Những vết thương không bao giờ thành sẹo
Truyện ngắn của Đỗ Trường (CHLB Đức)
T
|
ôi quen chị vào một ngày đầu năm Qúy
Tỵ, dịp Meister Nam mời đến Võ đường của anh, nhậu nhẹt và thưởng thức các
tiết mục văn nghệ ngẫu hứng, do anh chị em khu vực Leipzig thực hiện. Tôi và ca
sỹ Việt Hà đến hơi bị muộn. Bước chân vào Halle, không chỉ tôi mà cả Việt Hà
cũng phải sững người lại, bởi một người đàn bà hát, có giọng khàn lạ, đang say
sưa thả hồn trên sân khấu. Và nếu không có bàn tay cứng như sắt của Nam Võ, từ
phía sau bóp mạnh vào bả vai, có lẽ tôi còn đứng lặng, chắn giữa cửa ra vào cho
đến khi chị hát xong.
-Nghệt mặt ra
rồi phải không? Hạ, nguyên cô giáo dạy nhạc, cùng quê Bắc Ninh, tôi đã nhiều
lần kể với ông...
Vâng! Sự xáo
động ấy trong tôi, không hẳn vì đứng trước người đàn bà đằm thắm đang ở độ chín
lại. Nhưng nhạc và lời ca chị viết với giọng hát truyền cảm, như kể lại câu
chuyện của đời mình, làm tôi xúc động mạnh…
Sinh ra và lớn
lên trên quê hương Quan Họ, nhưng chị bảo, ngay từ nhỏ chỉ thích nghe chứ không
có duyên với nó. Có lẽ do chất giọng khàn đục của chị không hợp với giai điệu,
lời ca mượt mà của Quan Họ chăng? Tốt nghiệp trung học, được tuyển thẳng vào
đoàn ca múa của tỉnh, nhưng chị đã từ chối và thi vào trường sư phạm âm nhạc.
Sau mấy năm đèn sách, chị về dạy nhạc ở một trường trung học của một thị xã ven
biển. Năm sau chị lập gia đình. Chồng chị là bạn học thời sư phạm, nhưng dạy
mãi trên mạn ngược. Đứa con ra đời, chuyển chồng về gần là nhu cầu bức thiết
của chị. Nhưng gái một con… và hát hay đàn giỏi, ngon như một bữa tiệc trước con mắt những
con thú đang đói mồi, mỗi lần chị lên sở hay về trường nộp đơn từ. Sự mặc cả,
ngã giá ấy trong môi trường giáo dục, của những kẻ tưởng như là cao đạo, chị
thấy chẳng khác (kiểu) hàng tôm, hàng cá là bao nhiêu.
Màn đêm ở vùng
biển dường như cũng buông chậm hơn. Những tia nắng dìu dịu cuối ngày chợt bùng
cháy lên, đỏ như vệt máu đang nhỏ xuống biển. Chân trời thẫm một mầu xanh, cong
cong như một chiếc bát khổng lồ úp xuống mặt nước. Một vài chiếc thuyền đang
kéo buồm, chòng chành trong cái mầu xanh ấy, hướng về phía đất liền. Có những
con sóng tung lên, như vồ lấy đàn hải âu đang sải cánh về phía bên kia dải
nắng. Con phố nhỏ rộn lên tiếng ngư dân và những con thuyền vừa cập bến. Gió từ
ngoài khơi thổi mạnh và rát hơn làm chị khẽ rùng mình. Quàng vội cho con chiếc
áo khoác và chị đứng dậy, định về, nghe chị giáo vụ gọi giật lại:
-Ông Giám đốc
sở nhắn tìm em, gặp bàn về việc thuyên chuyển của chú ấy. Ổng đang đợi ở nhà
hàng Cánh Buồm, về thay quần áo, để con chị trông cho.
Lưỡng lự, định
không đi, song nghĩ đến công việc của chồng, chị đành phải tới.
Trời chưa tối
hẳn, nhà hàng còn vắng khách. Mấy em chân dài ngồi dàn hàng ngang, phì phèo đốt
thuốc trước cửa ra vào.
Chưa kịp hỏi, bà chủ đã đon đả kéo tay chị, miệng xởi lởi, đồng chí Giám đốc sở
đang chờ ở phòng riêng, tầng trên. Thật ra chị mới gặp đồng chí Đốc vài ba lần,
khi thì chỉnh huấn, lúc văn nghệ của ngành. Lần gần đây nhất, chị mang đơn xin
thuyên chuyển của chồng đề nghị đồng chí Đốc giúp đỡ. Lần nào đồng chí Đốc cũng
bắt tay thật chặt với cái cười tươi rói. Lần này đồng chí Đốc còn ra tận hành
lang đón chị. Chị vừa ngồi xuống, đồng chí Đốc đã kêu người mang đồ ăn, đồ uống
lên. Như một chiếc lò so, chị bật đứng dậy, miệng lắp bắp, đồng chí Đốc cắt
ngang:
-Em cứ ngồi
xuống, ăn uống một chút đã, công việc bàn sau.
Chị còn đang
bối rối, thức ăn, bia rượu đã mang lên đầy bàn. Rất điệu nghệ, đồng chí Đốc với
tay mở chai Sâm banh. Tiếng nút nổ, tiếng cười của đồng chí Đốc hòa vào nhau,
nghe giòn tan. Khấp khới cả hai con mắt, đồng chí Đốc đẩy ly rượu về phía chị.
Sợ đồng chí Đốc phật ý, chị cầm ly rượu đưa vội lên môi, rồi từ từ đặt xuống
bàn. Đồng chí Đốc ân cần gắp đầy thức ăn vào bát, đưa và giục chị ăn. Hơi thu
người lại, chị sợ, một con tính thoáng chạy trong đầu, bữa ăn sang trọng này có
lẽ bằng cả một năm lương của chị chứ chẳng chơi. Đồng chí Đốc ép mãi, chị chấm
mút cho lấy lệ… Ừng ực một hồi, đồng chí Đốc đã giải quyết gần xong đám rượu
bia ở trên bàn. Mặt đồng chí đã phừng lên, hai con mắt ngầu ngầu, giựt giựt.
Lúc này, đồng chí Đốc trở về con người thật của mình:
-Công việc của
chồng em, anh đã thu xếp xong. Tiền anh không cần, nhưng hôm nay anh có chuyện
buồn. Nếu như đêm nay, em ở lại đây với anh. Sáng thứ hai, em qua phòng anh
nhận quyết định tiếp nhận, sau đó anh sẽ bố trí cho chồng em về một trường nào
đó, quanh thị xã này thôi.
Nghe những lời
này, từ miệng của kẻ chuyên giảng đạo đức cho các lớp tập huấn giáo viên toàn
tỉnh, chị cứ ngỡ mình đang xem màn kịch hề chèo trên sân khấu vậy. Lợm giọng
quá, nhưng chị cố bóp chặt cổ họng mình:
-Muộn rồi, xin
phép Giám đốc, em phải về, vì còn cháu nhỏ ở nhà.
-Em nghĩ kỹ
chưa, đơn xin việc ở phòng anh xếp còn cao hơn núi đấy!
Chị im lặng,
định đứng dậy. Đồng chí Đốc bảo, khoan đã, tý nữa tiện xe, anh đưa về. Rồi đồng
chí Đốc gọi bà chủ, cho hai ly nước tráng miệng và tính tiền. Chỉ một loáng
thôi, đã thấy tự tay bà chủ bê hai ly nước cam vắt vàng óng lên. Một hơi, đồng
chí Đốc uống cạn và giục chị uống cho mát rồi về. Cầm ly nước, chị uống một
ngụm cho phải phép và đứng dậy. Chưa ra đến cửa thấy chóng mặt, quay cuồng, vịn
chặt vào cánh cửa, nhưng chị không thể đứng lên được nữa….
Khi chị tỉnh
dậy, trời đã gần sáng, lờ mờ nhận ra như đang nằm trên chiếc sofa đặt giữa
phòng. Một lúc sau, chị mới cựa quậy được và có cảm giác thật, thấy người nhớp
nháp, nhầy nhụa, áo mặc ngược, quần cài lộn cúc. Lắng lại một giây, chị chợt
hiểu cái gì đã sảy ra. Chị vùng dậy, lao ra, giật mạnh cửa, cắm đầu chạy… Trước
mặt đã là biển, chị vẫn từ từ đi ra hướng, nơi có con thuyền nhỏ bé dập dờn,
trong cái mênh mông sóng nước, của những người thợ câu đêm. Trăng cuối tháng
thoắt ẩn, thoắt hiện, bàng bạc như như kẻ vô tình. Sóng đã đập vào mặt, có
những lúc nhấc bổng lên rồi lại dìm chị xuống. Ngửa mặt lên nhìn vòm trời lần
cuối, chị thấy ngôi Sao Biển đang nghiêng về bờ cát, cháy rực lên. Và trong gió
hình như có tiếng trẻ thơ vọng lại, làm chị giật mình. Chị vội quay người lại,
có con sóng bốc chị, ném thẳng vào bờ.
Phiên tòa xử
chị kiện đồng chí tỉnh ủy viên, Giám đốc sở giáo dục và đào tạo hiếp dâm, diễn
ra chóng vánh. Nhân chứng từ chị giáo vụ cho đến bà chủ nhà hàng khẳng định,
chị là người chủ động mời đồng chí Đốc đến. Khi chị có thái độ không đúng mực,
đồng chí Đốc giải thích phân tích tường tận và ngay sau đó đồng chí đã ra về.
Biên bản khám nghiệm của bác sỹ, như đinh đóng cột, thể trạng chị lúc đó hoàn
toàn bình thường, không bị tổn thương. Vậy là từ nguyên cáo, chị trở thành bị
cáo, can tội dùng tiền, tình mua chuộc cán bộ lãnh đạo, trục lợi cá nhân. Mức
án giành cho kẻ vu cáo, nói xấu cán bộ lãnh đạo bét nhất cũng phải sáu tháng
tù. Nhưng xét thấy hoàn cảnh chị, con còn nhỏ và người bị hại(đồng chí Đốc) có
làm đơn xin tòa giảm án, nên cho hưởng án treo. Cũng trong ngày, chị nhận được
quyết định đuổi việc vì không còn đủ đạo đức, nhân cách đứng trên bục giảng.
Ngày hôm sau,
báo chí đồng loạt đăng tin ca ngợi đồng chí Đốc, một con người liêm chính, có
một tấm lòng nhân đạo, vị tha. Dư luận từ trong đến ngoài, từ cán bộ đảng viên
cấp cao đến các em chân dài, đạo chích, đâm thuê chém mướn đều (bái phục) tôn
đồng chí Đốc là sư phụ của sư phụ. Chiếc ghế phó chủ tịch tỉnh, phụ trách mảng
văn hóa, giáo dục, ai dám tranh với đồng chí Đốc nào?
Mẹ chị lành
như đất, cả đời chỉ quanh quẩn với ruộng vườn, ít khi ra khỏi làng. Ấy vậy không
hiểu mấy ngày nay bà lại bất thường giở chứng, sáng sáng cứ nhìn lên bàn thờ,
nơi có cái bằng Tổ Quốc ghi công, lẩm bẩm:
-Không hiểu,
cái thằng Mỹ nó ở tận đâu tận đâu, đến đây làm gì. Nghe các bố hô hào, bao
xương máu đổ ra đánh cho nó phải cút. Đến bây giờ, lại mang kiệu rước nó vào.
Giời đất ơi! Vậy thì chồng con tôi chết oan chết uổng cả rồi…
Đất làng chị
đang trồng lúa, trồng màu bị chính quyền thu hồi, giao cho các ông chủ mới làm
khu công nghiệp đợt đầu tiên, sau khi ông Mỹ hô bỏ cấm vận, nên đền bù rẻ như
bèo. Nông dân vật vờ không việc làm, trai gái trong làng trôi dạt khắp nơi. Mẹ
chị cả ngày đi ra đi vào đâm cáu gắt, ra ngõ chửi đổng. Hôm sau bà đi ăn giỗ
làng bên về, dù đã khuya nhưng vẫn kéo chị vào buồng thì thầm:
- Hạnh con cậu
Ba vừa tốt nghiệp cấp ba, sắp sang Đức làm ăn, qua ngả Nga và BaLan. Cậu Ba
bảo, nếu con muốn, đi cùng cho có chị có em. Mình nộp tiền, giấy tờ họ lo toàn
bộ. Mẹ nghĩ kỹ rồi, dù con không tù tội, bây giờ cũng khó xin việc, huống hồ lý
lịch của con thế này không có nơi nào nhận đâu. Tiền con không phải lo. Tiền
bán đất với sổ tiết kiệm tiền tử tuất (liệt sỹ) của bố và anh con là đủ. Còn
con bé để ở nhà mẹ lo. Sau này ổn định sẽ đón chồng, con sang. Nếu đi, con phải
thuyết phục chồng con mà thôi. Con hãy nghĩ kỹ, với con bây giờ, nơi này chỉ để
thương để nhớ, chứ không còn là nơi để sống…
Chị cũng không
ngờ, mẹ có được đi học ngày nào đâu, nhưng suy nghĩ, hiểu biết, tính toán đâu
ra đấy như vậy.
Chị đến Nga
vào một chiều mùa hè. Chiếc xe bus cà tàng đã chờ, nhóm hơn chục người của chị
ở cửa sân bay. Qua ô cửa sổ nhỏ, chị thấy xe đang lướt nhanh qua những cánh
đồng lúa mì mênh mông đang vào mùa gặt. Những cánh rừng bạch
dương xanh ngát hai bên như miên man ôm chặt lấy con đường, có những
lúc mở ra trảng đồng hoang tím đầy hoa dại. Con đường bồng
bềnh, vồng lên chùng xuống, chui qua khoảng rừng thông tối sẫm tưởng như nuốt
chửng cả đoàn xe, đang nối đuôi nhau chạy vào thành phố. Ngày còn ngồi trên
nghế nhà trường, chị đã được đọc, học những tác phẩm đồ sộ, những bài thơ lãng mạn,
với những cuộc tình say đắm lòng người của các đại thi hào nước Nga. Nên ai mà
chẳng ước mơ, được một lần đặt chân lên xứ sở Bạch Dương diệu kỳ này. Hôm nay
chị đã đến được với cụ Tolstoi, cụ Pushkin, Gorky...nhưng điều kỳ diệu ấy
đã phải đóng lại trong tâm khảm của kẻ trên đường trốn chạy, với một tương lai
vô định, mịt mù.
Xe quẹo vào cổng khu nhà tập thể cũ của
một nhà máy, dường như đã bỏ hoang nhiều năm. Thấy cổng còn khóa, lái xe người
Nga to như con gấu làu bàu chửi. Lúc sau có người Việt chân tập tễnh, đủng đỉnh
đi ra mở và khóa cổng. Xe lùi vào căn hộ trong cùng, cửa có thanh sắt chắn
ngang, to như cổ tay. Sau khi thu xong hộ chiếu, người ta mở đít xe, lùa cả
vào, mọi người nháo nhác định hỏi. Người đàn ông Việt rất nhã nhặn khi còn ở
sân bay, trừng mắt:
-Im lặng! Ở
lại đây chờ, loạng quạng bọn Cớm đến xúc cả đi đấy. Sẽ có người mang đồ ăn đến.
Bọn chị đang
định thần, thấy lố nhố một đám người đi ra. Họ là nhóm người đến trước mấy
ngày, chờ đi tiếp. Trong ánh sáng mờ mờ của cây đèn cầy, chị thấy căn hộ khá
rộng, có nhiều phòng, nhưng cửa sổ đã bịt và sơn đen, nên tối tăm và bốc mùi
hôi thối rất khó chịu. Một chị nói tiếng Nghệ An, kéo tay chị và Hạnh vào phòng
bảo, trong còn một cái đệm vào nằm chung cho đỡ sợ. Trong phòng còn mấy cô gái
trẻ mặt mũi phờ phạc, vô hồn, hai mắt sưng đỏ. Chị Nghệ An nghiến răng, chỉ tay
vào Hạnh nói:
-Tổ cha tụi
nó, chưa đóng tiền nói ngon, nói ngọt. Sang đến đây, bị tụi nó nhốt vô cái nhà
không điện, không nước. Đàn bà con gái, thích lúc nào chúng nó lôi ra hãm hiếp.
Đồ bất nhân thất đức, có lúc chúng nó bị quả báo thôi. Những người mới, chuẩn
bị tinh thần, tối nay thế nào tụi nó cũng đến lôi đi đấy, nhất là con bé này.
Hạnh sợ quá
gục vào vai chị sụt sịt, biết thế này, các vàng em cũng chẳng đi. Chị cũng đang
run lên, nhưng cố nói cứng an ủi Hạnh, phóng lao theo lao em ạ, đến đâu hay đến
đó. Chị Nghệ An đưa cho hai người mấy ca nước và bảo, lấy khăn lau mặt, lau
người cho tỉnh táo. Nước bẩn đổ cả vào sô, dùng khi đi nhà cầu. Cả chục con
người, mấy ngày nay, nó mới chở cho vài, ba phuy nước.
Chiều tối, có
hai người đàn bà, mặt mũi phấn son nhòe nhoẹt mở cửa, vứt toẹt thùng caton đựng
bánh mì, thịt hộp và mấy bịch nước dưới sàn nhà, ngó nghiêng một lúc rồi bỏ đi.
Dù rất đói, nhưng chẳng ai muốn lấy đồ ăn. Mãi sau có mấy anh lớn tuổi ở phòng
bên, bê thùng đi phân phát cho từng người:
-Cố gắng ăn có
sức khỏe để đi tiếp, những người ở nhà đang hy vọng vào cả chúng ta đấy!
Đêm đã muộn,
mọi người vẫn không ngủ được. Những câu chuyện bán đất bán nhà, vay nợ cầm cố,
lấy tiền để đặt cược cho chuyến đi này cứ dài mãi không dứt…Có tiếng cửa mở,
mấy cô gái trẻ nằm bên co rúm người lại. Hạnh ôm chặt, rúc đầu vào ngực chị.
Ánh đèn phin loang loáng rồi dừng lại phòng chị. Mờ mờ thấy ba, bốn thằng mặt
mày bặm trợn, không biết say rượu hay say thuốc, đi cũng giật, đứng cũng giựt
giựt như lên đồng, giọng nhừa nhựa:
-Mấy đứa vừa
đến chiều nay đâu? Theo chúng tao lên phòng Chef làm việc.
Sự im lặng đến
nghet thở. Chúng sục từng phòng, rọi đèn vào mặt từng người. Lôi thốc chị và
Hạnh ra, miệng chúng lải nhải, hai con này còn trẻ, chuyến này toàn những con
già. Chị và Hạnh ghì người lại, ôm chặt nhau:
-Giấy tờ chúng
tôi đầy đủ, tiền bạc đã đưa, giờ này không đi đâu hết.
Hai thằng đi
đầu, thằng cầm tay chị, thằng cầm tay Hạnh giật mạnh, lôi sềnh sệch đi. Hai
thằng đi sau, dựng hai cô gái nhóm đến trước dậy, bắt đi cùng. Tiếng các cô
khóc ré lên khản như tiếng mèo đêm. Hạnh khóc không thành tiếng, bố mẹ ơi! Cứu
con. Biết không chống được bọn này, chị van xin chúng đừng mang Hạnh đi, vì nó
còn trẻ con. Chị Nghệ An chạy ra bảo, đúng rồi, chúng mày tha cho con bé này,
còn hai cô gái kia bị hành cả đêm hôm qua, bây giờ còn ra hồn người nữa đâu.
Chị Nghệ An
chưa nói hết, bị một thằng giơ chân đạp thẳng vào người:
-Con già này
còn nói nữa, bố lôi ra cho chó chơi bây giờ.
Mấy anh người
Hải Phòng, đi cùng đoàn chị, ra cản lại:
-Các ông là
người dẫn đường hay là kẻ cướp, hiếp dâm đây?
Bốn thằng cùng
rút súng, dí vào đầu các anh:
-Đ.m! Chúng
mày muốn đi tiếp sang Ba Lan sang Đức hay muốn đi xuống âm phủ.
Chúng lôi bốn
người vào căn phòng bảo vệ của nhà máy cũ. Nơi đây có lẽ là nơi ăn ngủ, sinh
hoạt hàng ngày của bọn đầu trâu mặt ngựa, được thuê trông coi ở trạm trung
chuyển này. Quần áo, bát đĩa, chai lọ bẩn thỉu vương vãi, lăn lóc trên tấm thảm
cháy lem nhem. Cánh cửa ra vào được làm từ mấy
miếng ván ghép đậy lại. Đè nghiến cả bốn người xuống thảm, như những con thú
hoang, chúng lao vào …Chị không còn cảm giác, Hạnh giãy dụa hét lên gọi mẹ, hai
cô gái bên cạnh cắn chặt môi, mắt mở trừng trừng…..
Chị phải dỗ
mãi Hạnh mới chịu ăn, nhưng tinh thần rất hoảng loạn. Một tuần, rồi hai tuần
phải sống trong hoàn cảnh như vậy, trước mặt Hạnh, chị phải cố giấu đi những
giọt nước mắt của mình.
Gần sáng, có
tiếng mở cửa, rồi hình như có tiếng quen quen của người đàn ông hôm đón ở sân
bay. Mọi người bật dậy, ùa cả ra:
-Tất cả chuẩn
bị và vệ sinh cá nhân, hôm nay sẽ vượt sang Belarus đến biên giới Ba Lan. Một
tiếng nữa xe đến đón.
Không biết sẽ
đi đến đâu, và như thế nào, nhưng thoát khỏi cái địa ngục trần gian này chị
thấy như có thêm sức mạnh. Hơn hai mươi con người được nhét lên chiếc xe đông
lạnh kín, chỉ có mấy lỗ thông hơi nhỏ được khoét ở dưới sàn. Lúc lên xe, người
dẫn đường đưa cho mấy cái sô vệ sinh và dặn, không được để người ốm yếu, ngồi
gần lỗ thông hơi, ngủ quên đè kín lỗ chết cả lũ.
Có lẽ ngồi
trong bóng tối và chìm trong sự sợ hãi, nên không một ai còn cảm giác ngột
ngạt, hôi thối, hay những nhu cầu sinh hóa hàng ngày của con người nữa. Gật gù
nửa tỉnh nửa mê, chẳng biết ngày hay đêm, đường đi xa hay gần, khi chị tỉnh dậy
đã thấy mình nằm cạnh Hạnh và mấy người nữa. Chị đang ngơ ngác, có mấy anh vào
bảo, đã tới biên giới Ba Lan, bọn em bị ngất, nên khiêng vào đây. Mọi người
ngồi cả ngoài kia, gần đây có con suối nhỏ nên thay nhau đi tắm rửa.
Trạm trung
chuyển này là ngôi nhà sát biên, cách xa khu dân cư và hình như cảnh sát biên
phòng cũng đã được mua bán, nên sinh hoạt cũng được thoải mái hơn. Ở đây, chỉ
có người Belarus bảo vệ và mấy người Việt hàng ngày mang đồ ăn đến, đôi khi có
cả cơm nên sức khỏe, tinh thần mọi người bình phục khá nhanh.
Tối thứ năm,
mọi người bất ngờ được báo, phải vượt biên giới sang Ba Lan ngay trong đêm. Dẫn
đường là hai người Belarus đối xử với mọi người khá tốt. Đoàn người phải vượt
bộ qua một cánh rừng già, lá mục có chỗ bị thụt chân đến đầu gối. Mấy giờ sau,
tất cả cũng mò mẫm được ra bờ suối. Nếu như được, người nào cũng muốn nhảy
xuống tắm cho đỡ rát và ngứa vì muỗi. Bên kia đã là Ba Lan. Con suối nước chảy
không xiết, nhưng khá sâu và rộng, người dẫn đường phải bơm thuyền cao su, lộn
đi lộn lại chở mấy chuyến. Người dẫn đường ra hiệu, nghỉ ngơi lấy sức, rồi tất
cả phải chạy thật nhanh qua cánh đồng lúa mì, có một chiếc xe bus của công ty
du lịch chờ ở đó.
Chị cắm đầu
chạy, những cây lúa mì bị dạt ra bởi những người chạy trước bật lại, đập vào
mặt như roi quất. Có những cây bị nằm rạp xuống cuốn vào chân giật chị ngã sấp
mặt xuống ruộng. Chưa có cảm giác đau, chị vùng dậy chạy tiếp …
Chị có lẽ là
người cuối cùng đến đích. Đầu gối chùng xuống, tim đập thình thình, mắt hoa
lên, chị không thể bước lên được cửa xe. Một anh cầm tay chị kéo giật lên. Khi
nhìn thấy Hạnh đang ngồi thở hổn hển, chị mới gục xuống.
Xe tới chợ
(người Việt)sân vận động, trời đã gần sáng. Người, hàng hóa ra vào tấp nập.
Phần đông đã có người nhà đón, số còn lại sang Đức, phải chờ. Chị và Hạnh được người ta
cho ở chung với mấy người đang phụ bán hàng ngoài chợ. Cùng cảnh, nên họ cảm
thông, thường nấu nướng cùng nhau ăn uống hay dẫn chị và Hạnh ra chợ cho đỡ
buồn, đỡ nhớ nhà. Đến bây giờ nghĩ lai, chị bảo, nếu như không có hai tuần ở
lại Warszawa và được sự chăm sóc, an ủi của các chị bán hàng ngoài chợ, chắc
chắn chị không đủ sức lực và tinh thần vượt biên vào Đức, khổ và gian nan gấp
nhiều lần so với từ Belarus vào Ba Lan.
Xuống nhà ga
Halbestadt, chị và Hạnh đang lò dò, ngó nghiêng, có người Việt nào để hỏi đường
vào trại tị nạn, không hiểu mấy người cảnh sát từ đâu ra, đã đứng ngay trước
mặt. Khi cảnh sát kiểm tra, chị và Hạnh chỉ có tờ giấy duy nhất ghi địa chỉ của
trại tỵ nạn trong người. Người cảnh sát gọi điện cho ai đó một lúc, rồi ra hiệu
cho chị và Hạnh lên xe. Tưởng họ chở vào tù, rồi trả về Việt Nam, Hạnh sợ quá
khóc ré lên. Người cảnh sát nói một tràng, rồi cười vỗ nhẹ vào vai Hạnh…
Sau khi cảnh
sát bàn giao cho trại tỵ nạn, chị và Hạnh được làm giấy tờ và nhận phòng. Sáng
hôm sau, người phiên dịch đưa chị và Hạnh đi phỏng vấn và kiểm tra sức khỏe,
sau đó nhận quần áo, và tiền tiêu vặt. Chị được cấp giấy phép tự do đi lại tất
cả các thành phố trong bang. Bước đầu khá thuận lợi, làm cho chị giảm đi nỗi
đau vừa trải qua, nhưng nỗi nhớ chồng con và gia đình lại quằn quại thêm, làm
cho chị nhiều đêm mất ngủ. Tháng sau chị và Hạnh cùng được chuyển về thành phố
Halle, nơi định cư mới. Nơi này là khu nhà lắp ghép, trước khi chị đến đã có
nhiều tị nạn người Việt và các nước khác đang ở đó. Được mấy hôm, không hiểu
sao chị và Hạnh lại gọi đi khám sức khỏe một lần nữa.
Trời hình như
chưa vào thu. Nhưng có một vài cơn gió nhẹ, cuốn theo những chiếc lá còn xanh,
bay đi. Làm cho lòng người day dứt, bồi hồi tựa như vừa đánh rơi một cái gì đó,
mà không thể gọi thành tên. Khi ánh nắng vẫn còn đậu trên những giọt sương mai
trong từng kẽ lá, mọi người vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Người phiên dịch, đi cùng
hai nhân viên y tế gõ cửa vào phòng chị. Người phiên dịch bảo, Hạnh bị mắc
bệnh, cần phải chuyển ngay về bệnh viện Magdeburg điều trị, xe đang chờ ở
ngoài. Chị có linh cảm chẳng lành, nhưng Hạnh lại hồn nhiên dọn quần áo, như
chuyển trại vậy. Chiều chị phiên dịch quay lại, chị gặng hỏi, chị phiên dịch
bảo:
-Nếu em không
phải là người nhà duy nhất của Hạnh, thì chị không dám nói. Nhưng em phải thật
bình tĩnh. Hạnh bị nhiễm HIV, từ vài ba tháng trước đây, trùng với thời gian
các em bị hãm hiếp ở Nga, như các em đã khai trong hồ sơ. Rất may cho em…
Chị phiên dịch
cứ nói, nhưng chị chẳng nghe được gì nữa, hai chân từ từ khụy xuống…
Theo đề nghị
của Hạnh, hôm sau xe của Caritas đón chị đến bệnh viện. Mới có mấy ngày, trông
Hạnh sọm hẳn đi, hai mắt đỏ hoe, sâu hoắm. Chị ôm chầm lấy Hạnh qua lớp áo
choàng của bệnh viện. Hạnh không còn một chút sinh lực nào, người rũ xuống. Rất
lâu, nhưng không ai nói được câu nào, chỉ có nước mắt và nước mắt. Lúc chị về,
Hạnh chỉ nói, em rất nhớ nhà, khi nào em chết, chị cố gắng mang em về quê cho
gần bố mẹ em, chị nhé. Chị ngoái lại, đừng có nói gở, yên tâm chữa bệnh, chị sẽ
đến thăm em thường xuyên.
Không ngờ, đó
là lần cuối cùng chị gặp Hạnh. Có lẽ không có gì sợ bằng sự chờ đợi cái chết.
Hạnh lại còn quá trẻ, không
thể chịu nổi cú sốc đến quá nhanh, quá bất ngờ như vậy. Hạnh tự giải thoát bằng
cách lao mình từ tầng tư xuống
đất vào lúc trời gần sáng, ngay trong khuôn viên của bệnh viện. Vậy là tấm hình
Hạnh chụp, chưa kịp làm thẻ tạm trú, nay đã thành ảnh thờ. Sau cái chết của
Hạnh, chị phải vào bệnh viện nằm mấy tuần. Tưởng không đứng dậy nổi, nhưng nghĩ
đến sự hy vọng của gia đình với chị, với Hạnh, chị lại gượng dậy.
Chưa được phép
làm việc, chị đi làm chui làm lậu. Bất kể công việc gì, ở đâu, cứ có người
thuê, chị cũng múc. Công việc phụ dọn, bán hàng vải ngoài chợ giời Leipzig, chị
trụ được lâu nhất. Làm được hơn năm, ki cóp được khoản tiền, chị lại phải lo
mua đểu, lấy một ông chồng người Đức, để hợp thức hóa giấy tờ ở lại, khi bị bác
đơn tị nạn, nhận giấy trục xuất về nước. Việc thuyết phục ông chồng thật ở nhà,
ly hôn đểu, quả thật khó ngoài sức tưởng tượng của chị. Nhùng nhằng mấy tháng,
ông chồng thật mới chịu hiểu, thông cảm và gửi giấy tờ sang.
Số chị quả
thật đắng cay, vất vả. Ông chồng đểu, bình thường lành như đất, khi có chút bia
rượu, dù đã nhận tiền của chị, nhưng cứ đòi làm chồng thật. Nhè nửa đêm, hắn
khật khừ bấm chuông, đập cửa. Cả ngày đứng rét ngoài trời âm cả chục độ, về nhà
chui vào chăn, vẫn thấy rét từ trong rét ra, chị mệt quá, đuổi. Hắn lỳ ra, xông
thẳng vào bế thốc chị lên. Chị giãy giụa, chống cự, hắn như con trâu húc mả…Lần
đó, hàng xóm phải gọi xe cấp cứu chở chị đến bệnh viện. Trải qua những lần như
vậy, bác sỹ bảo, khả năng sinh đẻ của chị không còn nữa. Uất ức là thế, đau là
thế, nhiều lần bệnh viện gọi điện cho cảnh sát, nhưng cái thẻ cư trú còn lơ
lửng trên đầu, nên chị phải im lặng…..
Đêm muộn, câu
chuyện của chị, người đàn bà hát, dường như chưa đến đoạn kết, nhưng bị cắt
ngang, bởi con gái chị đến. Nó bảo, vừa từ Berlin về thẳng đây(Halle của bác
Nam võ) hát với mẹ cho vui. Chị cười, may cũng còn có nó, cháu đang học năm thứ
ba, trường TU Berlin. Chị hẹn, hôm nào rảnh, vào chợ, chơi.
Gian hàng của
chị rộng rãi, nằm trên vị trí khá thuận tiện của khu chợ người Việt ở Leipzig.
Sau tết, chợ vắng khách, chị và mấy người giúp việc đang kiểm tra, dọn dẹp lại
hàng hóa, chuẩn bị cho vụ hè. Tôi hỏi, ông xã đâu mà chị phải khiêng vác thế
này. Không trả lời ngay, chị lấy nước, kéo ghế mời tôi.
Sau khi nhận
được thẻ cư trú vô thời hạn, chị tìm mọi cách đưa con và ông chồng đang vật vờ
trên mạn ngược, sang đoàn tụ. Tạm yên tâm chuyện gia đình, chị dồn và vay tiền,
quyết tâm thuê lại gian hàng trong chợ. Hơn chục năm vật lộn với nó, chị mới có
cơ ngơi và thành quả như ngày hôm nay. Chị nói về chồng với nét mặt chẳng vui,
cũng chẳng ra buồn. Ngày mới sang còn đói rách thì chẳng sao, bây giờ có tiền,
hắn đâm đái chứng, đái tật, suốt ngày ca cẩm không có con trai để nối dõi. Mấy
tháng nay, hắn về Việt Nam, kiếm thằng con trai đấy. Với chị bây giờ, mọi cái
đều đơn giản, không còn quan trọng nữa…
Lúc tôi đứng
dậy ra về, chị bảo, kể câu chuyện trên với tôi như một sự giãi bày, mong có sự
đồng cảm. Nếu sắp tới, chị có ghi lại một chút quá khứ ấy bằng nhạc, đề nghị
tôi viết cho phần lời.
Vâng! Nhất
định sẽ giúp trong khả năng của mình, nắm chặt tay chị, tôi nói như vậy.
Leipzig ngày
17-3-2013
Đ.Tr.
Nguồn: Tác giả gửi trực tiếp cho
bản trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét