng vỗ tay đã
dịu xuống, thì Napoleon, lúc đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó cũng xin được phát
biểu vài câu.
Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi ngay vào thực
chất vấn đề. Napoleon bảo rằng nó cũng rất mừng là đã thanh toán hết mọi hiểu
lầm. Trước đây từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế lực thù địch
tuyên truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi những ý tưởng phá
hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho chúng ý định kích
động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu khống, bịa đặt từ đầu
tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay cũng như trong quá khứ, là được
sống trong hoà bình và có quan hệ làm ăn bình thường với những người láng
giềng. Trại mà nó được vinh dự lãnh đạo, Napoleon nói thêm, là một loại hợp tác
xã. Tất cả những thứ nằm dưới sự quản lí của nó là tài sản chung của cả loài
lợn trong trại.
Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ đã được giải toả
và những thay đổi gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau hơn nữa. Cho
đến nay các con vật trong trang trại có một thói quen không hay là gọi nhau
bằng "Đồng chí". Thói quen này sẽ bị bãi bỏ. Còn một thói quen nữa,
không biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành hàng ngũ trong
sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng bị bãi bỏ và
cái đầu heo đã được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đã có dịp trông thấy lá cờ
xanh tung bay. Nếu quả họ đã trông thấy thì chắc chắn là họ phải nhận ra rằng
biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đã bị xóa bỏ rồi. Từ nay trở đi lá cờ sẽ
chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi.
Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại chút xíu bài diễn
văn vô cùng súc tích và đầy thiện ý của ngài Pilkington. Trong suốt bài diễn
văn ngài Pilkington đã gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài Pilkington dĩ nhiên
không thể biết, vì hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon tuyên bố hủy bỏ tên
Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang, cần phải gọi như thế
vì từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế.
"Thưa các ngài!", Napoleon kết luận,
"Tôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc mừng, nhưng với một chút xíu sửa đổi.
Xin các ngài rót đầy cốc đi đã. Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang ngày càng
thịnh vượng!"
Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn cốc. Nhưng những
con vật đang đứng bên ngoài thì thấy như đang xảy ra một chuyện kì lạ. Tại sao
mặt những con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục mờ của Bà Mập hết nhìn
con này lại nhìn sang con khác. Con thì cằm có đến năm ngấn, con lại có bốn, con
thì có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay đổi nhanh thế nhỉ? Tiếng
vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở, những con đứng xem bên
ngoài lục tục bò trở ra.
Nhưng chúng vừa bò cách khoảng hai mươi mét thì tất cả
cùng dừng lại. Có tiếng hò hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà. Chúng lập tức quay lại
và tiếp tục nhìn qua cửa sổ. Cuộc tranh cãi đang hồi quyết liệt. Có tiếng hét,
tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi kị. Nguyên nhân cuộc
tranh cãi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con đầm pích cùng một lúc.
Mười hai cái miệng tức giận cùng lên tiếng, có trời
mới phân biệt được ai với ai. Bọn súc vật không còn để ý đến mặt mấy con lợn
bên trong nữa. Chúng nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn,
một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn
nữa.
Hết
Tháng 11 năm 1943 - tháng 2 năm 1944.
Chú thích:
1 Tạp chí ra hàng tháng, thường đăng các bài báo,
truyện ngắn, tranh có tính cách giải trí. Xuất bản từ năm 1895.
2 Tờ báo ra hàng ngày, dành cho độc giả bình dân, ngả
về Đảng Lao động, thường đăng nhiều bài giật gân, quảng cáo do tập đòan Mirror
Group Newspaper phát hành. In 3 triệu bản mỗi kì. Xuất bản từ năm 1903.
3 Nguyên văn: bon mot (tiếng Pháp).
Nguồn: vnthuquan.net
Người đưa lên: bạn Mickey
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét