Tổng
thuật thói hư tật xấu người Việt (Phần cuối)
Trần Văn Chánh
Xét tật người Việt hiện đại
Về việc xét
tật mình để cầu tiến bộ cho dân tộc thì giới trí thức Việt Nam ta cũng đã có làm, coi như song
song và cùng thời với Trung Quốc, chủ yếu từ đầu thế kỷ XX. Như ở một phần
trên, chúng tôi đã tóm tắt lại những ý kiến nhận xét của các bậc tiền bối liên
quan thói hư tật xấu của người Việt từ công trình sưu tập của nhà văn Vương Trí
Nhàn, và cũng từ công trình có thể gọi đầu tiên và độc đáo này trong thời hiện
đại, mặc dù chưa xuất bản chính thức chúng ta thấy giới trí thức Việt Nam hiện
nay đã bắt đầu có không ít người chú ý đặt lại vấn đề đổi mới đất nước nhằm
thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu theo hướng tiếp cận cội nguồn văn hóa, lịch
sử vốn là nguyên nhân gây nên những thói hư tật xấu như là căn tính của người
Việt để tìm cách sửa chữa từ căn bản, thay vì cứ tiếp tục công kích vào những
hiện tượng tiêu cực xã hội lẻ tẻ cứ ngày một phát sinh, gia tăng, kéo dài, và
hầu như vô phương cứu chữa.
Vũ Kiều Trinh, con gái nguyên Tổng Giám đốc Vũ Văn Hiến, có "thành tích" 3 lần ăn cắp đồ ở siêu thị nước ngoài, nhưng vẫn được bổ nhiệm chức danh Trưởng phòng biên tập Đài THVN |
Trước Vương Trí
Nhàn, có thông tin cho biết hai cố giáo sư Trần Quốc Vượng và Cao Xuân Hạo đã
từng bày tỏ ý định sẽ viết sách về thói xấu người Việt, nhưng rất tiếc chưa bắt
tay vào việc thì họ đều đã qua đời.
Trong một bài
trả lời phỏng vấn báo Tiền phong cho chủ đề liên quan cuốn sách đương làm về
thói hư tật xấu người Việt, nhà văn-nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng
Xã hội Việt Nam hôm nay. Nguồn: kienthuc.net.vn
Xã hội Việt Nam hôm nay. Nguồn: kienthuc.net.vn
“Thông thường thì gọi là thói hư tật xấu
của người Việt Nam, nhưng thực ra nó là trình độ sống, trình độ làm người của
người Việt Nam…
Điều quan trọng bây giờ là tự nhận thức mình xem anh là người thế nào, anh là
ai. Tất cả tương lai của dân tộc nằm trong hành động này… Một trong những thói
xấu của người Việt Nam
là rất sợ nói đến thói xấu… Cả xã hội đóng băng trong sự tự khen thưởng… Nhưng
thói xấu lớn nhất vẫn là sợ người khác nói xấu mình. Làm ăn với nước ngoài mà
cứ lấy tinh vặt (ranh ma, khôn vặt) làm kế sinh lãi. Tôi rất không đồng ý với
cuốn Thần đồng đất Việt , vì
trong đó toàn ca ngợi cái tinh vặt, láu cá của người Việt khi làm ăn với ngoại
quốc. Cái đó không đáng tự hào.”
Thật ra, công
việc phê bình những thói xấu/ khuyết tật của người Việt, các phương tiện truyền
thông như báo, đài trong nước vẫn thường làm, đặc biệt khi có xảy ra những
chuyện xấu như bẻ hoa trong hội hoa xuân, giẫm đạp chen lấn nhau trong các kỳ
lễ hội, hôi của…, nhưng việc phê bình còn lẻ tẻ, thiếu tính hệ thống. Từ ngày
24/9/2006, báo Tiền phong (cả trên báo giấy và báo điện tử) đã sớm có
sáng kiến mở chuyên mục “Người Việt-Phẩm
chất và thói hư tật xấu” như một diễn đàn để thu thập ý kiến rộng rãi từ
phía bạn đọc (chủ yếu ở khu vực miền Bắc), “ngõ hầu cảnh tỉnh chung, trước
hết thoát khỏi ‘thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của
mình’”, và một phần nội dung quan trọng của diễn đàn này đã được tuyển chọn
biên tập lại thành sách (xem Nhiều tác giả, Người Việt-Phẩm chất và thói hư tật xấu , Nxb Hồng Đức, 2013).
Phi công Đặng Xuân Hợp bị cảnh sát Nhật áp giải ra sân bay trục xuất về nước do nằm trong đường dây ăn cắp và vận chuyển mỹ phẩm |
Gần đây, nhân
câu chuyện cô tiếp viên hàng không bị phát hiện xách hàng ăn cắp bên Nhật,
người Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước đều cảm thấy như đạp phải gai vì xấu hổ
lây, từ đó lại dấy lên một cao trào tự kiểm điểm thói xấu của người Việt, thể
hiện sôi nổi qua mấy tờ báo lớn trong nước (như Tuổi trẻ…), cũng như
trên một số trang mạng xã hội.
Biển cảnh cáo bằng tiếng Việt tại siêu thị Nhật |
Bằng cách tổng
kết lại từ các diễn đàn khoảng gần chục năm nay liên quan đến vấn đề đang xét,
chúng ta sẽ có được một cái nhìn tổng quan về những thói xấu/ khuyết tật tồn
tại qua nhiều thế hệ (thậm chí thế kỷ) ở đất nước ta song vẫn chưa khắc phục
được.
Tiếp viên hàng không Việt Nam buôn lậu iphone |
Trong quá
trình tìm hiểu, chúng tôi tình cờ tìm thấy bài viết “Chỉ tên những tật xấu của
người Việt thời nay” của TS Phạm Gia Minh đăng trên Tuanvietnam.net ngày
25/8/2008. Trong bài, tác giả đề nghị hãy cùng nhau lên một danh mục, tạm gọi
là “Danh mục các thói hư, tật xấu của người Việt thời nay” nhằm “vạch mặt, chỉ
tên” càng chính xác càng tốt những biểu hiện tinh vi và đa dạng của nó.
Tiếp viên Việt Nam tại Hàn Quốc buôn lậu 20 lượng vàng |
Theo tác giả,
thời trước cũng có “người Việt xấu xí”,
“nhưng có lẽ trong kỷ nguyên của hội
nhập quốc tế hôm nay, vì lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, chúng ta cần có thái độ
tự phê phán cao hơn, khi phải hàng ngày hàng giờ tự soi mình vào tấm gương toàn
cầu hóa, để phát hiện ra và tích cực sửa những nét lạc lõng, dị biệt với mọi
giá trị nhân văn của thế giới văn minh.”
Sau khi đưa ra
hai thói xấu phổ biến điển hình hiện nay ở Việt Nam là đua xe và tham nhũng,
chỉ ra cách khắc phục cụ thể cho từng trường hợp, với niềm xác tín vào khả năng
“đẩy lui được con bệnh”, tác giả đã thử phác thảo danh mục các thói hư tật xấu
của người Việt thời nay (xếp theo bảng chữ cái
tiếng Việt),
như sau:
A: An phận
thủ thường; Ăn bẩn; Ăn người; Ăn cắp vặt; Ăn hơn, làm kém; Ăn tục nói phét; Ảo
tưởng; Ăn xổi ở thì; Ẩu v.v…
B: Bàng
quan; Bảo thủ; Bằng cấp giả; Bán trời không văn tự; Bài ngoại; Bắt cóc bỏ đĩa;
Bóc ngắn, cắn dài; Bè phái; “Buôn dưa lê”; Bới bèo ra bọ v.v…
C: Cãi nhau
to vì chuyện nhỏ; Chen ngang khi phải xếp hàng; Chọc gậy bánh xe; Chụp giật;
Chửi bậy, cục súc; Cờ bạc; Coi thường pháp luật; Cù nhầy; Cửa quyền; Cười không
đúng chỗ, đúng lúc v.v…
D: Du di;
Dị ứng tri thức; Dzô dzô (ăn nhậu thái quá) v.v…
Đ: Đâm bị
thóc, chọc bị gạo; Để bụng; Đỏ đen; Đố kỵ; Đùn đẩy; Đua xe v.v…
E: Ép buộc;
Ép uổng v.v…
G: Gắp lửa
bỏ tay người; Gia trưởng; Giả dối; Giàu ghen, khó ghét; Giậu đổ bìm leo v.v…
H: Hách
dịch; Hiếu chiến; Hòa cả làng; Hô khẩu hiệu suông; Hứa hão; Hút thuốc lá v.v…
Hớn hở hôi
của (Quảng Ngãi, 2013). Ảnh: m.phunuonline.com.vn/
Hớn hở hôi
của (Quảng Ngãi, 2013). Ảnh: m.phunuonline.com.vn/
I: Ích kỷ
hại người v.v…
K: Khoe
khoang; Khôn lỏi; Không đúng giờ; Không chính kiến; “Khuỳnh”; Kỳ vĩ v.v…
L: Làm láo,
báo cáo hay; Làm liều; Làm theo phong trào; Lập lờ nước đôi; Lệ làng; Lý nhẹ
hơn tình v.v…
M: Mạnh ai
nấy chạy; Mất đoàn kết khi sung sướng, đầy đủ; Mê tín v.v…
N: Ném bùn
sang ao; Nịnh trên nạt dưới; Nhai to; Nhậu nhẹt triền miên; Nhổ bậy; Nhếch
nhác; Nghĩ ngắn hạn (tư duy nhiệm kỳ); Ngoáy mũi nơi đông người; Nói dai, nói
dài, nói dại; Nói một đằng, làm một nẻo; Nói to nơi công cộng; Nói phách (nói
khoác lác); Nể nang; Nửa vời v.v…
O: Oai hão;
Ôm đồm; Ôm rơm rặm bụng; Ông giơ chân giò, bà thò nậm rượu (thông đồng làm việc
khuất tất) v.v…
P: Phép vua
thua lệ làng; “Phong bì” (hối lộ); Phô trương; Phung phí v.v…
Q: Qua cầu
rút ván; Qua loa đại khái; Quan liêu; Quan trọng hóa vấn đề; Quy hoạch treo
v.v…
R: Ra oai;
Ranh vặt; Rượu chè v.v…
S: Sai hẹn;
Sĩ diện hão; Sính ngoại; Sợ trách nhiệm; Sợ người khác giỏi hơn mình v.v…
T: Tâm lý
vùng (địa phương hẹp hòi); Tiểu nông, tiểu trí; Tiểu xảo; Tiểu khí (tiểu nhân,
hạn hẹp); Tham nhũng; Thấy kẻ sang bắt quàng làm họ; Thụ động; Tư duy nhiệm kỳ;
Tự ti dân tộc nhược tiểu v.v…
U: Ưa xiểm
nịnh; Ức hiếp kể yếu; Ừ hữ cho qua; Ương ngạnh v.v…
V: Vặt
vãnh; Vẽ vời; Vênh váo; Vị kỷ; Vị nể; Viển vông; Viết, vẽ bậy nơi công cộng;
Vòi vĩnh; Vung tay quá trán v.v…
X: Xa dân;
Xa rời thực tế; Xả rác nơi công cộng v.v…
Y: Ỷ lại; Ỷ
quyền thế; Ý thức tập thể, cộng đồng kém v.v…
Xét danh mục
trên đây, thấy có một số điểm (tật xấu) được nêu ra trùng lặp, như “Nghĩ ngắn
hạn” với “Tư duy nhiệm kỳ”… Một vài điểm khác có lẽ cũng chưa nên liệt hẳn vào
tật xấu, như “Hút thuốc lá”, vì đây kể như thuộc cái chung “nhân loại” mà dân
tộc nào cũng có… Bảng danh mục trên đây cũng chưa tách bạch, mà trộn lẫn, giữa
những thói xấu thuộc sinh hoạt cá nhân (như Nhổ bậy, Ngoáy mũi nơi đông người…)
với sinh hoạt cộng đồng (Chen ngang khi phải xếp hàng, Đua xe, Viết vẽ bậy nơi
công cộng, Xả rác nơi công cộng…); giữa những khuyết tật/ nhược điểm về đầu
óc-tư duy-tư tưởng (như Ăn tục nói phét, Ảo tưởng, Bảo thủ, Thụ động, Ương
ngạnh, Vênh váo, Viển vông, Ỷ lại…) với nhân sinh quan/ thái độ sống (như An
phận thủ thường, Vị kỷ…); giữa những quan hệ cá nhân (như Ưa xiểm nịnh, Ức hiếp
kẻ yếu…) với hành vi có tính chất công quyền do cơ chế quản lý bất hợp lý gây
ra (như Cửa quyền, Hô khẩu hiệu suông, Làm láo báo cáo hay, Làm theo phong
trào, Phong bì / Hối lộ, Quan liêu, Quy hoạch treo, Tham nhũng, Tư duy nhiệm
kỳ, Xa dân, Xa rời thực tế…)
Trong bài viết
“Tính xấu của người Việt Nam” (đăng ngày 10/02/2012 trên trang mạng chungtoimuontudo),
ông Phan Nhật Nam
mạnh dạn đưa ra nhận định:
“Dân tộc Việt Nam, ngoài những điểm ưu
việt ghê gớm mà các dân tộc khác trên thế giới không có, còn có những khuyết
điểm, hay nói huỵch toẹt ra là những thói xấu, mà các dân tộc kia không thể nào
sánh nổi cho dù họ có cố gắng học hỏi hay bắt chước chúng ta cách mấy đi nữa.
Những thói xấu này giải thích tại sao người Việt Nam mà chúng ta vẫn luôn luôn
tự hào là thông minh xuất chúng đến như vậy mà bây giờ lại trở nên một trong
những dân tộc lụn bại, trầm luân nhứt thế giới, tính cho đến cuối thiên niên kỷ
này. Những thói xấu của người mình thiệt ra khá nhiều, nhiều hơn mức bình
thường. Người viết bài này chỉ gạn lọc và trình bày một số tính tiêu biểu đã
gián tiếp hay trực tiếp đóng góp vào tình trạng đất nước Việt Nam ngày càng xơ
xác, tiêu điều, các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại ngày càng tiếp tục chia
rẽ, phân hóa tưởng như không bao giờ hà n gắn được.”
Rồi trước khi
phân tích, chứng minh, tác giả nêu ra một loạt những thói xấu ông cho là tiêu
biểu: không tôn trọng sự thực và lẽ phải; khoe khoang và kiêu ngạo; cố chấp và
ngoan cố; độc tôn; kỳ thị; tàn ác; thiếu cao thượng và ưa chơi gác; phe đảng;
thiển cận; ganh ghét; thích làm vua làm chúa; không công
tâm; không tôn
trọng luật lệ; cướp công của người khác; ưa nịnh bợ, tâng bốc; thích ăn hối lộ;
tham lam; không tôn trọng nguyên tắc và giờ giấc; không tuân giữ các cam kết…
Căn cứ vào
những ý kiến có được từ một số diễn đàn “xét tật mình” / “thói hư tật xấu người
Việt” do các báo Tuổi trẻ , Tiền phong (online) và vài trang mạng xã hội
khác thực hiện trong khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4/2014, chúng tôi xin phép
được lượm lặt để bổ sung vào hai bảng danh mục nêu trên, về đủ loại thói
hư tật xấu/ căn bệnh tư tưởng của người Việt chúng ta hiện nay (tên gọi những
thói hư tật xấu có đánh dấu hoa thị * bên trên là do chúng tôi ghi nhận thêm).
Có thể kể với sự phân loại tương đối như sau:
Thói xấu
thuộc hành vi cá nhân: Đua đòi (ai cũng muốn sắm xe máy, điện thoại di
động…);* Thích người này hát để người khác khen hay, cùng nhau vỗ tay khen
thưởng; Thói hiếu kỳ, bàng quan (“xúm đông, xúm đỏ” mỗi khi có tai nạn giao
thông, đám đông hiếu kỳ bu xem…); Bàn tán chuyện ngoài đường chẳng dính đến
mình; Tò mò, thích kể chuyện đời tư người khác; * Tật ngồi lê đôi mách;* Mừng
trên sự thất bại của người khác;* Thích công kích người khác theo kiểu nhạo
báng chua cay, châm chích rẻ tiền;* Nhặt được của rơi không trả;* Lời lẽ xúc
phạm thiếu văn hóa trong hoạt động nghiên cứu (như gọi vua Gia Long là “y” là
“hắn”, gọi phe đối nghịch với mình là thằng này bọn nọ…);* Khiêm tốn quá mức;
Nói về người khác nhiều mà ít suy nghĩ về chính bản thân mình; Quan cách, khách
sáo; Tính ghen ghét, tùy tiện; A dua, tát nước theo mưa; Láu cá (kiểu Trạng
Quỳnh…); Không muốn ai hơn mình (cái gì cũng muốn phải hơn người khác, người
này mở nhạc thì người khác phải mở to hơn…); Ghét người giàu;* Nói xấu sau lưng
người khác;* Háo danh (thích được tuyên dương, nhận giấy khen, bằng khen…);*
Hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục; Hay cãi
vã; Chửi thề (kể cả học sinh nữ…);* Dốt hay nói chữ;* Tốt khoe xấu che; Dối
trá; Nói đâm vào họng kẻ khác;* Sĩ diện không đúng chỗ (sĩ diện hão); Tham lam
nhỏ mọn vô lối (tranh giành nhau từng tấc đất…);* Tài khôn (khôn vặt, ưa tỏ ra
mình giỏi);* Lúng túng, không tự nhiên khi giao tiếp; Hay cậy thế nhờ vả họ
hàng và quan chức; Nói nước đôi lập lờ không rõ ràng;* Dễ thỏa mãn nên tâm lý
hưởng thụ còn nặng; Xởi lởi, chiều khách, song không bền; Hoang phí vì những mục
tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời); Mất đoàn kết, tương thân,
tương ái khi có điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn; Không tiết kiệm hay tâm lý
thích tiêu xài phung phí; Thích hưởng thụ mà không chịu trả phí (thích xài mọi
thứ nhưng không muốn mất tiền, sử dụng điện thoại “chùa” nơi công sở…); Thói
giả dối hay căn bệnh “sống hai cuộc sống” …
Thói xấu
trong sinh hoạt: Quá coi trọng chuyện ăn uống (thôi nôi, sinh nhật, mừng
thi đỗ, mừng có việc làm, mừng trúng thầu dự án, mừng mua xe mới nhà mới…);
Ngồi các kiểu ở chỗ đông người; Lãng phí thời gian (ngồi lê đôi mách, nhậu nhẹt
quá mức không biết tiết kiệm thời giờ vàng bạc); “Ăn nhanh,
đi chậm, hay
cười/ Thích “chơi đồ cổ” (mua đồ cũ) là người Việt Nam”; Cười nói to, ồn ào nơi
công cộng; Thích tiếng động (kèn trống, đốt pháo…);* Khạc nhổ bừa bãi; Không có
phong thái lịch sự khi giao tiếp (ít biết nói “cám ơn, xin lỗi, vui lòng…”);
Phóng uế, tiểu tiện bừa bãi; Ăn uống/ ăn ở mất vệ sinh (chế biến thực phẩm, cầu
tiêu trên sông…); Xả rác tùy tiện (xả rác vô tội vạ, đổ nước bẩn ra đường…)
Thói xấu
trong ứng xử với cộng đồng: Đấu đá nghi kỵ lẫn nhau; Vô cảm (với nỗi khó
khăn, cảnh khổ của người khác);* Không quan tâm tới luật lệ giao thông (vượt
đèn đỏ, đi ngược chiều, chạy cho kịp giờ, chạy xe bạt mạng…); Ý thức chấp hành
kỷ luật kém; Tính tùy tiện vô tổ chức (tự do vô tội vạ); Ý thức cộng đồng kém
(quảng cáo cột điện nhiều vô kể…); Ít chịu nhường nhịn (không cần xếp hàng gì
cả, cố giành phần ưu tiên, chen lấn xô đẩy, giành giật, không biết nhường
đường); Lợi mình hại người (lấy gà bị chết dịch mà đem bán, độn đinh vào tôm
xuất khẩu…); Nói thách;* Cân thiếu;* Không biết giữ gìn tài sản công; Ý thức
kém về bảo vệ môi trường…;*
Thói xấu trong lề lối làm việc: Giải
quyết vấn đề theo cảm tính chủ quan; Tham lợi nhỏ quên mất tai họa lớn; Chạy
đua chỉ để phục vụ cho một sự kiện; Khúm núm với cấp trên, thượng đội hạ đạp;
Làm việc gì cũng trước tạo mối “quan hệ” tốt; Tính cả nể và không công bằng;
Thích ganh đua và chạy theo bệnh thành tích; Cái tôi đặt lên trên tập thể;
Không dám chịu trách nhiệm những việc mình làm; Tinh thần hợp tác làm việc theo
nhóm còn hạn chế; Khi đi công tác, người Việt rất nặng nề chuyện mua bán, quà
cáp cho người nhà và đồng nghiệp; Không có thói quen truyền đạt những thông tin
cần thiết cho người khác sau khi kết thúc công việc nào đó…
Thói xấu
trong học tập, giáo dục-thi cử: Thi không trung thực (quay cóp, sử dụng
“phao”, mang tài liệu vào phòng thi…);* Ai cũng muốn cho con vào đại học (coi
thường ngành trung cấp/ cao đẳng chuyên môn);* Học gạo nhưng kém thực hành; Ít
khi học “đến đầu đến đũa” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản…
Tính cách
chung ngăn cản sự tiến bộ (các mặt hạn chế): Hời hợt, không sâu sắc; Tự ti;
Thích khen sợ chê; Trọng tình; Bảo thủ, cực đoan; Lãng phí; Không cơ bản, sống
theo kiểu “lắp ghép”; Dĩ hòa vi quý; Nhu nhược, sợ quyền lực; Vừa thực tế, vừa
mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận;
Thiếu tự tin
và óc phê phán; Tính rụt rè; Có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn,
chủ động; Không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của
sản phẩm); Óc vọng ngoại (sính dùng tiếng/ chữ nước ngoài, dùng hàng hiệu nước
ngoài…);* Bệnh hình thức; Thiếu trách nhiệm cá nhân, thừa trách nhiệm tập thể;
Thiếu thực tế; Thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người
làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng); Không biết mình xấu
(có nhiều tật xấu, trong đó tật xấu nhất là… không ý thức được đó là những tật
xấu, thấy xấu không sửa)…
Trên đây, qua
nhiều nguồn tổng hợp từ các diễn đàn truyền thông, có lẽ chúng ta đã liệt kê
chưa hết nhưng gần hết những thói hư tật xấu/ tính xấu / khuyết tật/ căn bệnh
tinh thần… bao gồm các mặt hạn chế đủ loại của người Việt nói chung, hay người
Việt thường dân. Tuy nhiên, sẽ là rất thiếu sót nếu
chúng ta không
tách riêng ra để kể thêm về những thói xấu/ khuyết tật đặc biệt của “người Việt
công quyền” gồm hết thảy những cán bộ công nhân viên chức làm việc trong các cơ
quan ban ngành đoàn thể thuộc Đảng, Nhà nước, cũng như trong các tổ chức kinh
tế tập thể-quốc doanh, các tập đoàn kinh tế
quốc doanh và
tổng công ty…, vốn chịu sự chi phối cũng của chính các cơ quan ban ngành đoàn
thể ấy. Bởi vì thói xấu người Việt nói chung (hay người Việt thường dân) không
thể nào không ảnh hưởng hay phản chiếu trực tiếp vào cung cách, tác phong, thái
độ làm việc của người Việt công quyền, bao gồm cả các nhà lãnh đạo kinh
tế-chính trị-văn hóa-xã hội ở mọi cấp, bởi tất cả họ cũng đều “từ nhân dân mà
ra”, chứ chẳng phải ai khác. Như thói gia trưởng chẳng hạn, khởi đầu từ gia
đình, sau ảnh hưởng tới tác phong lãnh đạo của người cán bộ…
Kể về thói
xấu/ khuyết tật đặc biệt của “người Việt công quyền” thì có lẽ số lượng không
nhiều hơn so với của người Việt thường dân, nhưng thói xấu / khuyết tật mà nằm
trong số những kẻ có chức có quyền thì mức tác hại của chúng chắc chắn phải cao
hơn. Đó chính là nguyên do tạo nên mọi thứ trì trệ
làm cho đất
nước phải bị kìm hãm lâu dài trong vòng chậm tiến. Hay nói một cách công bằng
và chính xác hơn, cả hai hệ thói xấu/ khuyết tật nêu trên đã cộng hưởng lẫn
nhau để phát tác tiêu cực.
Căn bệnh nặng
nhất của người Việt công quyền là bệnh xơ cứng giáo điều cả về mặt tư tưởng lẫn
hành động, khiến hầu hết những người làm việc trong bộ máy công quyền các cấp
đều không dám công khai nói thẳng sự thật hay mở mũi đột phá khi cần thiết cho
công việc vì luôn sợ bị chụp mũ về quan điểm lập trường, dẫn tới tình trạng ai
cũng nhếch nhác rụt rè, giữ gìn ý tứ, từ đó triệt tiêu tất cả mọi sự thông minh
và độc lập sáng tạo của cá nhân.
Phương thức
quyết định tập thể dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm tập thể. Khi có sự vụ gì
hư hỏng, hoặc sai lầm xảy ra thì người ta cứ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, rốt
cuộc không có ai là người đứng ra chịu trách nhiệm cụ thể cả, hoặc chỉ chịu
trách nhiệm dưới hình thức “xin lỗi”, rồi xử lý nội bộ cho qua.
Kinh tế tập
thể và nguyên tắc “quốc doanh chủ đạo” dẫn đến việc biến tài sản của chung
thành “của chùa” mạnh ai nấy xà xẻo, từ đó cũng gây nên tình trạng vô trách
nhiệm kiểu “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”, “cha chung không ai khóc”, vốn
là gốc nguồn căn bản của tệ nạn vun quén cá nhân biểu hiện dưới hình thức ăn
cắp của công, tham ô lãng phí, tham nhũng hối lộ ngày càng tăng và vô phương
cứu chữa.
Bộ máy hành
chính công quyền để quản lý xã hội hoạt động kém hiệu quả, trong điều kiện việc
thực thi luật pháp thiếu minh bạch, đã gây nên quốc nạn tham nhũng gồm cả tham
nhũng lớn lẫn tham nhũng vặt. Tham nhũng lớn liên quan số tiền hoặc tài sản trị
giá hàng chục/ hàng trăm tỷ đồng, thường do các nhóm quan chức đặc quyền tương
đối lớn câu kết với nhau; tham nhũng vặt phổ biến tại mọi tỉnh thành trên cả
nước làm cho cả dân tộc hèn đi, được thực hiện dưới hình thức “lót tay”, “phong
bì”, “bồi dưỡng”…, chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực hành chính, đặc biệt với cơ
chế hành chính “xin-cho”, khi người dân có những việc cần xin phải đụng tới thủ
tục, như xin việc làm ở cơ quan nhà nước, “xin” khám-chữa bệnh ở bệnh viện
công, xin nhập/ chuyển hộ khẩu, xin giấy khai sinh/ khai tử, xin giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, xin giấy phép xây dựng, xin đi học…
Ngoài những
thói xấu/ khuyết tật/ chứng bệnh nặng nêu trên, ở “người Việt công quyền”, còn
có nhiều thứ đáng kể khác, rất phổ biến, tuy có phần ít “căn bản” hơn đôi chút
nhưng tác hại của chúng hội tụ lại cũng vô cùng to lớn.
Có thể kể ra
hàng loạt: Thói giữ bí mật (không công khai nói ra cho dân biết, che giấu những
sự thật không tốt); Chủ nghĩa lý lịch-thành phần; Bổ nhiệm nhân sự theo quan hệ
người thân (họ hàng, bạn bè, “một người làm quan cả họ được nhờ”…); Bệnh sùng
bái cá nhân; Óc gia trưởng; Bệnh tham quyền cố vị; Không có văn hóa từ chức; Sợ
tới tuổi về hưu; Tha hóa quyền lực (dân tốt khi có chức quyền trở thành quan
xấu…); Bệnh kết bè kéo cánh (óc bè phái/ phe đảng); Thói nịnh trên nạt dưới;
Phê bình tố cáo, vạch nhau chuyện tủn mủn để tranh giành quyền lực/ quyền lợi
(moi móc đời tư để hạ bệ nhau…); Óc cục bộ địa phương; Tư túi/ thu vén cá nhân;
Sống giả dối hai mặt (ở cơ quan nói khác, về nhà nói khác…); Sử dụng bằng dỏm
bằng giả; Bám sống theo cái nôi cơ quan nhà nước; Bệnh quan liêu hình thức;
Thói quan liêu cửa quyền; Trấn áp dân chủ (không tôn trọng quyền tự do ngôn
luận, bài trừ “ý kiến khác”…); Đì kẻ có tài hoặc khác với mình về quan điểm;
Can thiệp vào hoạt động tư pháp (chỉ đạo xét xử, gởi gắm…); Sử dụng nhiều thủ đoạn
đôi khi cả với dân; Bao che, câu kết kiểu phủ huyện bênh nhau; Nghi kỵ, rình
rập, vạch lỗi của nhau trong quan hệ công tác; Hô khẩu hiệu suông; Hội họp
triền miên; Báo cáo láo; Bệnh thành tích; Xử lý nội bộ (không xử phạt dựa trên
luật pháp); Ngụy biện (ưa dùng những cụm từ như “căn bản tốt”, “hoàn thành căn
bản”, “nơi này nơi khác vẫn còn không ít khuyết điểm”, “một số không nhỏ”…);
Máu xôi thịt; Hám tổ chức những ngày lễ kỷ niệm và ăn theo cuộc lễ; Hám danh
hão; Hám bằng khen, huân chương và các loại danh hiệu (thường xuyên tổ chức
những cuộc thi đua khen thưởng); Sử dụng công quỹ bừa bãi sai mục đích; Thi
hành công vụ / giải quyết công việc trên bàn nhậu; Nhậu nhẹt trong giờ làm
việc; Đãi đằng cấp trên (để mua chuộc tình cảm, vận động sự ủng hộ, giúp đỡ…);
Quà cáp cho cấp trên (đặc biệt trong những ngày lễ tết)…
Nguyên nhân và giải pháp cứu vãn
Về nguyên nhân
và giải pháp cứu vãn những thói hư tật xấu của người Việt hiện đại, chúng tôi
cũng chỉ xin tóm thuật bằng cách ghi lại một số ý kiến đã được phát biểu trên
hai diễn đàn liên quan chủ đề này do báo Tiền phong (online) (viết tắt: TPO) và
báo Tuổi trẻ (viết tắt TT) tổ chức trong khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4/2014
vừa qua. Chúng tôi tin cách làm này tuy có vẻ đơn giản nhưng lại nhiều khả năng
đạt được tính khách quan cao, nhờ thu thập được ý kiến từ nhiều phía của mọi
thành phần dân Việt cũng như của vài người ngoại quốc có quá trình sinh sống và
làm việc tại Việt Nam.
1. Về nguyên nhân những thói hư tật
xấu, có những ý kiến đáng chú ý như sau:
- Đào Duy Anh
khẳng định trong sách Việt Nam
văn hóa sử cương (Quan Hải tùng thư, Huế, năm 1938) rằng: “Cái văn hóa của tổ
tiên ta đã gây dựng trong hai nghìn năm để sinh trưởng giữa những điều kiện tự
nhiên ác liệt ở xứ này, tất phải có sinh khí mạnh mẽ lắm.” Song, ông cũng nhận
rõ đấy là “sinh khí mạnh” của nền văn hóa nông nghiệp Việt, với văn minh lúa
nước cổ truyền, vốn là “xã hội bế tỏa, đến khi xã hội ấy gặp tình thế bắt phải
khai thông thì nó lộ ngay ra hết mọi nhược điểm. Cái bi kịch hiện thời của dân
tộc ta là sự xung đột của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những
điều mới lạ của văn hóa Tây phương. Cuộc xung đột sẽ giải quyết thế nào, đó là
một vấn đề quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy” (theo Nguyễn
Thị Minh Thái, “Tính xấu người Việt: Cần soi gương…”, TT, 8/4/2014). Có thể nói
thói hư tật xấu của người Việt Nam
ta nó xuất phát từ lối sống, lối làm việc, tập tục văn hóa tích lũy từ bao đời
mà hình thành… (TPO). “Cái xấu” mà người Việt hiện đang mắc phải nó rất biện
chứng và là hệ quả của một thời gian dài ít hòa nhập với thế giới, ta chỉ
thường ca ngợi ta “anh hùng, cần cù, thông minh…” như là khỏa lấp những vấn đề
yếu kém vẫn đang tồn tại trong xã hội. “Cái xấu” ở đây không phải sinh ra là đã
thế mà nó bị ảnh hưởng của cách giáo dục, từ thực tế cuộc sống, từ những “bài
học sinh tồn” mà cha ông ta dặn lại; nó chỉ thuần túy là khả năng chống chọi
với thiên nhiên, ngoại xâm, với các thế lực muốn thôn tính ta. Khi ta hội nhập
thì cái mặt bằng ngàn năm đó cũng cần được nhìn nhận theo “tiêu chuẩn quốc tế”
và điều đó dân Việt ta cũng phải suy nghĩ! (TPO).
- Việt Nam vẫn
đang ở giai đoạn thay đổi, tức vẫn non trẻ. Trong xã hội chưa được thiết lập
một tiêu chuẩn về lối sống có tính đạo đức một cách vững vàng (TT, 31/3/2014).
- Do ở trình
độ dân trí của mọi người, do trình độ văn hóa chung của toàn xã hội… (TPO).
Những thói xấu mà người Việt thể hiện như mọi người đã chỉ ra chỉ là sản phẩm
của một nền văn hóa hiện nay. Văn hóa được định hình bởi các giá trị… Vấn nạn
đối với người Việt hiện nay là những “giá trị” ngầm rất
tệ hại đã và
đang là kim chỉ nam cho những hành vi hằng ngày của rất nhiều người… (TT,
12/4/2014).
- Do hiệu quả
của hệ thống pháp luật, do kỷ cương phép nước, do cơ chế quản lý xã hội… Hơn
nữa, việc coi thường pháp luật và việc chế tài xử phạt không nghiêm cũng góp
phần làm trì trệ thêm tình hình… Cơ chế quản lý xã hội (thông qua hệ thống luật
pháp chính thống của Nhà nước, các quy định của các cấp chính quyền, đoàn thể)
còn những chỗ chưa chặt chẽ (TPO).
- Do khuyết
tật của nền giáo dục, do chất lượng thực chất của nền giáo dục phổ thông. Chúng
ta đang chú trọng việc “dạy chữ” mà xem nhẹ việc “dạy làm người”. Lòng nhân ái,
tính khoan dung, tình yêu thương gia đình, đồng loại, tính cộng đồng… là những
bài học sơ đẳng để hoàn thiện nhân cách một
con người và
nó phải được thường xuyên nuôi dưỡng trong một môi trường xã hội lành mạnh. Đây
là điều mà nền giáo dục hiện nay khiếm khuyết (TPO).
Sự khủng hoảng
của nền giáo dục ở các cấp đã có ảnh hưởng tức thời đến hiện tượng “người Việt
xấu xí” đang có chiều hướng gia tăng – một bộ phận trẻ em hư hỏng, bất cần đời
đi bụi, thanh niên đua xe, nghiện ma túy rồi phạm pháp v.v…
Giáo trình môn
đạo đức học trong nhà trường rất thiếu những bài giảng sinh động mang tính thực
tiễn đề cập thẳng thắn tới những thói hư tật xấu hay gặp nhất của người Việt
trong bối cảnh của hội nhập quốc tế. Chẳng có tiết giảng nào răn dạy các em
không nên ngoáy mũi hay nói to nơi công cộng… Và đáng thất vọng hơn là xã hội
chưa có chế tài xử phạt những hành vi thiếu văn hóa
trên quy mô cả
nước (Phạm Gia Minh, Tlđd).
- Điểm xuất
phát của chặng đường tự sửa mình gian nan đó phải được bắt đầu từ gia đình – tế
bào của xã hội, cụ thể là hình thành và gìn giữ gia phong hay còn gọi là “văn
hóa gia đình”. Nhưng cái văn hóa gia đình ấy gắn liền với chữ “lễ” lẽ ra cần
được ưu tiên thấm nhuần, để dẫn truyền kiến thức văn hóa, trên thực tế đã bị
coi thường, là nguyên nhân gây ra những biểu hiện ứng xử thiếu văn hóa. “Trong
thực tế người ta đã nhồi nhét tới mức quá tải những mái đầu còn non nớt bằng
bao tiết học chính khóa lẫn học thêm các môn Toán, Lý, Hóa, Văn, v.v… trong khi
đó giáo dục thể chất và tinh thần chưa bao giờ được đầu tư đúng mức. Rút cuộc,
chúng ta đã tạo ra một nền giáo dục đầy bức xúc và stress, có nguy cơ sản sinh
ra những thế hệ công dân tư duy thụ động theo lối mòn, xơ cứng giáo điều, nghèo
nàn và ‘cục súc’ trong văn hóa giao tiếp, yếu ớt về thể chất và dị biệt với các
bạn đồng lứa trên thế giới ” (Phạm Gia Minh, Tlđd).
- “Nhân chi sơ
tính bản thiện”, tính xấu là do hoàn cảnh bên ngoài tạo nên: Những đứa trẻ sống
giữa những người phê phán thì học thói hay lên án; những đứa trẻ sống trong bầu
không khí thù địch thì hay đánh nhau; những đứa trẻ sống trong sự hãi hùng thì
học được thói sợ sệt… (TPO).
- Tiền lương
của người lao động còn thấp nên không có tác dụng khích lệ tính tốt (như nhân
viên phục vụ cửa hàng không biết tươi cười với khách…) (TPO).
- Cách quản lý
xã hội lỏng lẻo, bất hợp lý đã vô tình tạo điều kiện cho tính xấu ngày càng
bành trướng, tính tốt càng bị chèn ép mất hút. Đầu tiên là một số ít lợi dụng
sự lỏng lẻo để lách, rồi họ thu được lợi thay vì bị phạt, vậy là số đông hùa
theo, làm theo, hành vi xấu nhanh chóng nhân rộng. Một người không xếp hàng
nhưng vẫn được bán vé trước, vào trước, số còn lại sẽ không xếp hàng nữa. Một
số ít hay đi trễ nhưng vẫn được chờ đợi, số người đi đúng giờ sẽ rút kinh
nghiệm không đúng giờ nữa, làm thành một tập thể trễ nải, như chuyện đi đám
cưới. Anh đút lót, mọi sự dễ dàng hơn thì tôi dại gì đi
đường chính vòng
vèo… Không có sự nghiêm minh, công bằng thì người ta sẽ tìm cách đạt lợi ích
bằng hành vi xấu. Lâu dần lan dần thành thói quen, thói xấu của cả cộng đồng
(TT, 31/3/2014).
- Bốn nguyên nhân của xấu xí:
1) Di sản
đạo đức không kết thành một khối từ quá khứ đến hiện tại . “Một triều đại
mới bắt đầu là một sự thay đổi tận gốc rễ, nhiều “nguyên khí quốc gia”, nhiều
tư tưởng lớn bị phế bỏ chỉ vì không cùng “nhóm”, có phải vậy mà giá trị, chuẩn
mực đạo đức truyền thống truyền đến hôm nay chỉ còn là những mảnh ghép rời
rạc”;
2) Không
trải qua những hình thái lịch sử hình thành nên tính cách cộng đồng… Kỷ
luật roi vọt của chiếm hữu nô lệ và kỷ luật đói rét của lao động công nghiệp tư
bản buộc các quốc gia – dân tộc phải trở thành một dân tộc có ý thức kỷ luật. Do
không trải qua hai hình thái này mà chúng ta không có thói quen tôn trọng và
thực thi pháp luật, là những người lề mề, thất tín, hời hợt, đại khái, ngẫu
hứng, kém
kỷ luật, trung
thành thấp… Việt Nam
cũng không trải qua một phương thức sản xuất nào trọn vẹn từ đầu đến cuối, do
vậy mà các chủ thể xã hội không đạt đến độ chín muồi về đạo đức, tư tưởng và
triết học;
3) Không
được chuẩn bị cho kinh tế thị trường. Sau gần 20 năm đói khát bởi cấm vận,
khủng hoảng kinh tế, cuộc sống khốn khó đến mức làm bất cứ cái gì để tồn tại,
khi xã hội chuyển từ nền kinh tế bao cấp (cũng là một trạng thái bất bình
thường) sang kinh tế thị trường thì xã hội phải đối mặt với trạng thái phát
triển quá đột ngột, không ai từ lãnh đạo đến người dân được chuẩn bị về tâm thế
nên rơi ngay vào trạng thái bất bình thường khác. Tăng trưởng GDP lên hai con
số thành mục tiêu quan trọng nhất, người dân giẫm đạp lên mọi đạo lý để kiếm
tiền. Sự hoang dại của thời đói kém cộng với thứ kinh tế thị trường non yếu đã
làm đậm hơn lên những tính cách xù xì, méo mó vốn có, và được bổ sung thêm
những cái gớm ghiếc từ bên ngoài tràn vào. Phàm cái gì nôn nóng thì dễ hỏng,
bằng chứng cho thấy tiền của nhiều hơn nhưng đạo đức suy thoái, đời sống tinh
thần bị chao đảo khủng khiếp. Không ở đâu có chuyện thay vì cứu người bị nạn
thì lại lao vào hôi của, nhặt tiền với một tinh thần man dại;
4) Hệ thống
quản trị quốc gia chưa phải là tấm gương. Muốn hay không cũng phải nhìn
nhận rằng dân tình trong một quốc gia có ra sao thì người đóng vai trò quản lý,
dẫn dắt phải chịu trách nhiệm. Có một sự thật là bên cạnh những thành tựu nhất
định, bộ máy quản lý nhà nước hoạt động ở một số nơi còn kém hiệu quả, vận hành
làm sao mà khoảng cách giàu nghèo ngày một lớn, tham nhũng, quan quyền hưởng
lợi trên sự thiệt của dân, oan sai còn nhiều, gây bất bình… Niềm tin đạo đức,
công bằng, đạo lý sa sút. Phản ứng xã hội chuyển sang thành những tiêu cực như
trộm cắp, tham nhũng vặt, lập băng đảng, bóp cổ khách du lịch, chích hút ma
túy… “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, hiển nhiên là như vậy, bởi thiết chế xã
hội như khuôn đúc nên con người. Nhưng hình như cái khuôn của chúng ta có vấn
đề cho nên nhiều sản phẩm không dài, không tròn mà lại dị dạng (ý kiến của
Nguyễn Minh Hòa, TT, 15/4/2014).
2. Về giải pháp cứu vãn những thói hư
tật xấu, có những ý kiến tóm tắt như sau:
- Phải có một
nền giáo dục tốt, phải giáo dục thế hệ trẻ ngay từ lúc này, mà trước tiên nhà
trường và gia đình là những tấm gương… Sửa dần thói xấu vặt từ thế hệ 8X. Đối
với người Việt Nam
ta, người lớn đã sống theo quán tính rồi, sửa những thói xấu vặt như chúng ta
thường nói một cách hiệu quả là khó…
Nhưng nếu nhà
trường có môn học làm người, dạy các em từ lời ăn tiếng nói, dáng đi, tác phong
ăn uống, tiếp bạn, chung sức học tập và làm việc, biết ganh đua nhau để tiến lên,
tôn vinh những thành tích thực sự, ai, nhóm nào cũng có thể nổi tiếng đúng
nghĩa… thì có lẽ hiệu quả hơn… Vấn đề là ở hệ thống chương trình giáo dục
(TPO). Nhà trường luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục ý thức
cho dân chúng… Người nước ngoài cũng không hơn gì ta cả, chẳng qua họ được giáo
dục tốt, từ trong nhà trường ra tới ngoài xã hội… Dù có nói gì đi nữa, nếu
không có sự cải cách thì khó hy vọng có một thay đổi lớn ở ý thức xã hội trong
những năm tới (TT, 12/4/2014). Trong cải cách giáo dục, nên chăng chúng ta hãy
có hẳn một bài lên án nạn “ăn cắp vặt” của người Việt.
Đồng thời đưa
ra bài học đạo đức “không nên ăn cắp vặt”, “không nên tham vặt”… Hãy dạy một
cách thẳng thắn, nêu đúng tội, dẫn chứng đúng chuyện để học sinh lấy đó làm bài
học. Đừng đưa ra những lý luận, những học thuyết hay danh từ cao siêu… Một khi
tính tham vặt không tồn tại sẽ không còn tham của công, tham nhũng và những cái
tham khác… (TT, 13/4/2014).
- Điểm xuất
phát của chặng đường tự sửa mình gian nan đó phải được bắt đầu từ gia đình – tế
bào của xã hội, cụ thể là hình thành và gìn giữ gia phong hay còn gọi là văn
hóa gia đình (Phạm Gia Minh, Tlđd).
- Nên chủ động
kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng khác, kết hợp với các nhà
nghiên cứu văn hóa xã hội, các đoàn thể quần chúng và kết hợp với đông đảo độc
giả xa gần trong và ngoài nước để phát động một phong trào sâu rộng bài trừ
thói hư tật xấu của người Việt chúng ta (TPO).
- Nên khuyến
khích mọi người sưu tầm thơ, ca dao, tục ngữ nói về thói hư tất xấu, về tệ nạn
lãng phí, tham nhũng. Đó cũng là cách thu hút mọi người quan tâm đọc, góp ý
kiến và giải pháp (TPO).
- Xử phạt để
răn đe, cảnh cáo hành vi phạm lỗi… (TPO). Tuyên truyền, giáo dục là cần thiết
nhưng thiết nghĩ cũng cần có biện pháp xử lý khi có người cố ý coi thường các
quy tắc chung (TT, 11/4/2014).
- Cách trước
mắt để loại bỏ thói hư tật xấu tạm thời, đó là: – Làm gương cho người khác từ
chính mình từ việc nhỏ nhất. – Hãy có một lòng tin vào thế hệ trẻ, vào tương
lai ngày mai sẽ khác (TPO).
Tạm kết
Đồng tiền bất
lương và xã hội vô luân là bạn đòng hành. Nguồn: OntheNet
Đồng tiền bất
lương và xã hội vô luân là bạn đòng hành. Nguồn: OntheNet
Qua sự khảo
sát tìm hiểu tương đối toàn diện vấn đề thói hư tật xấu người Việt như trên,
bao gồm cả việc phân tích nguyên nhân và đề nghị giải pháp khắc phục, chúng tôi
xin phép được đưa ra một số nhận xét riêng có tính chung nhất như sau để thay
cho lời tạm kết:
- Không phải
người Việt nào cũng có đủ những thói hư tật xấu như đã được nêu ra trong các
phần trên, mà con người có sự khác nhau tùy theo tư chất bẩm sinh và điều kiện
hấp thụ văn hóa (gia đình, học đường, xã hội). Đối với không ít người chú trọng
việc rèn luyện bản thân, thói hư tật xấu sẽ ngày càng ít đi.
Một số thói hư
tật xấu trên thực tế cũng là khuyết tật chung của loài người, đâu đâu cũng có,
ít hoặc nhiều. Vì thế chúng tôi rất chia sẻ với ý kiến của một tác giả tham gia
diễn đàn trên TPO:
“Người Việt có tính xấu chung của thế giới,
có tính tốt rất riêng và rất đặc thù. Người Việt ở đâu cũng vậy, vẫn giữ những
nét xấu riêng của mình, để đi đến đâu họ cũng bị nhận ra rằng: Đó chính là
người Việt! Nhưng người Việt không bao giờ chỉ có tính xấu, người Việt cũng có
rất nhiều cái tốt như mọi người đã biết! Tính xấu và tính tốt của người Việt
hình như là bằng nhau.”
Một số ý kiến
táo bạo như của Bá Dương trong Người Trung Quốc xấu xí, hoặc những lời phê phán
mạnh mẽ của một số trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX đối với thói hư tật xấu
người Việt, đôi khi cũng có chỗ khó tránh khỏi rơi vào cực đoan mà chúng ta ngày
nay cần phải thận trọng xem xét. Việc trung thực vạch ra những thói xấu/ khuyết
tật nhiều như vậy là cần thiết để cầu tiến bộ, song cũng cần khẳng định những
tính cách/ đức tính tốt cơ bản của người dân Việt, miễn đừng tự hào quá đáng,
bởi nếu không, sẽ rất dễ rơi vào hướng ngược lại là tình trạng tự ti mặc cảm,
bất lợi cho sự phát triển mọi mặt của dân tộc trong tương lai.
- Một số tính
cách được ghi nhận bị cho là xấu / tiêu cực nhưng đôi khi không hẳn là tính
xấu/ tiêu cực thật sự (như: lười biếng, không thiết việc đời, thích an nhàn, dĩ
hòa vi quý, trung dung, an phận thủ thường…). Có trường hợp bị coi là xấu chỉ
vì nó hạn chế sự tiến bộ theo kiểu văn minh vật chất phương Tây, nhưng lối sống
cực đoan theo các nước tiên tiến phương Tây cũng gặp phải nhiều vấn nạn và cha
hẳn đã là mô hình phát triển tuyệt vời đáng để cho mọi quốc gia khác trên thế
giới noi theo. Một nước Nhật noi gương phương Tây thành công, ai cũng khâm
phục, giàu có nhờ khả năng phát triển thần tốc của khoa học-kỹ thuật và kinh tế
với thu nhập đầu người tính bằng tiền rất cao, tính cách của người Nhật cũng có
những mặt thay đổi tích cực phù hợp theo hướng kinh tế thị trường, nhưng trong
đó con người luôn phải tất bật căng thẳng trong cuộc sống liên tục bị dồn nén,
bệnh tật cũng nhiều theo do ăn uống quá thừa mứa, để xảy ra nhiều trục trặc
trong đời sống tâm lý khiến hạnh phúc bị giới hạn…, nếu xét kỹ, chưa chắc xứng
đáng là mô hình gương mẫu của nền văn minh hiện đại. Hình ảnh ngược lại với một
số cường quốc đang ngông cuồng chạy theo nền văn minh vật chất là các nước Lào,
Campuchia, Myanmar… Trước đây, theo truyền
thống, nhờ nền kinh tế Phật giáo (Buddhist Economy), họ có được cuộc sống tương
đối bình ổn, nhưng bây giờ thì đã khác rồi, và ngày càng giống với Trung Quốc,
Việt Nam…
hơn do bị cuốn hút vào trào lưu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Họ vì thế đang
phải đứng trước những thách thức thật sự đáng lo ngại trong việc phải đối đầu
với hiểm họa môi trường từ các dự án xây dựng gây ra, kèm theo là hiện tượng
tiêu cực tham nhũng, hố ngăn cách giàu nghèo ngày một gia tăng…
Một xã hội
“tiêu cực” có nhiều người làm thơ, uống rượu, đi tu…, coi thường của cải vật
chất, chắc chắn chậm phát triển nhưng cũng sẽ ít có sự giành giật, cướp bóc, và
nhất là chiến tranh. Một xã hội ít dùng luật pháp theo kiểu “dĩ hòa vi quý”
cũng sẽ giảm bớt được nạn kiện tụng… Nói chung, trong lối sống tiêu cực vẫn có
mặt tích cực, và ngược lại. Vì vậy người Việt Nam hiện nay tuy vẫn phải tự điều
chỉnh tính cách của mình theo hướng tích cực để phát triển kinh tế-xã hội nhưng
chỉ nên tham khảo học hỏi theo lối sống văn minh để xây dựng riêng cho đất nước
dân tộc mình cuộc sống ấm no hạnh phúc trong sự hài hòa vừa phải chứ không nên
nhất nhất đều rập khuôn chạy theo các nước tiền tiến Âu Mỹ.
- Thói hư tật
xấu của người Việt thường dân và người Việt công quyền đã thật sự tăng lên khá
nhiều trong khoảng nửa thế kỷ nay. Đó là hậu quả của môi trường văn hóa đạo đức
xuống cấp ngày càng trầm trọng trong một bối cảnh chuyển biến hết sức đặc thù
của lịch sử. Về mức độ trầm trọng, “mật độ lỗi văn hóa trong ứng xử của
người Việt hôm nay đang thành vấn nạn, bởi sự dày đặc đáng lo ngại của nó đang
được thông tin hằng ngày trên báo chí truyền thông” (Nguyễn Thị Minh Thái,
Tlđd).
Thiếu nữ Hà
Nội trên hè phố Paul Bert (Tràng Tiền) năm 1950. Ảnh: Harrison Forman.
Thiếu nữ Hà
Nội trên hè phố Paul Bert (Tràng Tiền) năm 1950. Ảnh: Harrison Forman.
Một độc giả
tham dự diễn đàn “Người Việt-Phẩm chất
và thói hư tật xấu” trên TPO thừa nhận “Chúng ta cứ ca ngợi văn hóa của
người Hà Nội nhưng thực tế văn hóa đó không còn nữa rồi.” Ý nói người Hà
Nội đã không còn thanh lịch so với trước đây khoảng 50-60 năm. Trong bài viết “Chỉ tên những tật xấu của người Việt thời
nay” (Tuanvietnam.net, Tlđd), tác giả Phạm Gia Minh, người gốc Bắc, cũng
đưa ra nhận định:
“Chắc nhiều người còn nhớ thời kỳ sau
năm 1975, ai đi Nam về cũng có chung một nhận định: trẻ con trong đó hầu như
rất ít nói bậy và viết những điều tục tĩu lên tường nơi công cộng, đi đâu về
nhà thì lễ phép cung kính chắp hai tay thưa gửi người bề trên. Đặc biệt, chẳng
may ra đường có bị đụng xe thì người ta cũng không mấy khi nổi khùng cãi vã dẫn
tới xô xát như bây giờ. Trẻ em ở vùng bà con theo Thiên Chúa giáo cũng có những
nét sinh hoạt như vậy, và nhiều bậc cha chú cho tới nay vẫn còn giữ những hoài
niệm đẹp về người Tràng An thuở trước thanh lịch, tế nhị mà rất đỗi phong lưu.”
Nữ sinh Sài
Gòn 1970-71. Nguồn: OntheNet
Nữ sinh Sài
Gòn 1970-71. Nguồn: OntheNet
Những sự thay
đổi theo hướng ác hóa (xấu đi) như vừa nêu trên cho thấy xã hội đã và đang “có
vấn đề”. Mà vấn đề chỉ là ở chỗ các loại thói hư tật xấu biểu hiện đa dạng đã
tăng mạnh trong một không gian-môi trường xã hội hoặc bối cảnh lịch sử cụ thể
nhất định nào đó. Trong trường hợp này, thói hư tật xấu có những nguồn cội phát
triển rõ ràng từ sự suy thoái chung của cả một thời kỳ lịch sử-xã hội trong đó
các yếu tố tiêu cực tác động làm tha hóa con người có thể được tìm thấy nhiều
hơn so với những thời kỳ khác trước đó…
Ở Liên Xô
trước đây, sau Cách mạng tháng 10 (1917), nhà văn Macxim Gorki đã từng nêu lên
nhận xét rằng, cuộc cách mạng đã có tác dụng tích cực lật đổ được chế độ phong
kiến Sa hoàng nhưng với sự nắm quyền và quản lý xã hội của giai cấp vô sản ít
học, nước Nga sẽ phải đối đầu với một tình trạng còn nguy hiểm hơn, đó là “lâm
nguy văn hóa”.
Bây giờ, nếu
xem xét nguyên nhân các thói hư tật xấu người Việt từ hiệu quả của một nền giáo
dục bất toàn, đầy khiếm khuyết, như ai cũng thừa nhận, thì công bằng mà nói,
nền giáo dục miền Bắc nhờ xây dựng tốt tinh thần đấu tranh giai cấp và căm thù
đế quốc nên đã huy động được sức mạnh của quần chúng tiến hành thắng lợi các
cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, nhưng với sự trả
giá rất đắt: do phải tập trung vào những mục tiêu và lý tưởng chính trị to tát,
nền giáo dục miền Bắc đã có thời gian dài khá lơ là với việc giáo dục những giá
trị văn hóa-đạo đức truyền thống của dân tộc, thậm chí còn đi tới chỗ cực đoan
chống lại các tôn giáo hoặc ý thức hệ đối lập, tiến hành phê phán nặng nề lối
sống bị cho là tàn dư của chủ nghĩa thực dân phong kiến, cực lực đề cao giai
cấp vô sản và coi sự làm giàu là có tội… Một số khẩu hiệu được giương cao như
“Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, “Phát huy mạnh mẽ
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”… xem ra có vẻ lý tưởng hấp dẫn
nhưng lại khó theo, thực tế chỉ là ảo tưởng vì bất cận nhân tình; rốt cuộc,
trong điều kiện của một nền kinh tế tập thể quan liêu bao cấp, một thứ chủ
nghĩa cá nhân cực đoan và biến tướng đã phát tác mạnh mẽ hơn bao giờ hết, từ đó
dồn dập sinh ra những thói hư tật xấu vốn chỉ tồn tại ít hơn trong những thời
kỳ lịch sử trước đó. Miền Nam trái lại, tiếp tục chịu ảnh hưởng của chế độ thực
dân phong kiến, quan điểm giáo dục ít bị chính trị hóa hơn nhưng lại thiên về
cổ điển nếu không muốn nói vẫn còn khá nặng màu sắc phong kiến của giai đoạn
những năm 40 trước Cách mạng tháng Tám, còn về các khoa học nhân văn (quốc văn,
đức dục, công dân giáo dục…) thì căn bản vẫn dạy dỗ từ khuôn phép lễ nghĩa xưa
phát huy lên, chú trọng rèn luyện nhiều thứ tình cảm đan xen nhau (cá nhân, gia
đình, tổ quốc, nhân loại), trông giống như một cây đàn muôn điệu… Đây cũng là
lý do quan trọng giải thích sự khác biệt về nếp sống / lối sống giữa người dân
Việt ở hai miền Nam,
Bắc.
Sau năm 1975,
đất nước thống nhất, đem lại niềm phấn khởi chung cho cả dân tộc từng chịu đựng
cuộc chiến tranh đau khổ kéo dài 30 năm. Một luồng di dân mới ồ ạt từ Bắc vào
Nam như là sự tiếp tục của quá trình và quy luật Nam tiến, đã tạo điều kiện cho
Nam Bắc sum họp một nhà, chung tay xây dựng lại đất nước, trong đó khách quan
có sự hòa trộn và tham khảo lẫn nhau những đức tính tốt đặc trưng vùng miền
giữa người dân hai miền Nam, Bắc, nhưng rồi những thói hư tật xấu của mỗi bên
vì thế cũng nhân cơ hội mà hòa trộn xen vào, tạo nên tình huống không mấy gì
lạc quan tốt đẹp như chúng ta đã từng chứng kiến trong suốt vài chục năm gần
đây. Trong điều kiện phát triển hòa bình với nền kinh tế từ quan liêu bao cấp
chuyển sang hướng thị trường, khía cạnh cá nhân chủ nghĩa cố hữu của con người
lâu nay bị dồn nén trong thời kỳ chiến tranh được cơ hội “bung ra”, một bộ phận
không nhỏ trong xã hội trở nên thực dụng thô thiển, nhắm mắt chạy theo tiền và quyền , triệt tiêu mọi thứ đạo đức, lý
tưởng.
Trong hệ giải
pháp được đề nghị trên kia để khắc phục thói hư tật xấu, giải pháp chỉnh đốn
nền giáo dục và củng cố luật pháp xem ra có tầm quan trọng hơn cả. Ngoài ra,
còn có vai trò tích cực của các phương tiện truyền thông qua việc góp phần phê
phán, như từ trước tới nay vẫn làm, để đẩy lùi những thói hư tật xấu ra khỏi
đời sống hiện đại của người Việt, ngành báo chí-xuất bản vì thế cũng tỏ ra hết
sức quan trọng. Nhưng trong điều kiện “chính trị thống soái”, “kinh tế quyết
định”, mọi nỗ lực cải cách trong nhiều năm nay đều chỉ được tiến hành một cách
nửa vời, không đưa đến những hiệu quả thực tế như mong muốn. Thí dụ nói về bệnh
giả dối đang rất phổ biến trong xã hội hiện nay, có ý kiến chính đáng cho rằng,
muốn chữa được, “cần phải có một hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh… đòi hỏi sự trung thực và can đảm của hệ
thống chính trị” (xem Tuổi trẻ , 10/10/2012).
Nghi án
nhận hối lộ 80 triệu Yên! Nguồn: petrotimes.vn/
Nghi án
nhận hối lộ 80 triệu Yên! Nguồn: petrotimes.vn/
Cho nên có thể
nói, cải cách chính trị cũng là tiền đề của cải cách văn hóa, giáo dục, lối
sống, cũng như của mọi công cuộc cải cách khác. Không có cái nền đó thì bao
nhiêu tiếng nói, đề án của giới nhân sĩ trí thức văn hóa giáo dục rốt cuộc cũng
chỉ trở thành những tiếng kêu gào vô vọng!
Người dân Việt
Nam lâu nay đã quen sống ì với những thói xấu/ khuyết tật của mình, không chịu
“cải hóa tự tân” vì thiếu cả lòng tin lẫn động lực thúc đẩy đổi mới, cho nên
vấn đề bức thiết cốt lõi hiện nay vẫn là cần tiến hành sớm việc cải cách thể
chế, như một cách để phà vào xã hội một luồng không khí mới tươi mát, có tác
dụng kích hoạt mạnh mẽ, tương tự như phong trào Tân văn hóa ở Trung Quốc hay
Duy tân ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX vậy.
Công cuộc cải
tạo văn hóa thông qua quá trình giáo dục công dân là một quá trình của lượng
biến thành chất, đòi hỏi thời gian lâu dài. Nhưng để có được bước đột phá, nhằm
thúc đẩy nhanh các quá trình thực hiện, điều kiện tiên quyết vẫn là phải can
đảm thừa nhận các thói xấu/ khuyết tật, và trung thực chỉ ra những sự thật nào
là nguyên nhân cơ bản làm phát sinh ra chúng, không chút úy kỵ.
Về cải cách
chính trị và kinh tế, điều kiện cơ bản để xây dựng đạo đức-văn hóa-giáo dục,
chúng ta đã bắt đầu thấy được vài tín hiệu lạc quan hơn rồi.
Đặc biệt, với
bản thông điệp tuyên bố vào đầu năm nay, người đứng đầu Chính phủ đã bàn trúng
vấn đề cơ bản nhất: phải cải cách thể chế, mở rộng mạnh mẽ dân quyền và dân
chủ.
15/5/2014
Tóm tắt
Bài viết tổng
thuật chi tiết thói hư tật xấu của người Việt được ghi nhận qua sách báo từ
trước đến nay, bao gồm cả việc phân tích nguyên nhân và đề nghị giải pháp cứu
vãn. Bên cạnh đó, tác phẩm Người Trung Quốc xấu xí của nhà văn-nhà báo người
Trung Quốc Bá Dương cũng được tóm thuật lại để giúp người đọc tham khảo, đối
chiếu với trường hợp Việt Nam. Theo tác giả, công cuộc cải tạo văn hóa đòi hỏi
thời gian rất lâu dài, nhưng để có được bước đột phá, nhằm thúc đẩy nhanh các
quá trình thực hiện, điều kiện tiên quyết vẫn là phải can đảm thừa nhận các
thói xấu/ khuyết tật của người Việt, và trung thực chỉ ra những sự thật nào là
nguyên nhân cơ bản làm phát sinh ra chúng. Trong các giải pháp nhằm khắc phục
thói hư tật xấu của người Việt, giải pháp chỉnh đốn nền giáo dục và củng cố
luật pháp là có tầm quan trọng hơn cả. Tuy nhiên, cải cách chính trị mới là
tiền đề của cải cách văn hóa, giáo dục, lối sống, cũng như mọi công cuộc cải
cách khác. Vì vậy, vấn đề bức thiết cốt lõi hiện nay vẫn là cần tiến hành sớm
việc cải cách thể chế, mở rộng dân quyền và dân chủ, như một cách để phả vào xã
hội một luồng sinh khí mới, có tác dụng kích hoạt mạnh mẽ, tương tự như phong
trào Duy tân ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét