HỮU THỈNH
Cánh đồng
thơ mất trắng
Đỗ Hoàng
Trong thế hệ các nhà thơ chống Mỹ thuộc
phía chính thống – những cổ động viên cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn, nồi da
xáo thịt giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam do các thế lực nước lớn ngoại bang giật
dây, điều khiển và chi phối nhằm tiêu diệt đến người Việt cuối cùng (những ai
vào sống trong miền Nam giải phóng mới
thấm thía nỗi đau này) thì nhà thơ Hữu Thỉnh xuất hiện quá muộn và không nổi
tiếng vì tài thơ của ông quá dưới mức trung bình trong dòng thơ cổ động, tụng
ca chế độ. Mãi đến cuối năm 1975, ông mới ra tập thơ “Âm vang chiến hào” – in
chung cùng Lâm Huy Nhuận. Lâm Huy Nhuận đã nổi tiếng với chùm thơ đoạt giải nhì
cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1972 – 1973 với tinh thần thơ khẩu hiệu “Mẹ tập
con đi, Đảng dạy con đi – (Lâm Huy Nhuận)”
Nhà thơ Phạm Tiến Duật viết bài in trên báo
Tiền Phong rất đúng là: Khi ông đã trở thành nhà thơ rất nổi tiếng thì Hữu
Thỉnh chưa thành tác giả.
Xuất hiện quá muộn, lại không có gì nổi trội
nên từ thập kỷ 80 trở về trước ngay trong giới văn chương không mấy ai biết Hữu
Thỉnh.
Hữu Thỉnh nổi lên nhờ được giải thưởng thơ
Hội Nhà văn năm 1980 với tập trường ca “Đường tới thành phố”. Sau đó ông tham
gia lãnh đạo văn nghệ. Con đường làm quan văn nghệ tăng tiến, tên tuổi ông nổi
như cồn.
Phương Đông hay phương Tây gì cũng vậy,
trong các thể chế độc tài toàn trị riêng về thơ ca thì thơ hay tỷ lệ thuận với
chức vụ quan lại. Chức quan càng to thì thơ hay càng hay lên(!)
Một lần nhà
văn Vũ Thư Hiên hỏi nhà thơ Chế Lan Viên:
- Thơ và từ
Mao Trạch Đông có hay không anh?
Chế cười nhạt:
- Nó đã làm
lên đến Hoàng Đế Trung Hoa rồi thì cục cứt của nó cũng hay!
Với Hữu Thỉnh sau khi có chút chức cai văn
nghệ thì người khen thơ ông trùng trùng điệp điệp. Có nhiều bài rất dở người ta
cũng bỏ trí tuệ, sức lực ra khen. Có người như Trường Lưu bỏ miếng mồi chính
trị béo bở để chuyên tâm khen thơ Hữu Thỉnh. Cứ một vài số Tạp chí Nhà văn ông
ta lại gửi bài bốc thơm thơ Hữu Thỉnh. Vợ ông ta đến nhận nhuận bút quen nhẵn
mặt anh em ở cơ quan!
Duy nhất có hai nhà thơ là Trần Mạnh Hảo,
Phạm Ngọc Thái đã phản biện chê thơ Hữu Thỉnh.
Ý kiến của hai nhà thơ trên là rất xác
đáng, nhưng bị số đông la ó rằng: “Không được động đến Hữu Thỉnh, cũng như
không được động đến Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm trước đây. Thơ Hữu Thỉnh là bảng
vàng bia đá rồi. Đánh con chuột là vỡ lọ bình đấy! Có người còn cho thơ Hữu
Thỉnh hay đến mức Âm Phủ phải dịch (!)
Thực ra thơ Hữu Thỉnh đốt làm tiền âm phủ
chưa chắc Âm Phủ đã nhận!
Để có cái nhìn, đánh giá phản biện khách quan
về thơ Hữu Thỉnh, tôi xin góp một ý kiến phản biện để mọi người hiểu đúng thơ
Hữu Thỉnh, chứ cứ nhìn một rừng người vỗ tay mà không biết rằng đó một rừng a
tu la (Chưa thành người theo Phật) thì rất dễ nhầm vàng thau lẫn lộn
Trước hết, Hữu Thỉnh không tuộc loại thi nhân
“vi thi nhi sinh” (sinh ra vì thơ) và cũng không phải “vi thi chi hoạt” (sống
chết vì thơ).mà là “vi thi lập thân” (lấy thơ lập thân). Điều này ông đã tuyên
ngôn tập thơ rất thương mại của ông – Thương lượng thời gian. Ông không
thèm mặc cả chợ búa với con gà con con vịt, ông mặc cả với thời gian đặng cho
ông làm quan suốt đời, quan gì cũng được
và đi bằng đít suốt đời! Ông dùng trí khôn của ông đem ra mài rũa để để tỉnh
thức làm cho cây cối bật khóc!
Buổi sáng lo
kiếm sống
Buổi chiều
tìm công danh
Buổi tối
đem trí khôn ra mài rũa
Tỉnh thức
Những hàng
cây bật khóc
(Thương lượng
thời gian)
10-2005
Nhập vào cái
chợ làng văn, Hữu Thỉnh lấy văn chương tiến thân, mặc dầu ông thừa biết “Lập
thân tối hạ thị văn chương” (Tiến thân bằng văn chương là thấp nhất). Tiến thân
bằng văn chương thì phải viết, phải chiều theo ý của kẻ cai trị, kẻ thống trị.
Anh không phải viết theo mệnh của trái tim mà anh phải viết theo mệnh lệnh của
vua quan. Viết như thế anh mới kiếm được chức tước, kiếm được bỗng lộc!
Trong chính thể minh quân, vua sáng tôi hiền,
khi mục đích nhu cầu của người thống trị hòa cùng lòng dân thì thơ anh được dân
tộc tôn kính, khi quyền lợi của kẻ thống trị đi ngược lại quyền lợi nhân dân
thì thơ anh là loại tụng ca không ai nhớ!
Vì thế xuyên suốt đời thơ Hữu Thỉnh là hô
khẩu hiệu suông, sáo rỗng, đại ngôn, triết lý xơ cứng, cũ rích, lý luận vặt… ở
một tầm rất thấp!
Trời ơi!
Nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một góc
sim thôi, dù chỉ một gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ
ra sao? Tổ quốc?Thơ ta ơi! Hãy ghì lấy gốc sim.
(Đường tới
thành phố năm 1977 – 1978)
Càng viết
càng thấy mình yếu đuối
Đường nhân
nghĩa chừng nào còn lắm bụi
Anh hiểu vì
sao tôi ít lời.
Anh hiểu vì
sao tôi hay nhắc mẹ tôi
Nỗi ám ảnh
suốt đời day dứt
Đối với mẹ
sẽ là đòn đau nhất
Có kẻ nào
rình ném bẩn lên tôi.
Giữa tiệc
rượu và hoa, tưởng chừng không đúng lúc
Nhắc đến
nỗi đau những uất ức ở đời
Làm sao
được, rượu hoa thường ít
So với chia
ly, gian dối, dập vùi.
(CHẠM CỐC SA –
IN 1987)
Đúng là đại ngôn quá, hô hào quá!
Khi đứng
trong chiến hào
Bỗng thấy
mình cao lớn
Vừa trói
giặc buông tay
Lại đợi giờ
xuất trận
Luyện đôi
chân Trường Sơn
Đường
Trường Sơn cao ngất
Ngực đồng
bằng mênh mông
Nuôi ta
nghìn giọng hát…
(Âm vang chiến
hào 1970)
Sự thật trong chiến trường, người lính ở trong
chiến hào ai cũng phải muốn cong người thấp xuống để tránh đạn quân thù. Những
tân binh đi lớ ngớ nhô đầu lên đều bị tiểu đội trưởng quát tháo bảo khom người
xuống. Khi nào có thời cơ xung phong thì hãy nhảy lên chiến hào. Đó là cách bảo
toàn lực lượng để đánh giặc. “Khi đứng trong chiến hào / Bỗng thấy mình cao
lớn” là cách hô hào suông. Thơ ca không nên nói thế. Kiểu nói ấy là kiểu nói
của những người trốn hầm ngoài hậu phương tha hồ khẩu hiệu đánh giặc trong hầm
và đánh giặc trên giường, của những ca sỹ gào qua đài động viên bộ đội chiến
đấu, của những chính trị gia trốn trong boong ke cổ xúy đánh nhau! Kiểu nói của
những kẻ lạc quan tếu, quá phấn kích!
Mà G. Belinski (Nhà phê bình Nga lỗi lạc thế
kỷ XIX) đã viết: “Đối với liều thuốc tâm hồn, những nỗi buồn nhân bản bao
giờ cũng có tác dụng thẩm thấu hơn nhiều so với hội chứng phấn kích”.
Trong cuộc chiến tang thương ấy có bao nhiêu
kẻ hùa theo đám chính khách lái súng xui loài người chém.giết:
bao triêt
gia coi khinh sự chết
bao nhà thơ
ca ngợi cái điên cuồng
bao nhà văn
bán đứng văn chương
bao chính
khách ngồi một nơi kêu gào, cỗ vũ…
(Tâm sự người lính 1973 – Đỗ Hoàng)
Thơ cổ kim động viên tòng quân đánh giặc của
nhân loại kể không hết những bài hay vì các nhà thơ đã viết rất chân tình tấm
lòng của mình khi ra trận bằng một bút pháp điêu luyện nên còn mãi nghìn đời:
Ninh bách
vi phu trưởng
Nhất thắng
tác thư sinh
(Đầu quân –
Dương Quýnh – Đời Đường)
Nghĩa là:
Thà làm anh
lính bét
Hơn làm
chàng sinh viên
(Bài hát Tòng
quân – Dương Quýnh - Đỗ Hoàng tạm dịch)
Cố viên
đông vọng lộ man man
Song tụ
long chung lệ bất kham
Mã thượng
tương phùng vô chỉ bút
Bằng quân
truyền ngữ báo bình an
(Phùng nhập
kinh sứ - Sầm Tham)
Bất ngờ vào
kinh đô
Quê nhà xa tít ngoái trông sang
Áo thõng
hai tay lệ chảy tràn
Trên ngựa
gặp nhau không giấy bút
Nhờ anh
nhắn hộ vẫn bình an!
(Hoàng Tạo
dịch)
Thơ Hữu Thỉnh dày đặc thơ hô khẩu hiệu nhiều
lần, gượng ép, giả tạo, đầy chất tuyên huấn cấp tiểu đội in trên báo liếp:
Một con
đường đất đỏ như son
Một màu
xanh bạt ngàn hy vọng
Một ý chí
bay ra đầu ngọn súng
Một niềm
tin nghiến nát mọi quân thù
(Trên một
chiếc xe tăng - tháng 3 năm 1971)
Sau Bản
Đông giải phóng vài ngày
Các chiến
sỹ xe tăng ra cầu Ka Ki tắm mát
Anh đuổi
nhau trên cát
Anh đổ dế
hái hoa
Các anh
không nói nhiều về chiến thắng ngày qua
Chỉ mong
mưa cho đồng bào gieo lúa…
(Sau trận đánh – Âm vang chiến hào tháng 3
năm 1971)
Đọc mà buồn cười cho cái hô khẩu hiệu, cái
giả, cái gượng gạo mà Hữu Thỉnh gán cho người lính xe tăng, biến họ những người
đối mặt với chết sống thành nhưng chú bé lên năm, lên sáu, những cô thiếu nữ
choai choai chơi dế, hái hoa.
Ca ngợi anh bộ hiền như Phật trong thơ chính
thống chống Mỹ có rất nhiều:
Có người đi
lính hiền như đất
(Chính Hữu)
…
Con lạy ông
Ông đừng ăn
gan cháu!
Chú đây mà
Chú là giải
phóng quân.
(Em bé lạc mẹ
ở Đồng Hà, năm 1972 – Nguyễn Duy)
Sau đó, Hữu Thỉnh nâng những người lính xe
tăng con trẻ ấy lên tầm Lưu Bị, Khổng Minh, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, những
lãnh tụ luôn lo lương, tích thảo để dân tộc đánh giặc lâu dài.
Các anh
không nói nhiều về chiến thắng ngày qua
Chỉ mong
mưa cho đồng bào gieo lúa
(Thơ đã dẫn)
Anh lính bét
xe tăng trong thơ Hữu Thỉnh đúng là có tầm Tướng quốc và Tướng quân(!)
Giả hết mức!
Thơ Hữu Thỉnh có những triết lý vặt, photo
copy triết lý Mao Trạch Đông “Súng đẻ ra chính quyền”:
Qua một chặng đường dài
Chính khẩu
súng đã làm đời ta tươi tốt”
(Đường tới
thành phố 1978)
Súng ấy chắc là đã tẩm nhân sâm Triều Tiên, tẩm
thần dược mới có loại súng giết người làm người tươi tốt!
Và triết lý
lấy nông thôn bao vây thành thị. Tựa đề trường ca Đường tới thành phố
cũng là cách cóp ý tưởng chiến khu của Tàu!
Vừa triết lý cop py, thơ Hữu Thỉnh lại đậm
chất tấu hài:
Vai tấu hôm
nay cù giỏi thật
Không ngờ
đại đội trưởng mà duyên
Ngỡ cô binh
trạm vào vui tết
Bỏ chiếc
khắn dù: Chính trị viên!
…
Người xuống
người lên vui hả hê
Tháp pháo
hầm bên chăm chú nghe
Sớm mai
xuất kích tăng gầm xích
Tiếng hồ,
tiếng nhị cũng theo đi…
(Đêm liên hoan
1971)
Thơ Hữu Thỉnh
rất nhạt. Anh em trong nghề nói với nhau: bệnh gì của thơ cũng có thể chữa
khỏi, chỉ có bệnh nhạt là thuộc loại tứ chứng nan y không thể nào chữa nổi. Hoa
Đà, Biển Thước, Hải Thượng Lãn Ông cũng phải bó tay!
Ăn vội no
lâu
Chiến hào
đang đợi
Sau trận
đánh nhìn bàn tay sạm khói
Cứ ngỡ vừa
thay nhau vần cơm
…
(Kỷ niệm về
bữa cơm ăn đứng – Âm vang chiến hào – tháng 3 năm 1972)
Buổi sáng
thức dậy
Bắt gặp
tình thương đi đưa đám hận thù
Qua con
đường những đám mây bị nhiều phen rượt đuổi
Buổi sáng
thức dậy
Mùa đã qua,
mùa đã qua
Những khung
cây hoang vắng
Đi qua
nhiều mũ áo
(Thương lượng
thời gian)
Nhạt và sáo
cả khi ca ngợi lãnh tụ của mình:
Người cao
cả tận ngọn nguồn thương nước
Sông trôi
mài như bờ còn giữ được
Ánh măt
Người sâu vợi với thời gian
Đang tỏa
khắp, đang ân cần căn dặn
- Hễ còn
một tên xâm lược trên đất nước ta
Thì ta phải
tiếp tục quét sạch nó đi”
(Đường tới
thành phố)
Rất cũ kỹ, không có tứ, không có cái gì mới
viết ca ngợi lãnh tụ cả.
Cái tấu hài, bệnh nhạt dẫn đến cái giả lắp
ghép sống sượng, có thật mà đọc cứ tưởng là của giả:
Bạn tôi bị
thương
Lúc rượt
theo bọn ác ôn tháo chạy
Mảnh pháo
xuyên qua bao đạn
Hạt rau dền
vãi ra
Rịt lại vết
thương
Xông lên
đuổi địch
Bạn tôi
không hay
Có luống
rau dền mọc theo đường truy kích
(Tháng 10 năm
1974)
Mang hạt rau, giống cũ đi theo người lính thì
quân đội nước nào cũng làm. Sự việc chi tiết có thật trong chiến đấu. Người
linh muốn đánh thắng giặc phải biết tự túc một phần lương thực Nhưng dựng kịch
bản cho nó thành luống rau truy kích thì đó là một kịch bản tuyên huấn rất
xoàng xĩnh, đọc nó phản cảm.
Trong trùng trùng điệp điệp người ca ngợi,
tầng bốc thơ Hữu Thỉnh, họ cho rằng Hữu Thỉnh chịu ơn Đảng, phụng sự cho Đảng
nhưng Hữu Thỉnh không viết ca ngợi Đảng cụ thể mà chỉ viết về mẹ và chị rất
thành công.
Đúng là Hữu Thỉnh có viết về mẹ và chị là
những người thân hữu hình và vô hình cưu mang mình. Điều ấy rất đáng trân
trọng. Nhưng người mẹ, người chị trong thơ Hữu Thỉnh cực khố, khó khăn ở mức
tầm tầm:
Mẹ ta ốm,
húp bát canh rau dệu
Chị ta hay
ngồi khóc dưới bếp một mình
…
Chị chôn
tuổi xuân trong má lúm đồng tiền…
Mâm cơm
ngồi bên nào cũng lệch…
Người mẹ tứ cố
vô thân Việt Nam
trong chiến tranh đau thương hơn nhiều;
MẸ ĂN XIN
Gạo nhà mẹ
hết lâu rồi
Mẹ ăn xác
sắn (*) ngùi ngùi cho con (*)
Bã sắn
Mẹ ơi! Nhận
lấy vài lon
Ngày mai
đơn vị con còn đi xa
Mẹ nhìn
lòng nghẹn mắt nhòa
Rét run tay
gậy, thân già hụt hơi
Xiêu xiêu
bong mẹ xa rồi
Thóp thoi
chiếc lá vàng rơi giữa chiều.
(Tâm sự người
lính – Đỗ Hoàng, tháng 3 năm 1972)
Và người chị trong thơ Việt Nam còn mất mát
vạn lần so với người chị của Hữu Thỉnh:
Hồn trinh
chôn chặt chân giường
Em còn cho
chị lược gương làm gì
….
Chị giờ
sống cũng bằng không
Coi như chị
đã sang sông đắm đò!
(Lỡ bước sang
ngang – Nguyễn Bính)
Điểm yếu nhất của thơ Hữu Thỉnh là thiếu
sự nhân đạo cao cả, mặc dù đâu đó trong thơ ông có nói “Xóa đi phiên hiệu
một sư đoàn /Đất bao dung nhận những mảnh cờ hàng”. Cả một đời thơ lính trận
mạc mà chỉ có một câu như thế là quá ít và quá nhẹ. Còn trong thơ ông rất nhiều
khẩu khí “thề phanh thây uống máu quân thù”. Với tư duy “chính khẩu súng làm
đời ta tươi tốt”, Hữu Thỉnh thần thánh hóa khẩu súng cầm trong tay của mình:
Chúng tôi
xuống đường
Chúng tôi
cầm súng
Sóng dồi
lên táp mặt quân thù
Khẩu súng
trong tay không trệch hướng bao giờ
Chúng tôi
đánh quân thù như sả cỏ làm mùa, như phát lau tra hạt…
(Đất, tháng 2
năm 1971 – Âm vang chiến hào)
Và thật tàn
bạo:
- “Hãy lấy đạn mà cưa thằng cuồng tín
Mặt thằng
ngu muốn chết thay cây
- “Cứ bò
đi, tới chộp cho thiệt lẹ
Rồi moi
bụng nó ra
Xem có máu
hay chỉ toàn hắc ín”
Tao muốn
coi nó chết từ từ
Coi nó chết
nó gọi ai trước nhất.
- “Thôi hãy quăng lựu đạn đi thôi
Cho nó chết
thiệt mau để tao còn chụp ảnh
Tao cần
tiền chứ không cần nó…
(Đường tới
thành phố năm 1978, 1979).
Từ cổ chí kim không có vần thơ nào ác độc như
thế này.
Cái tinh thấn “súng là đạn, vợ là con, dồn
căm thù lên nòng súng, đôi mắt em hình viên đạn” đã biến thi nhân thành sát
nhân, biến tác phẩm nghệ thuật thành biệt kích một cách cuồng tín của nhiều con
người ở thế kỷ XX , thật là có một không hai trong lịch sử nhân loại:
Bao nhà thơ
mất hết lương tâm
Bao bọn báo
bồi văn bồi làm gián điệp
Bao tác
phẩm nghệ thuật biến thành biệt kích
Cuộc đời này
đánh đĩ với văn chương…
(Loài người –
Tâm sự người lính của Đỗ Hoàng, ngày 4 tháng 6 năm 1973 ).
Đọc những lời thơ đẩm máu ấy làm cho chúng ta
rợn người nhớ tới những trại thiêu người của bọn phát xít Quốc xã Đức ở
Ốtsơvenxim trong thế chiến thứ hai vô cùng rùng rợn, nhớ tới những bãi đầu lâu
chất thành núi của Thành Cát Tư Hãn, của bọn Polpot Iêng xa ri diệt chủng ở Căm
pu chia để cảnh tỉnh cho nhân loại hiền lành trước cái ác tàn bạo!
Thật ra “trúc càn có thể chém vạn cành”. (Đỗ
Phủ) Nhưng đấy là thời trung cổ, thời mà ”Thề sao thì cứ thế sao gia hình/ máu
rơi thịt nát tan tành/ ai ai trông thấy hồn kinh phách rời ( Đoạn trường tân
thanh phóng tác truyện Tàu – Nguyễn Du). Còn thời hiện đại con người ở với nhau
nhân đạo hơn. Bây giờ nhiều nước dân chủ ở châu Âu họ đã bỏ án tử hình. Những
nơi còn án tử hình thì họ cho chết nguyên thây bằng cách tiêm thuốc, chứ không
mổ bụng moi gan hoặc băm vằm thi thể kẻ ác nhân như trong thơ Hữu Thỉnh!
Sao trong thơ Hứu Thỉnh lại có những cảnh
“tùng xẻo” như vậy ?
Hữu Thỉnh là nhà thơ không có sự rung cảm,
trái tim ông trơ lì vì “mải mê trên đường hoạn lộ”, ông đã tự thú:
Anh lặng im
như đất
Ái nói gì
cứ nâu…
(Thương lượng
thời gian.)
Rồi tiếp
Coi nó chết
nó gọi ai trước nhất!
Thưa nhà thơ Hữu Thỉnh, nó gọi mẹ đẻ đấy ạ!
Thượng tá Hoắc
thời làm giám thị trại giam Hỏa Lò có kể cho tôi nghe chi tiết là khi những từ
tù, những kẻ ác độc nhất đem đi thi hành án, nhà tù cho một mẩu giấy bằng nửa
bàn tay để viết lời trăng trối cuối cùng, trên 90% viết gửi về cho Mẹ đẻ.
Nhà
văn Khôi Vũ - Nguyên sỹ quan Quân y Việt Nam Cộng Hòa - Nguyên Phó Chủ tịch Hội
Văn nghệ Đồng Nai, Phó tổng biên tập báo Văn nghệ Đồng Nai -Giải thưởng tiểu
thuyết "Lời nguyên hai trăm năm" của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1989
Nhà văn
Triều Nguyên - Nguyên Thiếu úy Sĩ quan Việt Nam
Cộng Hòa - Giải thưởng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về Văn học
nghệ thuật.đợt 2
Nhà thơ Lê
Văn Ngăn - Nguyên Trung sỹ Việt Nam Cộng Hòa, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ
Bình Định, Phó Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Bình Định, Đảng viên Đảng Cộng
sản việt Nam.
Bộ đọi Quân
giải phóng miền Nam quàng
vai thân thiện với người lính Việt Nam
Cộng Hòa sau Hiệp định Paris ngưng bắn ở Việt Nam năm 1973.
Anh giải
phóng quân (bên trái) là đồng đội của nhà thơ Trần Khởi và người lính VNCH tại
chiến trường Bình Định năm 1973
Nhà thơ Đỗ
Hoàng - Nguyên bình nhì tiểu đội 3, trung đội 3, Đại đội 359, quân khu 4, Quân
đội nhân dân Việt Nam, nguyên Trưởng Ban Thơ Tạp chí Nhà văn. Giải thưởng 5 năm
Bộ Quốc phòng về Báo chí - Văn học nghệ thuật (2009 - 2004)
.Nhà thơ
Hữu Thỉnh - Nguyên Trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam - Chủ tịch Hội Nhà văn
Việt Nam, Chủ tịch UB Toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam
Cứ bò tới
chộp cho thiệt lẹ
Rồi moi
bụng nó ra
Xem có máu
hay chỉ toàn hắc ín?
Máu đỏ hết, đều là da vàng máu đỏ cả nhà thơ
Hữu Thỉnh ạ. Con cháu của những người sống sót sau cuộc mổ bụng, moi gan ấy 20
năm sau họ đã là Đảng viên như Hữu Thỉnh, nhiều người làm đến Phó chủ tịch
phường, Hiệu trưởng trường tiểu học, trung học…vào cấp ủy, vào các cấp lãnh đạo
chính quyền do Đảng Cộng sản cầm quyền rồi ạ.
Những người lính sống sót không bị mổ bụng moi gan thì thành nhà văn tài
năng đoạt được giải thưởng lớn của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
(Xem ảnh) . Còn những người thoát chết dã man rùng rợn ấy là thuyền nhân vượt
biên và giờ gửi dolla về xây dựng đất nước, được Đảng Cộng sản Việt Nam, chiều
chuộng tin yêu:
Chưa đi
Đảng bảo Việt gian
Đi rôi được
Đảng chuyển sang Việt kiều
Việt kiều
Đảng quý, Đảng yêu
Sớm hôm
mong muốn gửi nhiều đô la!
(Ca dao mới)
Thời điểm Hữu Thỉnh viết trường ca Đường
tới thành phố (1977 – 1978), trường ca gậm nhấm chiến thắng lầ thời điểm
đau thương nhất trong lịch sử Việt Nam mà các cuộc thống nhất đất nước của Tây
Sơn của Gia Long cũng không có. Dân tình xơ xác đói kém. Nạn thuyền nhân như
một cái tang cho dân tộc. Hàng triệu người bỏ nước ra đi. Hơn nửa vạn người làm
mồi cho cá ngoài biển Đông sóng thần!
Năm Mậu Ngọ
mất khoai
Năm Kỷ Mùi
tàn lúa
Vạn nhà cứ
đói hoài
Vạn người
chết sấp ngữa!
(Tức sự năm
1979 –Đỗ Hoàng)
Nhiều nhà văn, nhà thơ có lương tri đã ngộ ra,
tỉnh ra sau cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đau xót cho dân tộc Việt da vàng
nhược tiểu bị các thế lực ngoại bang hai phía xúi bẩy đến cảnh nồi da xáo thịt,
đã viết nên những tác phẩm làm rung động tấm lòng và lương tri nhân loại:
Nguyễn Minh Châu “Người viết trẻ và cánh rừng già (1973), Lời ai điếu
cho một giai đoạn văn học minh họa (1979), Cỏ lau ; Hoàng Ngọc Hiến
với Hiện thực phải đạo, Nguyên Ngọc, Tổng biên tập báo Văn nghệ ủng hộ
lương tri thức tỉnh; Trần Mạnh Hảo với Ly thân,; Bảo Ninh với Nỗi
buồn chiến tranh; Phạm Thành với Hậu Chí Phèo; Hoàng Minh Tường với Thời
của thánh thần; Đỗ Hoàng với tập thơ Tâm sự người lính, 3 tiểu
thuyết Phí một thời trai, Cuộc chiến vừa tàn, Gửi người tình bên kia đại
dương, Huy Đức với Bên thắng cuộc, Nguyễn Dậu với Chúa trời ngủ
gật; Nguyễn Việt Hà với Cơ hội của Chúa……
Thế mà Hữu Thỉnh vẫn một lòng tụng ca, hô
khẩu hiệu suông:
Tất cả dưới
bàn tay của Bác
Hoa thiêng
liêng máu thịt tự hào
Chúng con
thèm nghe Bác nói một câu
Giữa bến
Nhà Rồng mênh mông trời nước
Thèm nghe
thơ, thèm đôi tay bắt nhịp
Để vui hết
những gì ta có được hôm nay!...
(Đường tới
thành phố năm 1977 – 1978)
Việt Nam có truyền thống nhân đạo từ
xưa:
“Thần võ bất
sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên
cấp hạm ngũ bách dư sưu, kí độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh
Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi
ích tự cổ lật tâm kinh”.
Nghĩa là:
Thể lòng
trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ,
Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển
mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương
Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước
mà vẫn tim đập chân run.
(Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
Đứa ăn mày
cũng trời sinh
Bệnh còn
cứu đặng, thuốc dành cho không
(Hải Thượng
Lãn Ông)
Vì sao thơ Hữu Thỉnh thiếu tính nhân đạo như
vậy. Nguyên nhân rất dễ hiểu, Vì ông “vi thi lập thân” (lấy thơ tiến thân). Để
có chức vụ, quyền lực trong chiến tranh ông phải hô khẩu hiệu, phải lên gân,
phải sáo rỗng, phải gian dối, phải chiều theo Đảng cầm quyền, trong hòa bình
phải tìm mọi cách kiếm tiền.
Nhưng Hữu Thỉnh không để chậm như vậy đâu.
Ngay trong chiến tranh, Hữu Thỉnh đã ngửi ra hơi đồng:
Cho nó chết
thật nhanh để tao còn chụp ảnh
Tao cần
tiền chứ không cần nó…
(Đường tới
thành phố năm 1977, 1978)
Trong thơ Hữu Thỉnh có rất nhiều từ chuyên
môn ngành thương mại, tài chinh như: vốn, mua bán, đồng, tiền, bạc, thương
lượng…
Nếu ông đi học trường đại học Buôn Bán (Thương
Mại ), đại học Tài Chính ở Cầu Giấy, ở Cổ Nhuế chắc sẽ phát huy được sở trường
của mình! Ông sẽ thương lượng với thời gian, mặc cả với bất tử cho ông trường
sinh bất lão, làm quan suốt đời để hưởng cho hết bổng lộc mà đời đã ưu ái cho
ông.
Nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn viết bài gửi cho
tôi đăng có viết: Hữu Thỉnh bảo làm Cách mạng cần máu, làm quan cần tiền.
Chú mày sinh ra để anh dùng”
Máu tham ngửi
thấy hơi đồng là mê (Nguyễn Du) thì Hữu Thỉnh làm sao “vi thi chi hoạt”
(sống chết vì thơ) được.
Trong thơ tình, Hữu Thỉnh cũng không thật
lòng:
Người yêu
thơ chết vì những đòn văn
Người say
biển bị dập vùi trong sóng
Người khao
khát ngã vì roi mơ mộng
Ta yêu mình
tan nát bởi mình ơi.
TỰ THÚ -1987
Thơ tình mà kêu leng reng quá. Trong đời
thực và trong đời ảo Hữu Thỉnh làm gì trải qua những cảnh ngộ “ta yêu mình tan
nát bởi mình ơi!” Có thể viết ngược lại” Mình mà yêu ta thì mình sẽ tan nát hết
mình ơi!”
Các nhà thơ lớn, thơ tình của họ rất bình dị
mà sâu lắng làm rung động trái tim yêu nghìn năm:
NGÀI VÀ TÔI,
ANH VÀ EM
Nàng bỗng
đổi tiếng ngài trống rỗng
Thành tiếng anh tha thiết đậm đà
Thưa em, em
đẹp lắm
Mà thâm tâm
anh chưa thể nói ra!
(Pushkine – Thúy Toàn dịch)
Đương thời ngã túy mỹ nhân gia
Mỹ nhân
nhan sắc kiều như hoa
Kim nhật mỹ
nhân khứ ngã khứ
Thiên nhai
châu bạc liên chi gia
(Sở hữu tư – Lô Đồng đời Đường)
Khi say ta
ở nhà ai
Mặt ai xinh
đẹp tươi cười như hoa
Bây giờ ai
vội lìa ta
Mày xanh
rèm ngọc xa xa chân trời…”
(Nhớ người đẹp
- Bản dịch Tản Đà)
Nội dung thơ Hữu Thỉnh đã như thế, vì xuất
hiện muộn nên nghệ thuật, thi pháp thơ thì hầu như không có gì, lại còn thô
vụng câu chữ, ý tứ, copy nguyên xi các tác giả khác nữa.
Bài thơ Hai nhà viết năm 1962 là một
ví dụ tiêu biểu.
Hai nhà tựa
lưng vào nhau
Cành xoan bên
ấy ngả đầu sang đây
Lá sả đấy gội
đây say
Ru em bên ấy,
bên này thiu thiu
Hôm qua bên ấy
lẩy Kiều
Bên này căm
mãi cái mưu Tú Bà
Mãi nghe chênh
chếch trăng tà
Đầu hồi bên ấy
ngả qua bên này
Sáng ra nắng
trĩu cành cây
Mái lá bên này
choàng cả bên kia.
(Vĩnh Phú
1962)
Nhà ở nông
thôn mà tưởng tượng ra tựa lưng vào nhau là không thật. Không có việc ấy và
không có điều nay Lá sả đấy gội đây say/Ru em bên ấy bên này thiu thiu.
Một chàng trai đôi mươi đang yêu hừng hực mà
nghe ru em để thiu thiu ngủ thì chàng trai đó là đứa trẻ đang nằm nôi (!)
Rồi cô gái tuổi trăng tròn lẻ mà biết lẩy
Kiều hơn nghìn câu đến đoạn Tú Bà “đà đao lập sẵn chước dùng” là khoét lác,
không thể có. Hữu Thỉnh muốn tri thức hóa, Kiều hóa cô gái nông thôn, cô người
yêu mình thập kỷ 60 thế kỷ trước có trình độ Kiều như Tiến sỹ Kiều học Trần Nho Thìn bào vệ luận án phó tiến sỹ
Đoạn trường tân thanh bên Liên Xô đấy!
Hữu Thỉnh viết 10 câu lục bát mà để nhiều lỗi
vần.
Ru em bên
ấy bên này thiu thiu
Hôm qua bên
ấy lẩy Kiều
Nên sửa
lại:
Hôm qua bên
ấy lẩy Kiu
Tiếp:
Hôm qua bên
ấy lẩy Kiều
Bên này căm
mãi cái mưu Tú Bà
Nên sửa lại:
Bên này căm
mãi cái miêu Tú Bà.
…
Ai về Pa
Háng, Nghệ An
Rằng nay
Trạm Gió có giàn su su
Ai qua Lệ
Thủy, Xuân Bồ
Bây chừ
Trạm Gió cải ngù, gà choai…
(Trạm Gió
1967)
Bài thơ trong tập Âm vang chiến hào như một
bài bích báo mà đầy lỗi vần.
Nên sửa lại
Ai qua Lệ
Thủy Xuân Bù
Bây chừ
Trạm Gió cải ngù, gà choai.
Đã đứng tuổi
mà Hữu Thỉnh làm thơ như vậy thì hỏi làm sao độc giả tâm phục khẩu phục. Trong
khi đó Trần Đăng Khoa mới tám tuổi, chin tuổi năm 1967 viết ục bát đã thâm hậu
trong nội dung lại điêu luyện trong nghệ thuật thi pháp:
Hoa dừa nở
lẩn cùng sao
Là dừa
chiếc lược chải vào mây xanh
…
Ngoài thềm
rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi
rất mỏng như là rơi nghiêng.
(Tư gốc sân
nhà em – Trần Đăng Khoa 1968)
Đúng là:
Khôn thì khôn thuở lên ba,
Dại thì dại
khú, dại tra (*) một đời! (*) Già -tiếng miền Trung)
Hữu Thỉnh cũng hay bắt chước học cách lập tứ
của các nhà thơ thời chống Mỹ nổi tiếng.
Hoàng Nhuận Cầm có bài thơ “Tiếng chim trên
đồi chốt” rất hay:
Lích chích
là chuyện chim ri
Khoác lác
nhất nhì chuyện sáo sậu thôi
Chuyện nghe
như chuyện đâu rồi
Là lời chú
vẹt đang ngồi bên kia
Mạ ơi! Đất
nước cắt chia
Tiếng kêu
con cuốc đi về quả tim…
(Tiếng chim
trên đồi chốt – Hoàng Nhuận Cầm năm 1972)
Hữu Thỉnh cũng làm bài Chợ Chim phỏng
theo:
Chào mào
chưa nếm đã say
Chim sâu
bận mọn nửa ngày mới sang
Anh vũ mua
bán đàng hoàng
Ăn xong múa
lượn cả làng cùng xem
Bồ nông ở cữ
ăn khem
Cà siêng có
khách vội đem quà về
Con sáo mua
bán màu mè
Quạ đen
đánh quỵt còn khoe đủ điều…
(Chợ chim - Thơ Hữu Thỉnh năm 1988)
Nguyễn Duy có
bài Bầu trời vuông, Hữu Thỉnh cũng có bài Bầu trời trên giàn mướp.
Bài thơ Bầu trời vuông của Nguyễn Duy:
Thắng rồi trận
đánh thọc sâu
Lại về với mái
tăng – Bầu trời vuông
Sục sôi bom
lửa chiến trường
Tâm tư yên
tĩnh vẫn vuông một vùng
Khoái nào bằng
phút ngả lưng
Mở trang thư dưới bong rừng đung đưa
Trời tròn có
lúc rơi mưa
Trời vuông
vuông suốt bốn mùa nắng xanh…
Người lính nào ở chiến trường cũng đều
nhớ, còn bài Bầu trời trên giàn mướp của Hữu Thỉnh thì không ai nhớ.
Người ta nói rằng: Nhà thơ như con ong làm mật.
Chúng đi hút nhị vạn bông hoa trong rừng để về làm nên mật ngọt cho mình, chứ
không đi ăn cắp cánh hoa về làm mật. Hữu Thỉnh nhiều khi bê gần như nguyên xi
tứ, câu chữ của người khác. Điển hình như bải Hỏi ảnh hưởng nguyên xi
bài thơ Thượng đế sinh ra mặt trời
của nhà thơ Đức Christa Reinig mà công chúng đã la ó nhiều năm.
Rồi bài Sang thu lấy tứ của Vương Hòa
nhà thơ đời Đường bên Trung Quốc;
Đông mộ vạn
đào chi
Quá hoành
thiềm xuân noãn
(Vương Hòa 560
sau Công nguyên)
Cành đào tơ
chiều đông
Vắt sang thềm
xuân ấm
Hữu Thỉnh:
Có đám mây
mùa hạ
Vắt nửa
mình sang thu.
(Sang thu)
Hữu Thĩnh học tập không khéo. Từ vắt dùng như
Vương Hòa là rất tuyệt, Vắt nhành sang mùa xuân. Cái có thực vắt qua cái ảo làm
cho câu thơ có thần. Chữ vắt dùng hợp văn cảnh hình ảnh đẹp thì rất hay, như:
Khăn thương
nhớ ai
Khăn vắt
lên vai
Khăn thương
nhớ ai
Khăn rơi
xuống đất…
(Ca dao)
Dùng không hợp văn cảnh mà lại thô lậu thì rất
nguy hại:
Có đám mây
mùa hạ vắt nửa mình sang thu. Vắt nửa mình là vô cùng tục, không có
tí gì là hình ảnh cho thơ. Chữ vắt nửa mình ở đấy đã làm cho bài thơ Hữu
Thỉnh bị bôi đen hoàn toàn.
Người ta có
thể nhại, liên tưởng đến cái khác tục tỉu hơn:
Có chàng
trai một tạ
Vắt nửa
mình sang em.
Hữu Thỉnh dùng chữ “vắt nửa mình” đã
giết chết thơ Hữu Thỉnh.
Bài “Thơ viết ở biển” được phổ nhạc,
nhưng âm nhạc xón xòn, xòn đô xòn ở đây không che lấp được câu chữ thô vụng, cũ
kỹ, ý tứ sáo mòn, hời hợt của bài thơ tình yêu này.
Hữu Thỉnh muốn nói cho to tát:
Anh xa em
Trăng cũng
lẻ
Mặt trời
cũng lẻ
Gì mà đến mức ấy.
Anh xa em
cái cây, con đò cũng lẻ là đã quá buồn rồi, cần gì đem mặt trời mặt trăng
ra so sánh, đại ngôn như thế!
Câu thơ Gió không phải là roi mà vách núi
phải mòn là rất cũ và rất nhẹ. Nếu Hữu Thỉnh phát hiện đầu tiên thì cũng có
thể coi câu thơ được. Nhưng câu này đã có từ mấy trăm năm trước mà hình ảnh nó
đẹp, lung linh, vừa ảo, vừa thực, vừa hay hơn nghìn lần:
Sương phủ
tàn hề dương liễu
Vũ cứ tôn
hề ngô đồng
(Đặng Trần
Côn)
Sương như
búa đẽo mòn gốc liễu
Mưa nhường
cưa xẻ héo cành ngô
(Đoàn Thị Điểm
dịch)
Hay trong thời
hiện đại:
Phong như
lợi kiếm ma sơn thạch
Hàn tự tiêm
phong thích thụ chi
(Hoàng hôn -
Hồ Chí Minh)
Gió sắc tựa
gươm mài đá núi
Rét như dùi
nhọn chích cành cây
(Hồ Chí Minh
năm 1947)
Hữu Thỉnh rất lạm dụng dùng một cái hư đặt với
cái thật, cái ảo đặt với cái hiện…Nếu dùng hợp lý không tràn lan câu thơ, bài
thơ hay lên nhiều:
Bò Yak trôi
trên sườn núi
Là đem mùa
thu nắng về
(Tạng thư)
Ngô đồng
nhất diệp lạc
Thiên hạ
cộng thu tri
(Thơ cổ)
(Chiếc lá ngô
đồng rơi
Mọi người biết
thu đên)
…
Sầu đong
càng lắc càng đầy
Ba thu dồn
lại một ngày dài ghê
(Đoạn trường
tân thanh – Nguyễn Du)
Thấy gió là
ôm ngang lấy gió
Tưởng chừng
như trong đó có hương
Của người
mình nhớ, mình thương
Nào hay gió
tạt chẳng vương vấn gì
(Hàn Mặc Tử)
Gấp đôi cánh
phượng cho ngày rạng ra
(Bùi Giáng)
Tôi xin em
chút lòng thành
Cài lên một
phiến u tình làm hoa
(Hoàng Phủ
Ngọc Tường)
Hữu Thỉnh dùng tràn lan, dùng một cách bội
thực mà không hay ho chút nào: Cho mượn mùa thu một buổi, gấp đêm làm gối
chờ ngày đợi em, tôi cùng mùa hạ dắt nhau đi, nhấp chút tương tư/ Thế là chiều
biển động, em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím, thả gió cho mây…
Hữu Thỉnh dùng nhiều liên tưởng so sánh một
cách thái quá, không đúng sự thật và không chấp nhận được.
Trong Thư mùa
đông ông viết:
Gạo thường
lên sớm, thư thời chậm
Đài mở thâu
đêm đỡ vắng hầm
Bao năm
không thấy màu con gái
Vó ngựa
nghe nhầm tiếng guốc em...
Liên tưởng so sánh vó ngựa là tiếng
guốc người yêu là liên tưởng so sánh quái dị. Vẫn biết “trung quân hi sắc” (Trong
lính gái rất hiếm).
Tam niên tại
ngũ
Trư lão như
tiên
(Ba năm ở lính
Lợn sề gái
xinh)
Người lình
khát khao người yêu, khát khao tình dục, có khi họ phải sex animals (tình dục
động vật), thủ dâm (tự sướng) như phụ nữ Brazin tuổi từ 15 đến 25 có 45 % sex anuimals, tuổi từ 25 đến 45 có 25% sex
animals; đàn ông thì nhiều hơn... nhưng không bao giờ nhầm vó ngựa với tiếng
guốc người yêu! (Đỗ Hoàng dịch trên mạng).
`Apollinaire –
nhà thơ nổi tiếng của Pháp đầu thế kỷ XX táo bạo nhất mà chỉ viết đến:
Je pense à toi
mon Lou Coeur est ma caserne
Mes sens sint
tes chevaux ton souvenir est luzenne
(Anh nghĩ
đến em, Lou ơi! Tim em là trại lính của anh
Các giác quan của anh là bầy ngựa của em, kỷ
niệm em là ngọn cỏ linh lăng của anh)
Nos 75 sont
gracieux comme ton corps
Quand je suis
à cheval tu trottes comme le feu d’un obus qui ecslate au nord
(Apollinaire)
(Những khẩu
75 duyên dáng như thân thể em
Tóc em vàng
hung như lửa đạn nổ ngoài phương Bắc)
Hữu Thỉnh cũng là nhà cười gượng học, người
thích cười thích hát, thích hò trong cuộc chiến xương chất thành núi, máu chảy
thành sông:
Hết lớp
này, lớp khác lên thay
Chuyện máu
thành sông, chuyện xương thành núi
Không phải
chuyện hoang đường văn chương diệu vợi
Mà chuyện
cuộc đời, chuyện thật hôm nay.
(Tâm sự người lính năm 1973 – Đỗ Hoàng)
Còn Hữu Thỉnh
thì:
Hương trong
ngực ngạt ngào tình bạn
Cười vằng
vặc mặt còn khói sạm
(Trên cao
điểm mùa xuân - Tháng 9 năm 1969)
Tiếng sáo
đỡ lời thơ bay bổng
Căn hầm rực
ấm tiếng cười vang
…
Người xuống
người lên vui hả hê
Tháp pháo
hầm bên chăm chú nghe
(Đêm liên
hoan - Xuân năm 1971)
Đường
Trường Sơn cao ngất
Ngực đồng
bằng mênh mông
Nuôi ta
nghìn giọng hát
(Chiến hào
năm 1970)
Bến sông
thường chật chội
Tiếng cười
hai cánh quân
(Đồng chí
chở đò trên sông Ta Lê tháng 11 năm 1971)
Để vui hết
những gì ta có được hôm nay
(Đường tới
thành phố năm 1977 – 1978)
Hữu Thỉnh cũng là nhà thơ viết nhiều
trương ca. Ngoài trường ca Đường tới thành phố, ông còn Trường ca
Biển.
Cũng như Trường ca Đường tới thành phố,
Trường ca Biển là một trường dài, dở, nhạt:
…Và người lính
nói:
- Hôm nay
tôi thấy biển lần đầu.
Biển nói:
- Mái gianh
nhà anh không nói thế
Vại nước
gốc cau nhà anh không nói thế
Người lính
nói:
- Tôi phải
làm gì.
Biển nói:
- Sống với
nước hãy bắt đầu từ nước.
Đó là, nghi
lễ đầu tiên và nghi lễ cuồi cùng
Người lính
nói:
- Mẹ dặn
tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa
gặp núi lấy đèo mà tin
Tôi đã tin
và chưa hề bị ngã.
Biển nói:
- Không ngã
chưa chắc đã khỏi chìm…
Cứ lan man hỏi và nói, cứ hết sóng đến người
lính, đến biển kéo dài hàng trang mà cũ kỹ, nhạt hơn nước ốc của một nhà thơ
không hề sống ở biển, tưởng tượng ra để viết.
Nhà thơ sống chết với biển người ta viết hay
gấp vạn lần Trường ca Biển của Hữu Thỉnh, dù chỉ một câu:
Mai rồi đời
cát vùi quên
Biển còn
hột muối nhặt lên, thưa rằng…
(Ngô Minh)
...
Nếu mẹ hỏi
vì sao con yêu biển?
Con trả
lời:
- Nơi mẹ sinh con!
Nếu em hỏi
vì sao anh yêu biển?
Anh trả
lời:
- Nơi ấy mặt trời lên!
Nếu biển
hỏi vì sao tôi yêu biển?
- Tôi xin đưa tặng biển những con thuyền!
( Hải Bằng)
Viết hai câu lục thời thập kỷ 80 mà Hữu Thỉnh
vẫn viết sai cả vần điệu lục bát – một thể loại thơ Việt, người mù chữ vẫn viết
hay đúng niêm luật:
Ra sông lấy
sóng mà yêu
Đường xa
gặp núi lấy đèo mà tin
Nên sửa lại:
Ra sông lấy
sóng mà yêu
Đường xa
gặp núi lấy cây điều làm tin!
Khi đọc Đỗ Phủ và cảm nhận về bậc Thánh thi
này Phùng Quán đã viết:
Thơ ai như
thơ ông
Lặng im mà
gầm thét
Trang trang
đều xé lòng
Câu câu đều
đậm huyết
(Đêm Nghi
Tàm đọc thơ Đỗ Phủ - Phùng Quán)
Đọc trường ca của Hữu Thỉnh và của các nhà
cổ động viên thời chống Mỹ, tôi có cảm giác như thế này:
Thơ như thơ các ông
Chỉ có toàn hò hét
Trang trang đều dài dòng
Câu câu đều nhạt hoét!
Hữu Thỉnh là nhà thơ cổ động viên xuất hiện
muộn trong chống Mỹ, nội dung, nghệ thuật không có gì. Ông luôn luôn thương
lượng, mắc cả với thời gian để cho ông trường sinh bất lão, hễ quay hết vận hội
60 năm và cộng thêm một con giáp 12 năm nữa là 72 năm đủ để cho ông đổi 72 tuổi
(năm 2014) lại thành 27 tuổi và được làm Cai văn nghệ suốt đời.
Hữu Thỉnh “sáng lo kiếm sống, chiều lo
công danh” - công danh cũng chỉ hạng chức bật mã ôn thế mà ông đã để cho
Cánh đồng thơ mất trắng.
Tiếc thay!
Hữu Thỉnh
chẳng còn bài nào
Xe tăng vấp
phải tường rào thi ca
Hữu Thỉnh không bao giờ đến được vương quốc
Thơ!
Hà Nội, ngày 11 tháng
12 năm 2014
Nguồn: Tác giả gửi qua email nhà thơ Trần Mạnh Hảo
Đ - H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét