Ký
ức làng Cùa
Tiểu thuyết của Đặng Văn Sinh
(Tiếp theo)
1
Hơn
một năm sau Khúc Thị Nhân mới từ Đậu Khê về làng Cùa. Đậu Khê là quê ngoại Khúc
Kiệt. ở đấy ông ta còn một bà chị họ góa chồng. Nhìn thấy cô em, Khúc Luận lúc
ấy chưa đầy mười ba tuổi nhưng đã thấy xốn xang trong lòng. Những biểu hiện
giới tính của cậu ta phát triển quá sớm mà con gái ông chú thì lại đẹp rực rỡ
như một bông hoa đồng nội còn hàm tiếu dưới nắng ban mai. Khúc Luận học trường
huyện trông đã ra dáng một gã trống choai. Dạo này cậu ta đang được nghỉ hè,
ngày nào cũng sang nhà Nhân giúp cô dọn dẹp.
Việc dựng túp lều đối với Nhân phức tạp
hơn cô nghĩ vì không những thiếu vật liệu cần thiết mà bản thân cũng chưa từng
làm quen với loại công việc này. Khúc Luận là chàng công tử bắt cào cào châu
chấu, nghịch ngợm thành thần, nhưng để trở thành thợ mộc, thợ đấu hoặc lợp nhà
thì xem ra còn tốn nhiều thời gian và cơm gạo. Lúc đầu Nhân nghĩ Khúc Luận có
lòng tốt, thương cô em họ gặp hoạn nạn, nhưng dần dần thấy cậu ta có những biểu
hiện của một kẻ si mê mình thì bảo:
- Từ mai anh phải ở nhà học, cứ lêu
lổng là bác Cả đánh đòn.
Khúc Luận cười lấy lòng:
- Bây giờ đang nghỉ hè bài vở có gì
đâu.
- Nhưng anh cứ sang bên này làm quẩn
chân tôi.
- Nhân đuổi đấy à?
- Không dám.
Vào
lúc ấy Lý Quỳnh sang. Nhà Lý Quỳnh với nhà Khúc Kiệt cách nhau không xa. Từ hồi
mất cả vợ lẫn con, ông ta hay uống rượu rồi la cà khắp nơi trong làng. Nhìn
thấy Ngô Quỳnh, Khúc Luận tức lắm, cậu ta hứ một tiếng rồi về, chẳng
thèm chào một lời. Sáng hôm ấy, Nhân tắm sớm, chưa kịp mặc yếm thì Khúc Luận đã
sang, đành phải khoác tạm chiếc áo cánh nâu, thành thử mỗi cử động, cặp vú tròn
căng như hai trái dừa xiêm đánh đu trước ngực vô cùng khêu gợi. Thoáng nhìn cặp
vú trinh nữ, người Ngô Quỳnh phút chốc như nổi gai. Ông ta cảm thấy phía trước
như có dải sương mù chắn mất tầm nhìn. Trong cái khối bùng nhùng màu trắng đục
như khói ấy hình như có mùi mồ hôi ngai ngái cùng với hương bồ kết nồng nồng từ
mái tóc óng như mây chiều và chút sữa hoi hoi thấm qua lần áo mỏng. Ngô Quỳnh
hít một hơi dài giấu vẻ lúng túng bởi những liên tưởng hoàn toàn không tương
xứng với tư cách của một ông Lý trưởng xấp xỉ ngũ tuần, rồi mới ngập ngừng bảo:
- Tôi sang giúp cô làm lại gian nhà.
Nhân giẫy nảy lên:
- Ấy chết ! Ông Lý còn bận việc dân việc
nước, nhà cháu không dám phiền.
- Có gì đâu mà phiền. - Lý Quỳnh xắn tay
áo vào việc rất tự nhiên. - Là người làng với nhau, hơn nữa cô bây giờ chẳng
còn ai ở nhà, phận gái không nơi nương tựa tôi ái ngại lắm.
- Xin nhận tấm lòng của ông Lý, còn công
việc thì cháu cũng làm được mà.
- Cô đừng khách sáo quá. Tôi chỉ có một mình, nhiều
lúc buồn lắm, nên thỉnh thoảng cũng muốn giúp bà con trong làng cho khuây khoả.
Hơn hai mươi năm trước, Lý Quỳnh đã có
một thời oanh liệt. Thuở nhỏ, gia đình ông ta tuy không thuộc loại khá giả
nhưng cũng được bố mẹ cho đi học chữ nho với ông cả Thuyết là bố đẻ ra Đồ Sách
bây giờ. Ngô Quỳnh đẹp trai mà lại ngỗ nghịch có tiếng rất hay bị ông Trương
Phẩm đánh đòn. Ông Phẩm thửa chiếc roi mây to bằng ngón tay giắt mái nhà, lôi thôi
là vụt tối tăm mặt mũi. Nhiều lần Quỳnh bị thâm tím cả người, nhất là hai mông
đít nhưng chứng nào vẫn tật ấy. Năm mười bốn, mười lăm tuổi, cậu ta hay đánh
giậm ở ngòi Mác. Đây là con lạch bắt nguồn từ cánh đồng Mả Dứa chảy vòng vèo
qua xóm Trại Cá rồi đổ vào đầm Ma, rất nhiều tôm rảo, tép gạo và cá lòng cò.
Tôm rảo nhỏ nhưng chắc thịt, nhảy tanh tách, mỗi mẻ quờ được hàng chục con. Thứ
này rang khô, cho thêm thìa mỡ và chút đường ăn với cơm rau muống luộc cả tháng
không biết chán. Cá lòng cò vào dịp tháng sáu ta, con nào cũng mang trứng, bụng
phình ra tròn ung ủng. Chúng kéo hàng đàn hàng lũ, ngược dòng nước lờ lờ, thỉnh
thoảng lại nghiêng mình phô ra những lớp vẩy bé tí xíu óng ánh như kim tuyến. Người làng Cùa thường nấu cá lòng cò
với khế hoặc lá me ăn kèm rau ghém thái bằng cây chuối non hay rau muống chẻ.
Cây me nhà ông Đà xóm Cầu Đá cao chót vót, chẳng biết được trồng từ bao giờ,
chuyên cung cấp lá cho cả làng. Dưới gốc có ngôi miếu nhỏ thờ Mộc Thần. Trước
khi leo lên vặt lá, ai cũng vào khấn mấy câu để thần phù hộ khỏi ngã.
Lúc ấy đã quá trưa, Ngô Quỳnh giặt giậm,
leo lên bờ bắt những con đỉa bám vào chân vứt xuống ruộng. Trời oi nồng như sắp
có giông. Khắp nơi đồng không mông quạnh. Hắn quàng mõ giậm vào cán, đặt lên
vai rồi thủng thẳng về. Trên gò Mả Dứa hình như vẫn còn người lúi húi cắt cỏ.
Khu mả Dứa nổi tiếng lắm rắn. Không biết đứa nào mà gan thế, dám ra đây giữa
trưa. Gọi là mả Dứa vì đấy là một khu gò cao hơn mặt ruộng, chung quanh mọc
toàn dứa dại đầy gai nhọn, là nơi tá túc của đủ loại từ cầy cáo, chuột, rắn,
mèo hoang đến châu chấu ma, cào cào lửa và cà cộ. Dứa mọc chen chúc thành những
bụi to tướng, cao lênh khênh, rậm rạp như một khu rừng rất bí hiểm đối với
những kẻ giầu trí tưởng tượng. Ở giữa vành đai dứa dại ấy là những vạt cỏ chỉ
và cỏ xước xanh mướt, cao đến đầu gối.
Nhìn thấy cô gái thấp thoáng giữa bụi
dứa dại, Ngô Quỳnh chợt sáng mắt lên. Hắn vốn là gã có máu phong tình, sớm đến
tuổi dậy thì, liền quẳng giậm và giỏ cá rồi cúi thấp người bò lên gò, luồn qua
những gốc dứa như con mèo rình mồi. Gần đến nơi, Ngô Quỳnh mới biết đó là cô
Son con ông Bảy Ngạnh. Son chưa đầy mười bẩy nhưng cặp vú bánh dày nhô lên làm
cả khuôn ngực chật căng trong chiếc áo cánh nâu non. Cô nàng lê la dùng liềm
lia từng nhát xén cỏ xoàn xoạt, thỉnh thoảng nhổm người vơ thành đống xếp vào
quang làm cặp mông vổng lên đong đưa đầy khêu gợi. Gã đánh giậm nhìn cô gái một
lúc, nước bọt chảy tứa ra hai bên mép. Hắn chịu không nổi nữa bèn nhào đến ôm
cô ta từ phía sau lưng. Cô Son giật mình tưởng là ma, mặt tái xám, không kêu
được một tiếng. Ngô Quỳnh chẳng để mất thời gian, dằn ngửa cô nàng ra, luồn tay
vào trong váy sờ soạng. Lúc này cô gái đã hiểu ra khi thấy thằng con nhà Trương
Phẩm đang loay hoay trên bụng mình. Cơn sợ hãi đã qua, phản ứng tự vệ trở lại,
trong tay sẵn chiếc liềm, cô ta liền bổ một nhát vào mặt thằng đánh giậm. Ngô
Quỳnh nghiêng đầu tránh được cú đòn trực diện, nhưng mũi liềm sắc cắm vào dưới
màng tai làm hắn rú lên, tuột khỏi bụng cô cắt cỏ, lấy hai tay bịt vết thương
lăn lộn giữa đám cây bạc hà dại. Nhìn thấy vết máu nhoe nhoét trên cổ thằng
đánh giậm, cô Son đâm hoảng, bỏ cả quang gánh, cầm chiếc liềm chạy một mạch về
nhà, chui vào buồng khóc, bố mẹ hỏi cũng không nói. Thấy con gái có cử chỉ khác
thường, ông Bẩy Ngạnh tra hỏi mãi cô Son mới thú thật sự việc trên gò Mả Dứa.
Bà mẹ gầm lên:
- Nó đã làm gì mày chưa ?
Cô con gái vẫn tấm tức khóc. Ông bố
quát:
- Tao hỏi, nó đã làm gì mày chưa ?
- Đã bảo là chưa. - Cô Son cũng vặc lại
- Con đã cho nó nhát liềm vào cổ chẳng biết sống chết ra sao. Con sợ lắm thầy u ạ.
- Giời ạ ! Con mới chả cái - Bà mẹ rên
rỉ - Chẳng may xảy ra án mạng thì tù mọt gông.
Ông Ngạnh vớ chai rượu, tu một ngụm, lấy
ống tay áo quệt ngang miệng, mắng vợ:
- Cái thằng chó dái ấy chết là đáng đời.
Bây giờ tôi phải đến nhà Trương Phẩm báo cho lão ra lôi thằng con về. Cái Son ở
nhà. Từ nay không được ra Mả Dứa cắt cỏ nữa.
Vết thương ở cổ không nặng lắm nhưng
chuyến ấy Ngô Quỳnh bị nện một trận thừa sống thiếu chết. Ngay chiều hôm ấy,
ông Phẩm quẳng cho hắn mấy bộ quần áo rồi tống ra khỏi nhà. Về phần mình, chàng
đánh giậm cũng thấy như thế là quá nhục không còn mặt mũi nào ở lại làng đành
chấp nhận kiếp sống tha hương. Cuộc ra đi của Ngô Quỳnh tuy không có người áp
giải nhưng chẳng khác gì cảnh lưu đày. Hắn khoác khăn gói, đầu cúi gằm lùi lũi
bước đi trước con mắt dè bỉu của những kẻ hiếu sự thập thò trong cổng. Cứ nghĩ
đến những ánh mắt như lưỡi dao lá lúa xuyên thấu vào da thịt, Ngô Quỳnh vừa hổ
thẹn vừa căm thù. Các người cứ cười đi rồi đến lúc phải khóc cho mà xem. Ngô
Quỳnh ta thề sẽ trở về trả mối hận này. Con đĩ Son hãy coi chừng. Mà việc đếch
gì phải xấu hổ. Cái khác nhau chỉ là ở chỗ bọn họ sờ mó nhau ban đêm, còn ta
công khai việc ấy giữa thanh thiên bạch nhật mà thôi. Nghĩ như vậy Ngô Quỳnh
bất giác bật cười. Tiếng cười của hắn vừa ngạo nghễ, vừa uất hận, lan khắp các
ngõ xóm trước khi ra bờ sông Lăng, khiến người làng nghĩ hắn là một thằng điên.
Đêm hôm ấy, Ngô Quỳnh ngủ trong một bãi
chuối ven sông cách làng Cùa khá xa. Hắn thu gọn lá khô dồn thành đống rồi chui
vào đánh một giấc. Nửa đêm tỉnh dậy vì có tiếng cú rúc ngay bên cạnh, hắn bực
mình nhưng không thể nào ngủ lại được. Hắn bắt đầu ân hận bởi hành động ngu
xuẩn của ngày hôm trước. Tâm trạng đã trở lại cân bằng. Hắn phải thừa nhận mình
đã dại dột làm một việc vô luân, bôi do trát trấu lên mặt bố mẹ. Lúc này Ngô
Quỳnh rất muốn, tất cả những chuyện ấy chỉ là một giấc mơ. Nó không có thật và
rồi chừng một hai canh giờ nữa hắn lại về làng Cùa, buổi sáng đến trường nghe
thày Cả Thuyết giảng Kinh Thi, chiều lại vác giậm ra đồng kiếm cá. Cuộc sống
thật thanh bình và làng Cùa cổ lỗ, lạc hậu, lắm hủ tục kia đẹp biết nhường nào.
Bất giác Ngô Quỳnh sờ tay lên cổ. Vòng vải diềm bâu băng vết thương vẫn còn đó,
đau rát, thỉnh thoảng lại cắn nhói một cái, may mà nó chỉ sâu nửa đốt ngón tay,
không vào chỗ phạm. Mũi liềm cắt cỏ của con nặc nô ấy bổ lệch một chút vào yết
hầu hoặc trúng giữa thái dương, thì hắn đi đời.
Ngày thứ ba, Ngô Quỳnh thất thểu ở Ngã
ba Môi, vô kế khả thi. Hắn đói, cứ tầm chiều lại ra các bãi ngô mót những bắp
kẹ sau vụ thu hoạch hoặc tìm chuối chín dọc cánh bãi sau đê. Hắn để ý thấy có
chiếc đò dọc neo ở bến Tuần từ chiều hôm trước. Đó là loại thuyền gỗ nhỏ, buồm
cánh dơi, chuyên chở hàng nông sản từ Ba Tổng đi kẻ Sung. Chủ thuyền là anh
Trác, mới khoảng ba chục tuổi nhưng chẳng khác gì ông già năm mươi bởi cái dáng
lòng khòng và mái tóc sớm muối tiêu đầy vẻ phong trần. Cùng đi với anh Trác còn
có chị Nhuần và cô con gái tên là Nhụy. Vợ Trác là người đàn bà đẫy đà còn xuân
sắc nhưng chẳng hiểu vì sao chỉ sinh nở có một lần. Với sức vóc vậm vạp chị ta
khênh những sọt dưa hấu hoặc bí đao xuống thuyền băng băng, khác hẳn ông chồng
hom hem mỗi bước đi một bước dừng lại thở. Anh Trác bị bệnh suyễn kinh niên,
công việc đò dọc là quá sức nhưng chị vợ ham làm giàu chẳng nghĩ gì đến tính
mệnh của chồng. Mọi việc giao dịch mua bán đều do chị ta quán xuyến.
Dịp ấy đã qua mùa lũ, sắp đến tiết bạch
lộ, cồn Láng phơi màu vàng nhạt giữa ngã ba sông. Đứng trên bến Tuần có thể
nhìn rõ những vồng khoai mới trồng trên bãi phù sa giữa những bờ cỏ xanh thẫm.
Hoa cứt lợn và hoa vòi voi lốm đốm giữa những đám tầm bóp sai trĩu quả. Quả tầm
bóp bằng ngón tay cái đang độ chín, thỉnh thoảng gặp cơn heo may đầu mùa khẽ
đung đưa như chùm đèn lồng bọc lụa vàng óng. Hoa bồ công anh hăng hắc như mùi lá
bạc hà nở rộ trên khắp các bãi hoang. Một cây đa cổ thụ nhưng thấp lè tè đứng
chơ vơ trên gò đất hình con voi quỳ cao hơn hẳn mặt cồn. Dưới gốc đa là hai
gian quán, cột đá, lợp ngói mũi để vào thời vụ những người làm đồng tránh mưa
nắng. Trên cao, vòm trời xanh màu lá
non, một con diều đang chao lượn. Con diều khá lớn được neo bằng dây tre, đang
thả vào không gian những thanh âm du dương của cặp sáo kép, nghe chẳng khác gì
dàn hoà tấu của các nhạc cụ dân tộc. Nằm trên cỏ, gối đầu lên khăn gói, Ngô
Quỳnh tuy đói nhưng vẫn mải mê lắng nghe tiếng sáo từ trên trời vọng xuống. Hắn
nhìn con diều và ước lượng kích thước của nó, ít nhất cũng phải bằng chiếc
thuyền thả lưới bén. Vào đúng lúc ấy, người thiếu phụ, vợ Trác đến bên hỏi :
- Cậu đi đâu mà nằm ườn ra thế này?
Hắn trả lời nhát gừng:
- Chẳng đi đâu cả.
- Cậu này nói lạ. - Chị ta nguýt Ngô
Quỳnh, giọng hơi chua. - Chắc là bị bố mẹ tống ra khỏi nhà?
Ngô Quỳnh nhỏm dậy:
- Sao chị biết?
Người phụ nữ cười nửa miệng:
- Trông bộ dạng cậu thì biết. Hẳn là
đang đói phải không?
- Chị đừng có nói mò. - Ngô Quỳnh bực vì
bị người đàn bà bắt thóp. - Việc gì đến nhà chị?
- Hỏi thế vì tôi đang cần người làm. Cậu
có muốn đi đò dọc không?
Ngô Quỳnh hỏi cộc lốc:
- Làm gì?
- Chống sào.
Thái độ anh chàng lập tức thay đổi. Hắn
vội hỏi:
- Chị thuê thật à?
- Tôi không nói chơi. - Người đàn bà
bảo. - Thuyền đang ở dưới bến kia.
Coi như hôm ấy Ngô Quỳnh gặp may. Có lẽ
lúc ra khỏi làng hắn vô tình bước chân phải trước. Mà cái chân phải giống như
điềm lành ấy, đã phù trợ vị Lý trưởng tương lai làng Cùa suốt những năm lênh
đênh sông nước. Ngoài việc chống thuyền, Ngô Quỳnh còn đảm nhận chức năng khuân
vác, nghĩa là bốc hàng lên xuống mỗi khi đò cập bến. Tuy mới già mười lăm nhưng
sức vóc vạm vỡ, hắn bê những sọt hàng nặng vài yến chạy huỳnh huỵch suốt ngày
không thấy mệt. Chị Nhuần thích lắm bảo:
- Cậu làm tốt lắm, cứ ở đây với anh chị,
đừng đi đâu nữa.
Nghề đò dọc thích nhất là những lúc sóng
êm gió thuận. Giữa trời nước bao la, con thuyền êm giầm, cánh buồn no gió phồng
lên phơi màu nâu sẫm dưới ánh trăng vàng. Có khi mặt nước phẳng như tấm gương
phản chiếu bầu trời đêm với những ngôi sao xanh, mơ hồ từ chòm Song Tử xa xôi.
Những lúc thanh nhàn như thế, Ngô Quỳnh thường cùng cái Nhụy con gái anh Trác,
ngồi trên sạp thuyền ngắm ông Thần Nông và Con Vịt rồi khe khẽ cất tiếng hò một
điệu hò sông nước. Tiếng hò của hai đứa lúc hoà làm một, lúc lại tách ra, âm
vang rất xa dường như chạy mãi đến tận ngọn nguồn dòng sông. Hò chán lại lăn ra
ngủ. Có lần bất chợt thức dậy, cái Nhụy thấy bàn tay Ngô Quỳnh đặt lên ngực
mình liền hất ra rồi chui vào trong khoang.
Khổ nhất là những khi ngược nước, trái
gió. Ngô Quỳnh phải quàng dây thừng vào vai, chân trần, khom lưng, kéo con
thuyền nhích dần từng bước men theo triền sông. Dấu chân to bè của hắn in trên
lớp phù sa đỏ. Dưới thuyền, anh Trác tì sào vào ngực, chạy từ mũi đến lái, dùng
hết sức bình sinh đẩy, có khi cong cả con sào. Giong thuyền ngược nước cực lắm.
Nhiều khi thấy chồng mệt chị Nhuần phải làm đỡ. Chị đặt đầu sào vào bộ ngực đồ
sộ, đẩy thuyền một cách kiên nhẫn. Ngô Quỳnh cho rằng cặp vú của chị có khả
năng đàn hồi. Nó giống miếng đệm lò xo có khả năng co giãn làm người ta không
thấy đau. Nhưng không phải thế. Thực ra chị đặt đầu sào vào hõm vai. Buổi tối
trước khi đi ngủ, hắn trông thấy chị lấy rượu ngâm củ gấu Tàu bôi khắp bả vai
rồi lặng lẽ xoa bóp.
Khoang thuyền chật được chia làm hai
ngăn bằng vách thưng. Cái Nhụy ngủ với mẹ còn Ngô Quỳnh và anh Trác nằm ngoài.
Những đêm mưa phùn gió bấc, anh Trác vào ngủ với chị Nhuần, cái Nhụy lại bò ra
nằm bên cạnh hắn. Lúc phía trong có tiếng lịch kịch rồi chị Nhuần khẽ rên rỉ
như là bị người ta bóp cổ hoặc thở hổn hển như sắp hết hơi, Ngô Quỳnh làm như
mê ngủ luồn tay vào váy cái Nhụy. Nó cũng làm như chẳng biết gì nhưng trống
ngực thì đập thon thót. Vừa lúc ấy anh Trác chui ra. Hắn hốt quá, người toát mồ
hôi, lặng lẽ nhích dần vào vách thuyền.
Thời gian trôi nhanh, thấm thoắt Ngô
Quỳnh đã xấp xỉ mười tám. Nghề sông nước và cuộc sống nay đây mai đó khắp các
xứ đông đoài đã biến hắn thành một chàng trai thực thụ. Cái Nhụy cũng đã trở
thành thiếu nữ. Anh Trác có ý định tác thành cho hai đứa, nhưng rồi một ngày
kia chuyện không may xảy ra.
Hôm ấy, con thuyền chở nặng dưa hấu Sài
Sơn đang đậu ở bến Tuần định sáng hôm sau nhổ neo về bến Phù Dung thì một cơn
bão bất ngờ ập tới. Đó là con bão năm Tỵ
mà cho đến giờ mọi người vẫn nhớ. Một trận gió xoáy giật đứt dây neo, đẩy
thuyền về phía sông Cổ Cháy. Thực ra bão không mạnh lắm nhưng thỉnh thoảng có
một cơn gió giật kinh người. Nước sông lên cao do mưa lớn ở thượng nguồn. Con
thuyền lừ lừ trôi mà không có cách gì hãm lại được. Thấy thế nguy chị Nhuần và
cái Nhụy định ném dưa xuống sông. Anh Trác vội quát;
- Không được ném! Ném hết hàng là thuyền
bị lật.
- Làm thế nào bây giờ? - Chị Nhuần cũng
gào lên.
- Mẹ mày ra cầm lái để tôi vào bờ giòng
dây kéo.
- Không được! Nguy hiểm lắm! - Chị Nhuần
xua tay ra hiệu.
- Còn hơn là chết cả nhà. - Anh Trác vừa
nói vừa liếc về phía Ngô Quỳnh. - Cậu lấy cây sào dài thăm dò độ sâu, nếu chạm
đất phải cố ghì hướng mũi thuyền vào bờ.
Anh Trác vừa nhảy xuống lập tức bị nước
cuốn ra giữa sông, lay hoay mãi chưa tấp được vào bãi nổi. Ngô Quỳnh buông sào
nhảy xuống nắm sợi dây chão đã tuột khỏi tay anh Trác, lặn sâu xuống bơi ngầm
dưới nước. Con thuyền vẫn lắc lư như người say nhưng tốc độ đã chậm lại vì Ngô
Quỳnh kéo được mũi vào vùng nước nông. Hắn ra hiệu cho mẹ con chị Nhuần đưa
thuyền vào cồn Láng rồi nhào ra tìm anh Trác. Sau nửa giờ lặn ngụp, Ngô Quỳnh
mệt nhoài nhưng vẫn không thấy bóng dáng chủ thuyền trong khi nước lũ dồn về,
dâng lên mỗi lúc một cao. Cơn bão hoành hành suốt đêm hôm ấy, đến gần sáng mới
dịu đi. Một trận mưa trắng trời đổ xuống ngã ba sông. Mãi ba ngày sau mới tìm
thấy xác anh Trác. Anh bị nước lũ cuốn xuống tận Vạn Điền cách bến Tuần nửa
ngày đò. Mẹ con chị Nhuần chôn anh ở nghĩa địa vạn chài Cổ Cháy. Nhờ kinh
nghiệm của anh, chiếc thuyền không bị lật mà vẫn bán được dưa. Nhiều nhà mất cả
người lẫn của vì vội vã quăng hàng xuống sông cho thuyền nhẹ bớt. Chồng chết,
chị Nhuần xọp hẳn trông chẳng khác gì người mắc bệnh sài mòn. Gia cảnh như vậy,
Ngô Quỳnh ở lại không tiện nên nói với chị chủ xin đi nơi khác. Chị Nhuần bảo:
- Mấy năm qua chúng tôi vẫn coi cậu như
người nhà, giờ chẳng may gặp vận rủi, cậu nỡ nhẫn tâm bỏ đi.
Ngô Quỳnh lưỡng lự một lát rồi hỏi:
- Nghe nói chị sắp bán thuyền ?
- Lúc anh ấy mới mất, tôi nghĩ quẩn cũng
có ý định như thế, nhưng giờ thì muốn tiếp tục chạy thêm vài năm nữa, mong cậu
ở lại.
Ngô Quỳnh trở thành người đàn ông duy
nhất trong gia đình. Cô Nhụy sau mấy lần được chàng phu thuyền hôn hít vụng
trộm, thích lắm, luôn tìm cách ở bên hắn vào lúc thuyền chạy ban đêm. Những cử
chỉ ấy không qua được mắt bà mẹ. Chị ta là người lọc lõi, nhìn thấy dáng vóc
cao lớn cùng cách làm ăn tháo vát của Ngô Quỳnh, trong lòng toan tính một kế
hoạch lâu dài để vĩnh viễn ràng buộc anh ta vào nghề sông nước. Ở tuổi ba tư,
sức xuân đang còn hừng hực bởi thể chất sung mãn và nỗi thèm khát đàn ông bị
dồn nén quá lâu vì ông chồng ốm yếu, chị Nhuần trằn trọc trong khoang thuyền
chật hẹp, luôn thả hồn vẩn vơ nghĩ đến những cuộc tình lãng mạn. Chị mơ thấy
mình cùng Ngô Quỳnh cưỡi chiếc thuyền câu lên tận ngọn nguồn sông Cổ Cháy, cách
Ngã ba Môi hàng trăm dặm. Ở nơi ấy trên là rừng đại ngàn dưới là dòng suối Tiên
trong vắt, nước chảy lững lờ, cá tôm bơi tung tăng hệt cảnh Thiên Thai. Họ sống
với nhau những ngày tuyệt đỉnh của hạnh phúc trần gian. Rồi đến một lúc chị
sinh được thằng bé đẹp như tiên đồng. Nghĩ đến đấy người chị nóng ran, toàn
thân run bắn, miệng ú ớ như bị bóng đè khiến cô con gái nằm bên cạnh phát hoảng
tưởng mẹ phải cảm liền lấy dầu Nhị thiên đường xoa vào thái dương.
Căn bệnh hoang tưởng của chị Nhuần mỗi
ngày một nặng thì tình cảm mẹ con đối với Nhụy mỗi ngày hình như một nhẹ đi.
Nhìn thấy Ngô Quỳnh và con gái đứng ngồi bên nhau là chị không chịu được. Nỗi
bực tức cứ ngấm dần vào cơ thể tựa như lòng hận thù khiến chị luôn nhìn đôi trẻ
bằng con mắt cảnh giác. Chính cô con gái
chứ không phải ai khác đã lén lút chiếm đoạt, không phải tiền bạc mà là thứ
tình cảm mơ hồ nhưng vô cùng quan trọng đối với sinh mệnh của chị. Một lần chị
Nhuần bảo Nhụy ở lại ở lại kẻ Sung, lấy
cớ thu gom hàng để cùng với Ngô Quỳnh
chở dưa xuống bến Phù Dung. Ngay đêm đầu tiên thuyền đậu ở bến Lam Điền chờ con
nước ròng, chị đã chui ra khoang ngoài ôm lấy Ngô Quỳnh. Hắn biết thừa người
đàn bà nạ dòng này muốn gì bởi toàn thân hắn cũng đang rạo rực. Một ý nghĩ
thoáng qua, hay là mình cứ chiều chị ta, chẳng những không mất gì mà còn có lợi
là khác. Trong khi ấy, người đàn bà đã tuột hết váy áo, trần như nhộng, ôm riết
lấy Ngô Quỳnh. Hắn tặc lưỡi thò tay mân mê bầu vú nóng hổi rồi định trườn lên
bụng chị ta. Bỗng nhiên, từ trong bóng đêm, có quầng sáng mờ mờ như ánh lân
tinh, gương mặt trái xoan, cặp má bầu bĩnh và chiếc mũi hếch hiện ra với nụ
cười gằn vừa trách móc và khinh bỉ. Ngô Quỳnh chợt tỉnh. Hắn ngồi dậy, trèo lên
sạp thuyền mặc cho chị Nhuần khóc tức tưởi vì bẽ bàng.
Suốt chặng đường từ bến Phù Dung về bến
Tuần có đến già hai ngày đường chị Nhuần không nói gì với Ngô Quỳnh. Hắn im
lặng chèo, thỉnh thoảng lại chống sào chạy dọc từ mũi đến lái thuyền hệt như
anh Trác ngày trước. Chị Nhuần cầm lái, mặt khó đăm đăm, mắt lơ đãng nhìn dòng
sông.
Chiều hôm thứ ba, Nhụy đã đóng xong
hàng. Thuyền từ từ vào bến, Ngô Quỳnh thả neo rồi lên bờ buộc dây vào cọc. Nhìn
thái độ của hai người, cô gái biết đã có chuyện xảy ra. Anh chàng phu thuyền
mặt nặng chình chịch, hùng hục khuân từng sọt bí, miệng như ngậm hột thị, hỏi
câu nào trả lời câu ấy. Hàng xếp xong, chị Nhuần thẫn thờ trên bến một lúc rồi
mới xuống thuyền bảo Nhụy:
- Chuyến này mẹ không đi được vì còn
phải lên kẻ Suốt đòi nợ. Con với anh Quỳnh bảo nhau mà làm ăn cho thông đồng
bén giọt, ít hôm nữa mẹ về.
Cô Nhụy còn ngây thơ tin lời mẹ nên
không có biểu hiện gì lưu luyến nhưng Ngô Quỳnh nhìn vào đôi mắt mờ đi của
người đàn bà, hắn biết có thể thị Nhuần không bao giờ về bến sông này nữa.
Đúng như Ngô Quỳnh dự đoán, năm hôm sau,
khi thuyền cập bến Tuần không thấy chị Nhuần bên những sọt hàng. Hai người về
kẻ Sung. Đồ đạc trong nhà vẫn còn nguyên, duy chỉ có chiếc xà tích bạc của bà
ngoại để trong hộp gỗ mun khảm trai là chị Nhuần mang đi. Ngay chiều hôm ấy,
Nhụy giao thuyền cho Ngô Quỳnh trông nom rồi sang bên ngoại tìm mẹ. Chị Nhuần
không về làng Ngô Đồng. Ở đấy chẳng còn ai ngoài bà dì nghễnh ngãng suốt ngày
chỉ lảm nhảm hát mãi một điệu Gà rừng rè rè giống hệt tiếng chũm
chọe mẻ đập vào nhau. Nửa tháng, Nhụy về mặt mũi đen sạm, thở dài bảo:
- Không thấy đâu cả. Ngày mai ta bốc
hàng cho thuyền ngược bến Tràng, anh Quỳnh thấy thế nào ?
Ngô Quỳnh gật đầu:
- Nhưng phải thuê thêm một chân sào, chỉ
tôi với cô thì làm sao nổi.
- Cái đó tuỳ ở anh. Bây giờ anh là chủ
thuyền kia mà.
Ngô Quỳnh ngẫm nghĩ một lúc rồi như chợt
nhớ ra liền bảo:
- Mấy hôm vừa rồi tôi để ý có thằng bé
choai choai vẫn khuân vác hàng cho các bà buôn trầu vỏ xuống thuyền của ông
Trương Thình, hay là ta bảo nó.
Nhụy cau mặt:
- Không được. Thuyền chúng mình phải tìm
một người đứng tuổi, thạo nghề sông nước, rước cái đám trẻ ranh ấy về là hỏng
việc.
Bị chạm nọc, Ngô Quỳnh chợt nhớ đến hoàn
cảnh của mình cách đây mấy năm liền ướm hỏi:
- Nhụy nói gì thế ?
Cô gái nhìn chàng chủ thuyền mới giọng
có vẻ không vui:
- Là vì tôi không muốn như mẹ phải khăn
gói ra đi …
*
* *
Hành nghề đò dọc mười năm, vợ chồng Ngô
Quỳnh đã có một số vốn kha khá. Hai người bàn nhau bán thuyền cùng với ngôi nhà
kẻ Sung mang con về làng Cùa lập nghiệp. Khi ấy ông Trương Phẩm đã mất, bà mẹ
già còng lưng suốt ngày chống gậy ra gốc đa làng ngóng con trai. Dân làng Cùa
có thói cố chấp nhưng lại chóng quên nên vụ bê bối của Ngô Quỳnh cách đây mười
bốn năm giờ chỉ còn là ký ức mờ nhạt. Vả lại, cô Son lấy chồng mãi làng Buộm,
cách sông cách đò, có khi vài năm mới về thăm bố mẹ một lần, thành thử nỗi hổ
thẹn trong lòng hắn cũng nguôi ngoai.
Ngô Quỳnh về làng được bốn năm thì Chánh
Đàm chết. Lý Lượng cùng phe cánh ông ta thất thế. Cao Lộng, người xóm Cầu Đá
lên làm Chánh tổng Kim Đôi bảo cử cho Ngô Quỳnh ra làm Lý trưởng. Năm ấy ông ta
mới ba mươi tuổi. Từ một chủ đò dọc nghiễm nhiên trở thành bà lý nhưng cô Nhụy
chẳng thích tý nào, vì cảm thấy sống trong làng tù túng, không được thoải mái
như lúc lênh đênh trên thuyền ngang dọc khắp mọi bến bờ. Tất nhiên Lý Quỳnh
không thể chiều theo nguyện vọng dở người của vợ nhưng cũng bắt chước Chánh Đàm
lúc sinh thời, thuê thợ đóng một con thuyền neo ở bến sông ngay dưới điếm Bài Vân, thỉnh thoảng lại cho mẹ con cô Nhụy
du ngoạn xuống tận Ngã ba Môi. Giá như Ngô Quỳnh không đưa vợ về làng, yên phận
làm ăn với nghề đò dọc thì bây giờ không tan cửa nát nhà. Cái nghiệp làm quan,
dù là quan làng đôi khi cũng lợi bất cập hại. Đấy là chưa tính đến cái đận chỉ
chút xíu nữa thì bị Khúc Kiệt xử bắn nếu không có Khúc Thị Nhân kịp thời ra cứu. Mình hơn cô ta những hai mươi tuổi lại
đã có một đời vợ không biết cô ta có chịu?. Trong tâm trí Ngô Quỳnh
luôn vấn vương câu hỏi ấy. Kể ra con gái vùng Ba Tổng quá hai mươi không có
chạm ngõ coi như ế. Khúc Thị Nhân đẹp thật nhưng có nốt ruồi dưới mắt. Hồi
trước, ông cử Yên Duệ qua thăm Khúc Kiệt nhìn thấy cô ta bảo đó là tướng vất
vả, hậu vận còn lắm tai ách. Tin ấy làm đám con trai trong làng ngại không anh
nào dám rước. Đến khi bọn Nhật kéo về tàn sát, đốt phá làng Cùa, gia đình Khúc
Kiệt chết gần hết, họ lại càng tin vào tài phán đoán của ông Cử. Ngô Quỳnh
thích Nhân không phải chỉ vì cô còn trẻ mà cái chính là ông ta thấy cô có những
nét hao hao giống với chị Nhuần ngày trước. Cho đến giờ, dù đã hơn ba mươi năm
trôi qua, ông ta vẫn thấy mình xử sự như thế là đúng với đạo làm người, không
xấu hổ với vợ con khi nhắm mắt xuôi tay
xuống suối vàng gặp họ.
Sáng hôm sau, Ngô Quỳnh lại mang cưa đục
sang làm giúp Nhân nhưng lúc này cô đã sang cồn Vành xúc cá.
Năm ấy, lũ rút sớm. Mới cuối tháng bẩy,
ở những chân ruộng cao cồn Vành, nước chỉ còn chưa đầy gang tay. Vùng trũng có
nơi ngập ngang thắt lưng. Phù sa đặc sánh lắng xuống bám vào cỏ thành một lớp
dày, mỗi khi khoả chân, thứ bột mịn màng ấy lại loang ra, đỏ tươi chẳng khác gì
mai con cà da luộc. Những đám sậy, lác, cỏ gai ngâm nước hàng tháng vẫn xanh
tốt. Trên gò đất cao bên làng Mật, đàn trâu đang thong thả gặm cỏ. Một con lội
hẳn xuống rộc, bước chân ộp oạp, lia lưỡi liếm những ngọn lúa tái sinh lơ phơ
trên mặt nước. Vẫn còn sớm. Mặt trời chưa kịp nhô lên đã bị cả một tảng mây
hình thù giống hệt con sứa đè xuống. Đám mây dường như chỉ đứng yên một chỗ
nhưng biến hoá vô cùng linh hoạt. Đầu tiên là màu xám đục, chỉ một thoáng đã
thành khối bông trắng nõn, có những múi cuộn lại vừa nhẹ vừa xốp. Nhưng rồi
khối bông trắng như tuyết ấy lại nhường chỗ cho một cái mạng nhện hình lục giác
với những mắt lưới đan rất tinh xảo óng ánh như ngân tuyến. Trời sáng thêm một
chút thì mạng nhện bạc mờ dần. Bây giờ là những lớp mây hình vảy cá gắn chặt
vào cái màn khổng lồ màu thiên thanh. Đám vảy cá hiện lên với đủ các hình thù
màu sắc rực rỡ, có những lúc bất chợt loé lên như một đạo hào quang. Cuối cùng
thì những ảo ảnh ấy cũng biến mất và mặt trời lên.
Nước lũ rút đi, dân mấy làng bên bờ sông
Lăng kéo sang cồn Vành bắt cá. Đây là nơi sông tách làm hai nhánh xuống đến tận
bến Phù Kiều mới hợp lưu, ôm lấy cánh bãi rộng hàng mấy trăm mẫu, là nơi tụ tập
của đủ các loài thuỷ tộc. Cá trôi, cá rói nhởn nhơ bơi giữa đám cỏ xước cọng
dài mấy gang tay, bò loằng ngoằng như dây thòng bong. Lũ này thường thích chỗ
ruộng vàn kiếm ăn bằng cách sục cho nước đục ngầu lên. Những tay đánh cá chuyên
nghiệp rủ nhau xếp giậm thành hàng theo hình vòng cung rồi ra thật xa dùng mõ
dồn cá. Gặp bước đường cùng những con tinh khôn chơi trò quăng mình tháo thân còn
phần lớn bị sa bẫy, nhảy loạn xạ trong giậm. Dân quăng chài nhiều khi vớ bẫm.
Họ đón lõng ở những chỗ nước chảy, độ sâu vừa phải, thỉnh thoảng tóm được chú
cá chép dăm cân. Bọn này vô vùng láu cá,
trừ những người có kinh nghiệm sông nước còn thì ít khi bắt được.
Đàn bà con gái dùng rổ sề thậm chí cả rổ
rửa rau bắt tôm dạt vào bờ ruộng. Tôm tép mùa này nhiều lắm. Mấy chị em cái
Nhút cái Nhít xúc một ngày mang về phơi được ba nong. Chính nguồn thủy sản
phong phú trời cho như thế nên cồn Vành hằng năm luôn xảy ra tranh chấp quyền
sở hữu giữa làng Cùa và làng Mật. Lúc ấy Nhân đang xúc tôm ở chân ruộng trũng
giữa bãi cùng với cái Nhút, cái Nhít. Phía làng Mật có tiếng người cãi nhau.
Một thằng bé đầu trọc cướp con cá măng bằng bắp chân của cái Hậu xóm Trại Cá.
Con bé nổi tiếng đanh đá. Nó cào vào mặt thằng kia rồi giẫy đành đạch như phải
bỏng. Thằng chọi làng Mật cũng là quân lỳ lợm, chẳng những không trả con
cá mà còn xông vào túm tóc đối thủ đẩy xuống ruộng. Thế là một cuộc xô xát trên
quy mô lớn xảy ra. Dân làng Mật huy động thanh niên trai tráng mang gậy gộc
giáo mác ra trợ chiến. Chúng xông vào tịch thu tất cả các phương tiện đánh bắt
cá. Dân làng Cùa yếu thế, mạnh ai nấy chạy ra bờ sông. Kẻ chèo thuyền, người
ngồi bè chuối, số khác nhảy ào xuống nước bơi, cốt làm sao về bên kia càng
nhanh càng tốt. Nhân chạy gần như sau cùng nhưng vẫn khư khư cắp cái rổ và giỏ
tôm bên sườn. Một gã trung niên mặt có vết sẹo chạy dài từ dái tai xuống mép
phải như bị dao chém, đuổi phía sau. Nghe bước chân bùm bũm, Nhân đâm cuống vấp
vào đám cỏ lác bị ngã. Tay mặt sẹo dấn tới đầu tiên giằng lấy giỏ rồi thò tay
luồn vào ngực cô gái. Đúng lúc ấy hắn bị cái tát như trời giáng vào giữa vết
sẹo. Mặt vẫn còn nổ đom đóm , chưa hết choáng thì hắn lại nhận thêm một cú đệm
bằng đầu gối vào bụng dưới, ngã ngửa ra, đầu đâm xuống bùn. Nhân chưa kịp hoàn
hồn thì người thanh niên lạ mặt đã một tay xách giỏ, tay kia dắt cô chạy ra bờ
sông. Phía sau bọn làng Mật đang ào ào đuổi theo. Bờ sông không còn một con
thuyền. Anh ta kéo Nhân chạy gằn dọc theo bãi cát nhưng phía trước lại có một
nhóm gồm bốn năm con mẹ nạ dòng, dẫn đầu là một lão già mặt choắt như mặt con
cheo cheo cầm gậy hô hoán. Chẳng biết làm thế nào, chàng lạ mặt phải kéo Nhân
lội xuống sông. Anh ta hỏi:
- Cô có biết bơi không ?
- Có... - Nhân thở hổn hển. - Nhưng tôi
...
- Cứ bình tĩnh. Tôi sẽ đưa qua sông.
Anh ta nói cho Nhân yên lòng rồi đảo mắt
nhìn quanh. Hoá ra vẫn còn hàng chục đoạn chuối của dân làng Cùa bỏ lại lúc
tranh nhau sang sông bị sóng đánh giạt vào bờ. Anh chàng lạ mặt túm một cây rồi
bảo cô gái:
- Bây giờ cô bám chặt vào đây, không
được bỏ tay ra. Nhớ chưa ?
Người thanh niên bơi rất giỏi. Anh vừa
bơi vừa đẩy cho cây chuối của Nhân đi đúng hướng nhưng cũng phải già nửa giờ
hai người mới về được bên hữu ngạn. Khi Nhân lên bờ người thanh niên trao cho
cô giỏ tôm và bảo:
- Lần sau đừng có tham, thấy bọn làng
Mật gây sự là phải chạy ngay.
- Anh cũng là người làng Mật à?
Người thanh niên lắc đầu:
- Tôi là người kẻ Bòng.
- Xa thế mà cũng đến bắt cá?
- À ! Đi cho biết thôi.
Mấy hôm sau, lúc Nhân đang nhào đất trát
vách thì có một người gánh cưa đục vào xin nước uống. Nhìn người thợ mộc cô ta
ngờ ngợ nhưng chưa dám hỏi ngay. Uống nước xong anh ta chưa đi mà cứ ngắm trời
ngắm đất rồi hỏi mấy câu về gia cảnh. Nghe giọng nói, Nhân nhận ra đó là người
đã cứu mình qua sông khi bị gã đàn ông làng Mật đuổi.
- Vậy ra anh làm nghề thợ mộc. Sao hôm
ấy anh bảo ở kẻ Bòng ?
- Lúc ấy nói thế để cô yên lòng, thực ra
tôi là dân kẻ Suốt chuyên xách cưa đục đi kiếm cơm thiên hạ.
Nhân bảo:
- Dạo này làng Cùa cần thợ mộc. Anh đến
đúng lúc đấy.
- Tôi cũng định như thế. - Anh thợ mộc
ngắm gian nhà mới dựng xong bộ khung lợp rạ của Nhân liền bảo. - Nhưng trước
hết phải làm lại cái nhà này cho ra hồn đã.
- Cảm ơn anh! - Nhân từ chối khéo. -
Hàng xóm giúp thế này cũng đã tốt chán. Anh nhìn xem, làng tôi sau trận hoả
hoạn, trừ bà Cả Huê có nhà ai còn nguyên vẹn đâu. Vả lại tôi không có tiền trả
công.
- Nhà như cái lều vịt của lão Côi ở kẻ
Bòng thế này chỉ một trận gió là đi tong. Một mình cô xoay sở làm sao được.
- Anh nghe ai nói tôi ở một mình ?
- Còn chưa thành gia thất nữa kia. - Anh
thợ mộc cứ như là có ma xó trong túi, nói vanh vách gia cảnh của cô chủ khiến
Nhân vô vùng sửng sốt.
- Sao anh biết rõ về tôi như thế ?
-Là vì tôi mới gặp bác nhà … -Nói đến đây
người thợ mộc hạ giọng thì thầm - Cô tìm cho một nhà gần đây để tôi ở tạm.
- Tối
nay tôi sẽ dẫn anh sang bên ông Đồ Sách. - Nhân ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo - Nhà
ấy chỉ bị cháy mấy gian bếp.
Đồ
Sách lúc đầu ngại không dám cho người lạ ở vì sợ Lý Quỳnh nhưng Nhân lại bảo:
- Anh ấy là thợ mộc bên kẻ Bòng có thẻ
thuế thân, bác đừng lo, có chuyện gì cháu sẽ nói với ông Lý.
Buổi tối Đồ Sách mời anh thợ mộc ăn khoai lang luộc. Làng Cùa đang
vụ giáp hạt, nhà nào cũng hết thóc nhưng khoai lang cồn Vành thì nhiều vô kể.
Có nhà nấu khoai khô với đỗ đen. Khoai chín trộn thêm mấy thìa mật mía, nắm lại
bằng quả thanh yên ăn trừ bữa. Anh thợ mộc tên là Lãng, khoảng hăm bẩy hăm tám
tuổi, viết chữ Hán rất đẹp. Thơ Đường, loại ngũ ngôn thi, bản in vừa lèm nhèm
vừa mất nét, phần lớn là những chữ ít thông dụng, nhiều bậc túc nho còn phải
tra từ điển Khang Hy hoặc Từ Hải vậy mà anh ta đọc vanh vách,
bình đâu ra đấy khiến Đồ Sách rất phục. Chưa đầy năm ngày, ngôi nhà hai gian
của Khúc Thị Nhân đã xong, làm Ngô Quỳnh vô cùng tức tối. Một hôm, lúc ấy
khoảng cuối canh một, Ngô Quỳnh rón rén vào cổng nhà Nhân thấy bên trong có
tiếng nói chuyện, ông ta đoán, nhất định là tay thợ mộc đang giở trò chim
chuột, liền cầm tay thước bước vào nói to:
- Bây giờ là giờ gì mà anh Lãng còn đến
nhà đàn bà con gái tán tỉnh bậy bạ làm hại thuần phong mỹ tục của làng?
Từ trong nhà, một người bước ra hằm hằm
nhìn Ngô Quỳnh:
- Ông Lý nói gì mà chướng tai thế? Ai
tán tỉnh bậy bạ?
Hoá ra không phải anh thợ mộc mà là Khúc
Luận. Suốt từ tối đến giờ cậu ta cứ ngồi lỳ, Nhân đuổi khéo mấy lần cũng không
về, vừa hay được Lý Quỳnh giải cứu cho.
- Này cậu Luận! - Lý Quỳnh lên giọng cha
chú răn đe. - Nếu ban đêm còn lảng vảng sang đây, tôi báo cho bà Cả nện cậu một
trận ra trò đấy.
Khúc Luận chẳng có vẻ gì là sợ hãi, mặt
vênh lên:
- Ông có quyền gì mà cấm tôi?
- Là vì cậu hay sang đây quấy nhiễu cô Nhân. Cô ấy tuy con
ông chú nhưng là người lớn, còn cậu mới chỉ là thằng ranh con, lôi thôi tôi cho tuần đinh trói lại mang
ra đình phạt vạ bây giờ.
- Thách ông đấy!- Khúc Luận chẳng nể
nang gì tuổi tác ông Lý trưởng, giọng châm chọc. - Đừng tưởng tôi không biết
tâm địa của ông. Cô Nhân chẳng thèm …
- Thôi đi! Anh Luận đừng nói càn. - Khúc
Thị Nhân vội chạy ra bảo - Ông Lý nói không sai. Suốt ngày anh lêu lổng, tối
lại sang bên này nói con cà con kê, thử hỏi tôi còn làm được việc gì?
Ngô Quỳnh được thể, hất hàm khẽ quát:
- Về ngay! Từ mai cấm sang đây.
Khúc Luận gườm gườm nhìn viên Lý trưởng,
bàn tay phải nắm chặt định quai cho ông ta một quả vào mặt cho bõ ghét nhưng
nghĩ sao lại thôi, chỉ cười gằn nói đủ nghe:
- Tiếc là hồi ấy bọn Áo đen không kịp
cho ông viên đạn.
Cảm thấy đây là lúc thuận tiện nhất để
tỏ rõ lòng mình, Ngô Quỳnh ngập ngừng một lúc rồi dè dặt hỏi:
- Mấy hôm nữa tốt ngày tôi nhờ người
mang cơi trầu sang nhà Nhân …
Nhân thoáng giật mình. Lão Lý trưởng lợi
dụng cơ hội này để tỏ tình làm cô thật sự bối rối, bởi vì từ trước đến giờ chưa
lúc nào Nhân nghĩ đến chuyện về nhà họ Ngô làm vợ một người hơn mình đến hai
chục tuổi. Trong lúc lúng túng chưa biết từ chối thế nào để Ngô Quỳnh khỏi
sượng mặt thì cô chợt nghĩ ra một kế:
- Cảm ơn ông Lý đã có lòng thương nhưng
chuyện trăm năm là hệ trọng, không được sự đồng ý của cha, cháu không
dám tự quyền.
Lý Quỳnh thấy sự việc có vẻ không xuôi
chiều bèn lựa lời thuyết phục:
- Ông ấy đi biền biệt biết đến bao giờ
mới về, mà cái xuân xanh thì mỗi tuổi lại mất đi, chả lẽ cô cam chịu ở vậy đến
già.
- Làng này thiếu gì con gái nhà tử tế
vừa đẹp người, vừa đẹp nết. - Khúc Thị Nhân nhẹ nhàng cất giọng đưa đẩy, - cháu thuộc loại quá lứa nhỡ
thì lại có mụn ruồi đón lệ dưới mắt, thầy tướng đoán hậu vận lắm gian truân,
ông Lý chớ nên rước về.
- Bọn thầy tướng, thầy bói chỉ nói dựa.
Tôi chẳng sợ cái nốt ruồi ấy mà rất yêu quý cô, muốn làm bạn trăm năm … Mong cô
xét đến hoàn cảnh.
- Ấy! Ông Lý! Duyên phận con người là tự
trời sắp đặt, làm sao mà ép lòng mình được, cháu xin ông hiểu cho.
Năn nỉ năm lần bẩy lượt, Nhân vẫn một mực từ chối, Ngô
Quỳnh không thể kiên nhẫn được nữa, bèn đổi giọng:
- Hay là cô đã bị cái thằng thợ mộc ấy
nó chài ?
- Ông Lý đừng ăn nói hàm hồ.
- Bọn trai thiên hạ dẻo mỏ ấy các cô
phải coi chừng. Chúng nó đều là phường lừa đảo, không giữ gìn, ễnh bụng ra thì
mang tiếng cả làng.
Khúc Thị Nhân vẫn ngọt nhạt:
- Cảm ơn ông Lý đã dạy bảo. Chúng cháu
là phận gái còn lo bằng mấy ấy chứ.
Chuyện tỏ tình với Nhân không thành, Lý
Quỳnh dấu biệt nhưng không hiểu sao bà Cả Huê vẫn biết. Bà nói bắn tin, nếu ông
ta cưới con gái tên Việt Minh làm vợ kế
thì chính bà sẽ lên phủ Đông Giàng và huyện Nam Thành cáo quan thu triện đồng
Lý trưởng. Ngô Quỳnh biết người đàn bà ghê gớm này vẫn căm Khúc Kiệt vì vụ bắt
nhốt hậu cung năm trước và đang chờ dịp trả hận.
Chập tối trời nổi giông. Sấm nổ lục bục
thành từng chuỗi. Không gian nồng nực như sắp có bão. Đã mấy ngày không thấy
Lãng đến. Nhân khắc khoải chờ, lòng dạ bồn chồn. Lúc cô sắp đi ngủ thì có tiếng
gõ nhẹ vào tấm liếp. Lãng nhìn trước nhìn sau rồi lách vào nhà ôm choàng lấy
Nhân. Cô bị bất ngờ, khẽ đẩy người đàn ông ra rồi với tay gài chốt cửa. Cũng
vào lúc ấy, những hạt mưa xiên gõ lộp bộp trên vườn chuối sau nhà. Cơn mưa đêm
hè mỗi lúc một nặng hạt, chỉ một loáng đã có tiếng nước chảy ràn rạt ngoài sân
lẫn trong thứ âm thanh rền rĩ của gió và sấm. Thỉnh thoảng một tiếng sét sắc
lạnh, khét lẹt khiến Nhân giật nảy mình, co rúm người lại, ôm cứng lấy Lãng.
Trận mưa làm đêm như giãn ra. Ếch nhái, chão chuộc và nhất là lũ ễnh ương hoa
xanh, ban ngày thường nổi lập lờ giữa những đám bèo ong, giờ ngoác cái miệng
rộng đến mang tai, đua nhau trình tấu bằng đủ thứ âm điệu hỗn tạp, lúc ộp oạp,
lúc the thé, lúc lại khàn khàn như tiếng vịt đực. Một con mèo hoang đến kỳ động
cỡn gào lên bằng thứ giọng đặc biệt khủng khiếp, chẳng khác gì ma quỷ gọi hồn
người chết. Ngoài bờ tre, có tiếng chiêm chiếp rất là ai oán của chú chích choè
non bị rơi khỏi tổ. Gió đã dịu đi nhưng mưa vẫn còn nặng hạt.
Nhân hỏi chàng thợ mộc:
- Anh là Việt Minh phải không ?
Lãng quàng tay ôm ngang người cô gái,
không trả lời mà hỏi lại:
- Sao em biết ?
- Có gì mà không biết. - Nhân bảo. -
Ngay hôm đầu, thấy anh xách đồ nghề đến làng Cùa em đã ngờ ngợ.
- Hình như em chưa hiểu gì về Việt Minh?
- Lãng thì thầm giải thích. - Đó là một tổ chức cách mạng…
- Phải! - Nhân bỗng dài giọng chì chiết.
- Vì tổ chức cách mạng ấy mà cách đây gần một năm làng Cùa
bị thiêu hơn trăm nóc nhà, chết oan bảy tám chục mạng người.
Lãng im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Anh hiểu tâm trạng của em. Sở dĩ có
tổn thất lớn như vậy là do một số cán bộ manh động, không chấp hành chỉ thị của
thượng cấp. Đảng chủ trương vận động quần chúng đấu tranh, chờ đợi thời cơ
thuận lợi để giành chính quyền.
Nhân khẽ hứ một tiếng:
- Em chẳng ưa gì cái thứ cách mạng mà
lại mang người bà con của mình treo lên cây gạo rồi xả súng bắn. Em bảo này,
anh bỏ quách Việt Minh đi, về làng Cùa.
Ông Lý Quỳnh tuy thế nhưng là người tốt sẽ đứng ra bảo lãnh cho anh được ngụ
cư.
Lãng lắc đầu:
- Nói thế thì khác gì em xui anh đầu
hàng. Anh là người của tổ chức phải đặt quyền lợi của tổ quốc và dân tộc lên
trên quyền lợi bản thân.
Nhân lặng lẽ thở dài:
- Anh nói chẳng khác gì ông bố em. Thôi
thì tuỳ anh.
Đến lúc ấy Lãng mới ngập ngừng bảo:
- Cuối tháng này anh phải đi.
- Bao giờ anh về ?
- Chắc cũng không lâu nữa đâu. Tình hình
đang có nhiều chuyển biến, đến lúc ấy chúng ta sẽ nhờ tổ chức đứng ra làm đám
cưới.
Lãng và Nhân không ngờ rằng, đêm hôm ấy
dù trời mưa to gió lớn vẫn có một bóng đen
lẩn khuất ngoài vườn chuối. Đó chính là Ngô Quỳnh. Biết chắc Lãng là
Việt Minh từ bên kia sông Lăng sang,
ngay từ chập tối, ông ta đã cho người báo quan huyện Nam Thành. Lập tức, một
tốp quan binh nai nịt súng ống như đi trận, đội
mưa về làng Cùa. Cai Viện đội chiếc mũ đỏ chót như đít chào mào chỉ huy
bốn cảnh binh ập vào nhà Đồ Sách. Ông này vẫn còn đang ngủ bị dựng dậy.
- Tay
thợ mộc đâu ? - Viên Cai hỏi cộc lốc rồi đảo mắt nhìn khắp lượt mấy gian nhà
tranh dột nát ẩm mốc như hang chuột.
Đồ Sách mắt nhắm mắt mở, thấy đám lính
tráng sát khí đằng đằng, mặt xám ngoét như vừa bị sét đánh trượt, giọng lập
cập:
- Bẩm … các quan … anh ta ở … dưới nhà
ngang.
Cánh cửa liếp bị gã lính mũi sần như vỏ
chanh rám đạp đến "roạt" một cái. Cả bốn khẩu súng đều lên đạn rôm
rốp. Viên Cai mũ đỏ quét một vệt đèn pile. Cái giường tre trống không.
Cai Viện nhìn trước nhìn sau rồi hất hàm
bảo Đồ Sách:
- Đi gọi ông Lý Quỳnh sang đây.
Linh tính cho Nhân biết có chuyện chẳng
lành vội lay Lãng dậy vì có tiếng chó sủa dữ dội từ phía xóm Đình vọng lại.
- Anh chạy ra lối bờ sông ngay đi! -
Nhân cuống quýt giục. - Hình như có lính về làng.
- Em cứ bình tĩnh. - Lãng áp tai vào cửa
nghe ngóng một lúc, vơ chiếc áo cánh khoác lên người. - Nếu chúng đến khám nhà
thì không được nói anh ở đây.
- Nhớ rồi, thôi anh đi đi.
Lãng lẩn vảo vườn chuối, ngồi xuống một
lúc xác định phương hướng sau đó luồn qua cổng nhà Trương Ngạnh.
- Có trộm! - Ông Ngạnh thoáng thấy bóng
người xé rào chạy về phía ao Quan vội la lên. - Bớ bà con! Bắt trộm.
Anh thợ mộc vừa chạy vừa thở, sắp đến
chỗ cây sung thì bị cánh tuần đinh xóm Bờ Sông khua giáo mác chặn đường đành
phải rẽ ngang vào vườn chuối ông vệ Đà. Cùng lúc toán cảnh binh xách súng rượt
tới. Bí quá, Lãng nhảy ùm xuống ao, lặn một hơi, bơi ngầm dưới nước, được một
lúc thì chạm cọc lều vó lão tư Kền. Đã sắp đến chân đê. Chỉ cần cố một đoạn nữa
là ra bờ sông Lăng. Phía gốc gạo đuốc cháy rần rật. Tiếng hô hoán mỗi lúc một xa vì cánh tuần đinh ngại nhảy xuống nước mà
rồng rắn kéo nhau vòng theo bờ ao. Khả năng thoát hiểm đã nằm trong tầm tay.
Trong khi chạy loạng quạng, Lãng vấp phải con chó đá ở cổng nhà Quản Sầm, bị
trẹo chân, đau lắm nhưng không dám nghỉ. Sau khi vượt qua con đê, Lãng lao
xuống bờ cát định vượt sông, chợt có tiếng quát:
- Đứng lại ! Mày đã bị bắt.
Người thợ mộc giật mình. Sống lưng lạnh
toát. Anh không thể ngờ mấy tên cảnh binh chạy theo lối đường trục giữa làng
đón lõng ở đây. Ước lượng khoảng cách giữa mình và bọn lính, thấy khó có thể
thoát được, Lãng tính nước liều, phó thác tính mạng cho sự may rủi.
- Thôi được, coi như các ông thắng, tôi
xin hàng. - Lãng nheo mắt cười nhạt rồi bất ngờ cắm đầu lao xuống sông.
Bọn cảnh binh đã dự kiến đến trường hợp
này nên chúng không mất bình tĩnh mà lần lượt kéo cò súng xả đạn vào những chỗ
có tăm nước nổi lên. Khi toán tuần binh chạy đến nơi thì mặt sông đã trở lại
yên tĩnh. Ở gần ghềnh đá chỉ còn thấp thoáng những đám bọt nước sẫm màu bị sóng đẩy cuộn lại chẳng hiểu là phù sa
hay máu người thợ mộc.
Mấy ngày sau, cánh phu đò dọc vớt được
một xác người bị đạn xuyên vào lưng nổi lên ở bến Tuần Châu. Quan huyện Nam
Thành cho khám nghiệm tử thi, biết đó chính là tên Việt minh đóng giả thợ mộc
đến làng Cùa xúi giục dân cày nổi loạn, liền ra lệnh treo lên cành đa giữa chợ
Từ Đường thị uy.
(Xem tiếp kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét