Trí thức lỏng
Nguyễn Hiếu
Thế hệ trên dưới 60 được xem như thế hệ
bắt đầu của một nền giáo dục dưới chính thể mới. Dạo đó không ít các nhà quản
lý giáo dục hể hả tuyên bố một câu xanh rờn: chúng ta tự hào khi có thể giảng dậy tiếng Việt trên bục
trường đại học. Hậu quả của sự tự mãn quá
lớn này đã để lại hậu quả là hầu hết các trí thức của ta được đào tạo trong nước từ năm 1954 đổ lại đây đều không sử
dụng thành thạo nổi một ngoại ngữ. Điều này làm ta chạnh lòng khi nghĩ đến thế
hệ cha ông ta thời Pháp chỉ mới ở trình độ sơ học yếu lựơc - tương đương lớp 5 hiện nay -
đã có thể nói và đọc tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ. Nhưng thôi, tạm coi hiện trạng
mù ngoại ngữ này như một tồn tại lịch sử của một thời ấu trĩ trong giáo dục.
Còn hiện nay trong xu thế người ta thích tự hào, kiêu hãnh, thích lập kỉ lục ở
nhiều lĩnh vực nên Việt nam ta trong một vài năm gần đây thường oang oang những
danh từ tự phong như cường quốc thế giới
về đóng tàu khi Vinasin chưa bị đổ bể. Rồi gần đây các nhà quản lý văn nghệ
lại hào phóng hô to: Việt nam ta là
cường quốc thơ khi phong trào nhà nhà,
phố phố, ngưòi ngưòi làm thơ dẫn đến tình trạng lạm phát thơ. Trở lại lĩnh vực
giáo dục. Gần đây các nhà quản lý ngành này lại kiêu hãnh khoe Việt nam là quốc gia đứng đầu Đông nam Á về
số lưộng giáo sư, tiến sĩ. Tinh sơ sơ Việt nam ta hiện nay với gần 90 triệu
dân thì đã có tới 24000 tiến sĩ , 9000 giáo sư. Nếu chia bình quân số
ngưòi có học vị này so với thế giới thì quả là đáng tự hào. Nhưng đáng buồn
thay sau con số hoành tráng các nhà trí thức có học vị này là cả một thực tế
thê thảm về trình độ học vấn của Việt nam ta cũng như trình độ thực của các nhà
trí thức nước ta. Theo con số được công bố thì Việt nam có tới gần 400
trường đại học, cao đẳng thuộc các ngành nghề , các viện tương đương …nhưng
tệ hại thay không có trường nào lọt vào danh sách 500 trường đại học nghiêm
chỉnh và danh giá trên thế giới. Đã gọi là các nhà trí thức có học vị cỡ tiến
sĩ, giáo sư thì tiêu chuẩn đầu tiên là bài báo, công trình công trình nghiên
cứu khoa học hàng năm và qui chuẩn nhất là các nghiên cứu này được đăng kí bằng sáng chế tại Mỹ. Tình hình nay ở
Việt nam ta ra sao?. Với 33 nghìn vị trí thức có học vị giáo sư, tiến sĩ đó
nhưng giai đoạn từ 2000 đến 2006 nứơc ta vẻn vẹn có 19 bằng sáng chế. Giai đoạn
từ 2007 đến 2010 Việt nam chỉ còn 5 bằng sáng chế. Năm 2011 với xấp xỉ 90 triệu
dân, 33000 giáo sư, tiến sĩ thì số bằng sáng chế của Việt nam ta đăng kí tại Mỹ lại là còn số không tròn
trĩnh. Cũng trong năm 2011 này chưa nói đến các nứơc có trình độ kinh tế hiện
đại, trí thức tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc… Mà chỉ so sánh với các quốc gia
trong khu vực thì Đài Loan với 23 triệu dân có tới 8781 bằng sáng chế, Israel
vẻn vẹn 7,3 triệu dân đã đăng kí 1981 bằng sáng chế. Còn các nứơc vùng Đông Nam
Á thì năm 2011 cũng là năm bội thu về số lượng bằng sáng chế đăng kí tại Mỹ.
Singapo với 4,8 triệu dân có tới 647 bằng. Malaixia với 27,9 triệu dân có 161
bằng, Thái Lan với 68,1 triệu dân có 53 bằng….
Nguyên nhân của thực trạng đáng
buồn này do đâu ? Nứơc ta hiện nay ra ngõ không chỉ gặp nhà thơ mà còn gặp một
vị tiến sĩ hay giáo sư. Nhưng trong 33000
giáo sư tiến sĩ đó thì có đến hơn 70 % không dính dáng gì đến nghiên cứu khoa
học, thậm chí cả đời không viết một bài báo nào có tính khoa học. Đa số các
vị có bằng cấp này đều làm chức vụ hành chính. Ông Phạm Bích San Tổng thư kí
Các hội khoa học, kĩ thuật Việt nam đã ngao ngán nhận xét: chúng ta gần như
không có ai có nghiệp khoa học…quên mình vì khoa học được ghi nhận bằng các
giải thưởng quốc tế tầm cỡ. Hình như sau
hàng loạt nghị quyết khuyến khích hình thức về bằng cấp đã khiến cho thị trường
bằng cấp thật giả càng có đà phát triển. Người ta tìm mọi cách để có được tấm
bằng học vị làm điểm tựa tiến thân thay vì xả thân cho sự đào tạo, rèn luyện
nghiêm chỉnh. Trên danh thiếp, trong lời giới thiệu người ta xính và coi như
mốt thời thượng giới thiệu học vị đi liền với chức sắc. Những vụ phát giác ông
thứ trưởng, ông giám đốc sở, ông vụ trưởng nọ kia dùng bằng giả… đã trở thành
phổ biến ở nứơc ta. Phải chăng chính sự yếu kém của các nhà trí thức Việt nam
như vậy nên chẳng những nền giáo dục nứơc ta đang là một nền giáo dục yếu kém,
nhiều bất cập nhất mà Việt Nam cũng là một quốc gia có vị trí thấp trong thang
bậc trí tuệ toàn cầu ( hạng 76 trên 141 quốc gia được đưa vào xếp hạng).
Nghĩ lại một thời không xa trí thức thế
giới nghiêng mình khâm phục trí tuệ và
công trình của những nhà trí thức lớn của Việt nam như Giáo sư Tạ Quang Bửu,
Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng .. Chúng ta càng lo lắng khi căn bệnh trí thức
lỏng của nứơc ta vẫn ngày càng phát triển và chưa có biện pháp nào hữu hiệu
ngăn chặn.
N.H.
Nguồn: trannhuong.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét