Đặng Văn Sinh
Vào nửa cuối
những năm 50 của thế kỷ XX, nhà thơ Hoàng Yến sở hữu một lý lịch mà những văn
nghệ sĩ cùng thời với ông, cho dù nằm mơ giữa ban ngày cũng không có được. Đó
là một hồ sơ cá nhân, xét từ góc nhìn của các nhà tổ chức mẫn cán, nó được đảm
bảo bằng vàng ròng bởi những tên tuổi lớn, từng góp phần tạo dựng nền móng cho
chế độ mới sau năn 1945, chẳng những giác ngộ, dẫn dắt Hoàng Yến vào con đường Cách
mạng mà còn giới thiệu, kết nạp ông vào Đảng, cùng hoạt động với ông trong tổ
chức. Những nhân vật lẫy lừng ấy có thể kể đến Huỳnh Ngọc Huệ (em mẹ nhà thơ),
Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Võ Quảng vv… Vì thế, Hoàng Yến tham
gia hoạt động phong trào Thanh niên dân chủ từ năm 1938 lúc mới 15 tuổi. Ông
cùng người em ruôt, Lê Xuân Mai từng làm giao liên cho Huỳnh Ngọc Huệ, Nguyễn
Duy Trinh hồi hai ông vượt ngục Đắc Lây về. Rồi hai anh em cùng tham gia vệ
quốc, cùng thoát ly ra khu IV từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Lê Xuân
Mai theo đoàn văn công, từng làm lãnh đạo đoàn, Lê Hoàng Yến từng làm thư ký
toà soạn báo Cứu quốc khu IV, thư ký riêng cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh, rồi
tham gia sư đoàn 304 suốt từ chiến dịch Hoà Bình, đến chiến dịch Điện Biên Phủ…
Cũng như những
thanh niên học sinh yêu nước thời kỳ Tiền khởi nghĩa, Hoàng Yến được học hành
khá bài bản, có bằng Diplôme là thứ rất cần thiết cho sự nghiệp canh tân đất
nước trong tương lai. Hoàng Yến học giỏi, có ý chí vươn lên, giầu bản lĩnh và
luôn có chủ kiến trong cách nhìn cuộc sống. Chính vì vậy, ta không lạ gì khi mà
nhà thơ luôn dị ứng với hội chứng bầy đàn vốn được hình thành từ thứ học thuyết
giáo điều chỉ đề cao vai trò tập thể trừu tượng mà hạ thấp những nỗ lực của
những sáng tạo cá nhân.
Hoàng Yến nhận
thức Cách mạng như một sự giải phóng thân phận dân tộc nô lệ cùng với việc giải
phóng mỗi cá nhân con người bởi những ràng buộc về tư tưởng cổ hủ, lạc hậu trong
đó có tình yêu nam nữ. Và, kết quả của công cuộc “giải phóng” có một không hai
ấy là mối tình đầy phong vị lãng mạn của chàng trai hào hoa xứ Quảng với nàng
công nữ thuộc hàng danh gia vọng tộc triều đình nhà Nguyễn. Thật là “thiên tải
nhất thì”, một mối lương duyên không thể nào đẹp hơn nếu ta nhìn dưới con mắt
của người dân bình thường khi mà não trạng chưa bị ám ảnh bởi chủ thuyết đấu
tranh giai cấp. Không còn nghi ngờ gì nữa. Cặp đôi Hoàng Yến – Lan Châu là
thiên tình sử đầy cảm hứng. Nói cách khác, từ việc cưới một Công Tằng Tôn Nữ,
Hoàng Yến đã đem ngọn lửa Cách mạng và lòng yêu nước thổi vào gia đình nhà vợ, đến
nỗi, không lâu sau, cuối năm 1946, cả chín chị em của nữ sĩ Lan Châu đều dắt
díu nhau rời khỏi kinh thành Huế. Đây là cuộc ra đi không tiền khoáng hậu phảng
phất niềm bi tráng của Chinh phụ ngâm để rồi cuối cùng trở thành bi kịch…
Các Công nữ
quý phái, thân gái dặm trường, với muôn vàn nỗi thống khổ trầm luân trên hành
trình đi tìm chân lý, nhưng khi vừa đặt chân đến vùng đất “kháng chiến”, không
lâu sau họ đã hiểu ra, mình còn đâu là “lá ngọc cành vàng” mà chỉ như những
thân phận lạc loài, những “công dân” thuộc đối tượng cần theo dõi, quản lý!
Tình yêu lãng
mạn bay bổng giờ đây là nguyên nhân biến Hoàng Yến thành kẻ “tội đồ”, thậm chí
“phản bội”, chẳng những với người con gái hiền thảo xứ Huế mà còn cả với đàn
con mà họ vừa sinh ra…
1- Từ
bài phê bình “Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không” trên tuần báo Văn nghệ số 65
(11- 20/3/1955)
Đây là bài
viết của Hoàng Yến trong loạt bài phê bình tập thơ Việt Bắc đăng trên tuần báo Văn
nghệ, và tiếp đó, báo Nhân Dân (Đọc
thơ Việt Bắc của Tố Hữu, ba kỳ, 3,4 và 5/4/1955). Trước đó, báo Nhân Dân, số Tết Ất Mùi đăng bài của
Xuân Trường, rồi báo Văn nghệ đăng
bài của nhà thơ Xuân Diệu (2 kỳ), âm hưởng chủ đạo là ca ngợi, nhưng đến Hoàng
Yến thì giọng điệu khác hẳn. Bài phê bình ra đời cách ngày nay đúng 60 năm. Nó
như một quả bom tấn nổ tung giữa vùng trời văn nghệ, chẳng những làm cho tác
giả, đang giữ ngôi chủ soái trên thi đàn, người từng đặt mình ngang hàng với
Nguyễn Du (Khúc vui lại muốn so dây cùng
người), choáng váng, mà còn như một gáo nước lạnh, hạ nhiệt rất nhanh cơn
sốt lên đồng của cả một thế hệ độc giả công nông đang mê mẩn thơ Tố Hữu như một
hội chứng. Tuy nhiên, cảm phục khí phách của Hoàng Yến chỉ vị nghệ thuật, không
sợ cường quyền một, thì người đọc cảm phục “con mắt xanh” của nhà thơ gấp mười
lần. Ông sớm nhận ra những chỗ chưa phải
là thơ của tác giả Việt Bắc trong khi
những người khác lại ca tụng hết lời, nâng Tỗ Hữu lên tầm cỡ “thi hào” có thể
sánh ngang với những Maiakovsky, Aragon…
Trong bài viết
của mình, cho dù Hoàng Yến chỉ dẫn ra một số bài thơ mà ông cho là “chưa hiện
thực”, tuy nhiên, sau khi đọc kỹ những đoạn phân tích khá thấu đáo của ông dưới
quan điểm “văn nghệ sĩ phản ánh hiện thực cuộc sống”, người ta ngầm hiểu ra rằng,
thơ Tố Hữu có khá nhiều bài sáo rỗng, dễ dãi cả về cấu tứ lẫn nội dung biểu
đạt, thậm chí có những bài chỉ dừng lại ở trình độ… vè! Phải thừa nhận, cho dù
là nhà thơ, nhưng Hoàng Yến có phong cách của một cây bút phê bình sắc sảo với
nhãn quan thấu thị, phát hiện ra những bất cập trong tập Việt Bắc qua các bài Phá
đường, Lên Tây Bắc, Lại về, và nhất là bài Việt Bắc được xem như một trường ca nổi
tiếng một thời làm nên tên tuổi Tố Hữu sau chiến thắng Điện Biên.
Điều làm người
đọc thích thú là, khi phê bình tập Việt
Bắc, Hoàng Yến đứng trên lập trường quan điểm của mỹ học Marxism, dùng tiêu
chí “hiện thực cách mạng” để soi xét nội dung và hình thức tác phẩm. Với Hoàng
Yến, không loại trừ khả năng, khi viết bài phê bình, ông đã lờ mờ nhận ra,
“hiện thức cách mạng” cũng chỉ là một thuật ngữ duy ý chí, vốn không có căn cơ
và không hề tồn tại như một phạm trù thẩm mỹ đối với thi ca. Nó là sản phẩm của
hệ ý thức đấu tranh giai cấp được di thực sang địa hạt văn chương, mà phải nửa
thế kỷ sau, khi đã có một độ lùi thời gian đủ dài, chúng ta mới nhận ra chân
tướng của nó phía sau những ngôn từ đẹp đẽ. Đó là một quan niệm thô thiển, ấu
trĩ được hợp thức hóa từ Bài nói chuyện ở
Diên An sặc mùi sắt máu của Mao Trạch Đông với phương châm “văn học phục vụ
chính trị”, biến một loại hình nghệ thuật mang tính tự do sáng tạo của cá nhân
thành công cụ truyên truyền, cổ xúy cho đường lối chính trị phiêu lưu. Những
bài gọi là “phê bình” trên các diễn đàn văn học nghệ thuật do sự chỉ đạo của
Ban Tuyên huấn Trung ương phê phán nhóm “Nhân văn – Giai phẩm” vào cuối thập kỷ
năm mươi của thế kỷ trước, thực chất là chiến dịch đánh hội đồng, dùng thành
phần “công nông binh” làm chiêu bài để triệt hạ những văn nghệ sĩ không chịu
tuân theo đường lối sáng tác của Đảng.
Cho nên, nếu
chịu khó đọc kỹ bài viết của Hoàng Yến, người đọc tinh ý sẽ nhận ra ngay, cái
tiêu chí “hiện thực cách mạng” mà ông nói chỉ là cái cớ để che mắt thế gian,
còn nội hàm của nó lại nhân danh những đặc điểm thẩm mỹ phổ quát của loại hình
thi ca đích thực. Thật là một thủ pháp cao tay: “dĩ độc trị độc”.
Ta hãy nghe
Hoàng Yến phê bình tập Việt Bắc qua
bài thơ Phá đường:
“Đoạn sau tác
giả mô tả cảnh phá đường bao trùm trong không khí phấn khởi thi đua làm việc.
Đây cũng lại là những cảnh lao động thông thường chung chung mà người ta thường
bắt gặp bất kỳ ở hậu phương hay tiền tuyến, trong công tác phá hoại hay kiến
thiết. Cái đặc trưng của tình cảm phá đường vẫn chưa được lột tả.
Cách đây không
lâu, tôi nhớ có đọc một bài thơ của người anh em mô tả cảnh đắp đường. Nội
dung, bố cục cũng giống na ná như bài Phá
đường. Tuy cách nói có khác nhau nhưng ý tình cũng vẫn là: “Nhà em con bế
con bồng/ Em cũng theo chồng đi (đắp) đường quan”, cũng: “Hì hà, hì hục, lục
cục, lào cào”, cũng thi đua phấn khởi: “Anh tài thì em cũng tài/ Đường dài ta
(lấp) sức dai ngại gì”.
Tôi bỗng tự
hỏi, thế thì tình cảm của con người “phá đường” trong kháng chiến và “đắp
đường” trong hòa bình khác nhau ở chỗ nào? Câu hỏi ấy, tác giả bài Phá đường trong một vài câu đơn để vào
đoạn cuối:
Thằng Tây mày cứ vẩn vơ
Có hố này chờ chôn sống mày đây…
Ớ anh, ớ chị nhanh tay
Nhanh tay ta cuốc chôn thây quân thù
chưa giải đáp được thỏa đáng.
Dĩ nhiên trong
hai sự việc ấy, trông bên ngoài đều có những hiện tượng, những động tác giống
nhau. Lưỡi cuốc phá đường chặn giặc và lưỡi cuốc đào mương khai nước cùng là
một lưỡi cuốc. Nhưng trong mỗi sự việc, có những tình ý khác nhau, những tâm tư
khác nhau… Tình cảm phá đường là tình cảm tiêu biểu trong một giai đoạn kháng
chiến… Cái ý chí diệt thù, người dân phá đường đem trút lên từng nhát cuốc,
đường gân. Có thế, cái khía cạnh tích cực của tình cảm phá đường mới khơi động
được sâu sắc. Cái khía cạnh tích cực của tình cảm ấy, cái đau xót chân thành ấy
tôi tưởng đã lột tả được trong mấy câu mở đầu của một bài ca dao kháng chiến ở
Liên khu Năm:
Lấy búa mà bửa chân trời
Lấy dao mà chặt lìa đôi nhịp cầu
Thà rằng cách trở sông sâu…
Con đường ấy,
cái cầu ấy thường ngày đã in bao dấu vết của cuộc sống thân yêu, thế mà bây giờ
phải lấy dao mà chặt lìa đôi nhịp cầu. Và thà rằng đó đây có cách trở sông sâu
đi nữa, còn hơn là để cho giặc có cầu giặc qua.
Một câu thơ
phá đường khác của một người du kích Nam Bộ nói lên tình cảm ấy một cách gọn
ghẽ, trọn vẹn và tài tình hơn:
Con đường số Bẩy của tao
Nó đi theo giặc tao đào nó đây.
Tay đào con đường mà lòng tưởng như phải giết chết một
người thân yêu phản bội đi theo giặc. Có thế mới phản ánh được cuộc sống sinh
động muôn vẻ, muôn màu. Có thế mới gợi lên được những tình cảm vĩ đại kết tinh
từ máu lửa…trong cuộc kháng chiến anh dũng trường kỳ”.
Về bài Lên Tây Bắc, Hoàng Yến phát hiện ra,
hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong thơ Tố Hữu quả là đẹp, nhưng đó chỉ là cái đẹp
bên ngoài mà không diễn tả được vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ: “Nhưng đó là cái
đẹp bên ngoài, cái đẹp hiên ngang, bóng dài trên đỉnh dốc, trong ánh nắng
chiều…. Trước ‘cái vô cùng gian khổ’, cái gian khổ cao độ và trường kỳ của
những người lính chiến đấu, mấy câu thơ trên quả là bàng quan bất lực.
Và ở đây tôi
cũng lấy làm lạ tại sao tác giả đã cùng chiến sĩ đồng cam cộng khổ, chia ngọt
sẻ bùi, trong hành quân, lúc chiến đấu đã từng “vắt cơm thấm nước, tàu lá lót
lưng” mà không hề đả động đến mối tình ruột thịt ấy”. Ngay sau đó, Hoàng Yến
nhận xét sâu hơn: “Nhưng một khi nhà thơ không đi sâu vào tâm hồn mà trở lại
làm người khách của bộ đội để ‘chúc anh pháo binh bắn thẳng vào đồn cho đúng’,
để ‘anh đại bác, tôi chờ anh để hát’ thì dòng thơ lại trở nên dửng dưng, thiếu
sinh khí…Đọc xong bài ‘Bắn’ chúng ta thấy không gợi được một cảm giác gì, không
để lại một ấn tượng gì dù là không sâu sắc. Con mắt nhìn đồi địch trên khoảnh
đồi đỏ ‘ngon như miếng thịt bò tươi’ thì thật là xa lạ với chiến sĩ…Không kể
đoạn giữa bài thơ mô tả một cách tự nhiên và thô sơ cảnh trông đợi khai hỏa và
cảnh chào cờ trong đồn địch, ngay đoạn tác giả gợi căm thù cũng rất chung
chung, đại khái, không sôi sục được lòng người đọc:
“Bao đồng chí của ta bay đã giết
Chặt đầu cắm cọc phơi khô
Chị em ta, bay căng thịt lõa lồ
Con em ta bay quẳng chân vào lửa
Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa
Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang…”
Tác giả đã nói
đúng và đủ. Nhưng chất thơ không phải ở chỗ đúng và đủ. Đặc tính của thơ là nói
ít mà gợi nhiều. Có thể nói tác giả đã tổng kết sự việc trên tài liệu chứ chưa
kinh qua thực tế cuộc sống để tổng kết chất thơ…Cái nhược điểm trên đây đã làm
một số bài thơ trong tập Việt Bắc ít
rung cảm được người đọc và làm yếu tác dụng hiện thực đi nhiều.
Đọc xong Việt Bắc, hình ảnh để lại trong lòng ta
là những hình ảnh đèm đẹp, ý nhị, nhẹ nhàng. Khía rung động sâu sắc nhất là
khía mến thương thắm thiết, tâm tình, phần lớn đều có dáng dấp hiền lành dìu
dịu.
Đối chiếu với
cuộc sống mãnh liệt đi băng băng như con ngựa phi, cuồn cuộn như dòng thác đổ,
thơ Tố Hữu còn bước những bước đi thong thả, dòng thơ còn trôi chảy lặng lờ,
đôi lúc cũng có xông xáo những chỉ là những sóng nhỏ vỗ bờ”.
Nhận định về
bài thơ Việt Bắc trong tập thơ này,
Hoàng Yến viết: “Nhưng khi Tố Hữu nói đến cái Việt Bắc oai hùng, cái đất thần
thánh, thiêng liêng của Cách mạng thì hơi thơ đuối, khí thơ đoản, cái nhiệt
tình nóng chảy trên kia tưởng như giảm sút đi. Những câu:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc những đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.
Và những đoạn
như:
“Ai về ai có nhớ không
Ta về ta nhớ Phủ Thông, Đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”
chưa dựng được
trong lòng ta cái Việt Bắc tôn kính, khởi điểm của Cách mạng, chủ não của kháng
chiến, miếng đất lịch sử đã ghi những chiến thắng lịch sử quyết định bước
chuyển biến của cả một giai đoạn chiến tranh”.
Ở một đoạn
khác Hoàng Yến viết: “Tôi nghĩ rằng thơ thời đại phải dựng được cái quá trình
sinh thành của những tình cảm mới. Điểm này thơ Tố Hữu chưa tiêu biểu một cách
đầy đủ”. Bài Việt Bắc được xem là
điểm nhấn của cả tập thơ, một trường ca đưa Tố Hữu thành ngôi sao sáng chói
(không có đối thủ) trên văn đàn công nông binh lúc bấy giờ bị nhà thơ Xứ Quảng
điểm trúng huyệt đạo: “Khác với câu thơ lục bát trong sáng hồn nhiên trong bài Bầm ơi!, câu thơ trong bài Việt Bắc uốn éo với một lời duyên dáng
nửa cũ nửa mới thiếu thành thực. Kỹ thuật thơ trong bài Việt Bắc rất điêu xảo nhưng
nội dung tình cảm rất yếu đuối và có chiều đi xuống”.
2- Đến
“Tình người soi dặm đường…”
Năm 1957,
Hoàng Yến cho ra mắt bạn đọc tập thơ Tình
người soi dặm đường do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Đây là tập thơ
mỏng, vẻn vẹn chỉ có 10 bài, nhưng ngay sau khi phát hành nó đã gây ra những
phản ứng khác nhau ở cả hai phía: công chúng yêu văn chương và các nhà phê bình
chỉ điểm thuộc trường phái “văn học phục vụ chính trị”. Trong bối cảnh xã hội
Việt Nam vào nửa cuối thập kỷ năm mươi, thế kỷ XX, nói cho công bằng, thì Tình người soi dặm đường chẳng khác gì
một văn bản “nghệ thuật vị nghệ thuật” trêu ngươi, một thi phẩm lạc lõng trong
dàn hợp xướng công nông vốn lấy tiêu chí tụng ca làm chủ đề quán xuyến. Nó
giống như hiện tượng “thơ tự do không vần” của Nguyễn Đình Thi năm 1948 nhưng
mức độ nghiêm trọng hơn dưới góc nhìn nghiêm khắc của Ban Tuyên huấn Trung ương.
Quả vậy, Tình người soi dặm đường
không lấy quan điểm “đấu tranh giai cấp” từ cuộc Cải cách ruộng đất để “người
cày có ruộng”, hay tố cáo bọn “đế quốc sài lang” làm đề tài, qua đó biểu hiện
lòng yêu Đảng, yêu Tổ quốc, căm thù chế độ Ngô Đình Diệm độc tài phá hoại sự
nghiệp thống nhất đất nước… mà lại viết về tình yêu đôi lứa, về tình cảm vợ
chồng, về cái đẹp trong cảm quan nghệ sĩ thông qua những suy tư, trăn trở đầy
chiêm nghiệm. Lại nữa, trong khi các nhà thơ đầu đàn thuộc trường phái thơ “cổ
động” luôn sử dụng hình thức dân tộc như lục bát, song thất lục bát, lục bát
biến thể mang âm hưởng ca dao làm phương thức chủ yếu diễn đạt tư tưởng, tình cảm
trong sáng tác, thì Hoàng Yến lại vận dụng một lối thơ hết sức xa lạ với quan
điểm thẩm mỹ của quần chúng nhân dân lao động lúc bấy giờ. Nhớ lại năm 1948, khi
mà Nguyễn Đình Thi công bố một số bài thơ “tự do” có tính thể nghiệm, ngay sau
đó, Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức mấy cuộc hội thảo, thực chất là kiểm điểm để
chấn chỉnh hiện tượng lêch lạc, đi chệch đường lối văn nghệ của Đảng. Trong vụ
này, đầu lĩnh ngành tuyên huấn còn chỉ đạo cả những văn nghệ sĩ có tên tuổi
“đánh” tác giả “Vỡ bờ” khiến cho ông Tổng thư ký Hội Nhà văn, đến mấy chục năm
sau, trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ ba có Tố Hữu đến dự, đã trịnh trọng
tuyên bố câu nói để đời “Các nhà văn chúng ta…là những hạt bụi lấp lánh ánh
sáng của Đảng”. Thế nhưng, Hoàng Yến không phải là quan chức văn nghệ như
Nguyễn Đình Thi nên hiển nhiên không muốn làm hạt “bụi lấp lánh” phản chiếu ánh
sáng từ một tinh cầu mờ nhạt. Ông muốn thắp lên ngọn lửa thi ca lấp lánh từ
chính trái tim mình. Cho nên, cùng viết
về Cách mạng và cuộc hành trình dài dằng dặc của nó, trong khi các nhà thơ
đương thời đồng ca một giọng điệu, thậm chỉ một âm vực khẳng định “kháng chiến
nhất định thành công”, thì Hoàng Yến lại có cách lý giải riêng:
“Chưa biết đường đi bao lâu
Chỉ biết cuộc đi bắt đầu
Chưa biết đường xa hay gần
Chỉ biết đường mang dấu chân
Một người dân
không nô lệ
19 tháng 12
Từ ngày ấy
Tôi đi vào Tổ quốc
Như đi vào
bí
mật
của
tình yêu”.
(19 tháng 12 – Hoàng Yến tuyển tập. NXB HNV, 2007)
Với
bài Đường đi mặt trận mở đầu tập thơ,
Hoàng Yến có cách diễn đạt tâm trạng không phụ thuộc vào hoàn cảnh hiện thực
trực tiếp với thời gian, không gian vật lý, không nói đến cái háo hức của người
chiến binh muốn cầm súng xả đạn vào quân thù, mà tác giả lại nhớ đến người vợ
trẻ như một ẩn dụ về hiện thực của chiến tranh:
“Đường đi mặt trận
Sắn khoai vừa giồng
Vợ nhà vừa cưới
Bóng trăng theo chồng
Đường đi mặt trận
Nước đồng gợn trăng
Gió tre hoa bóng
Gợi tình chiếu chăn
Đường đi mặt trận
Đi qua ngõ nhà
Ríu chân dồn bước
Trăng sáng nõn nà
Bóng trăng người vợ
Gửi người đi xa
Đường đi mặt trận
Đẩy lùi lại sau
Mối thương lận đận
Của buổi ban đầu”.
Đọc Tình người soi dặm đường, ta chợt nhận
thấy còn rất nhiều điều Hoàng Yến không tiện nói ra. Ông gửi tâm trạng mình vào
giữa những dòng chữ như một thứ ám dụ về chiến tranh, về nhân tình thế thái qua
khung cảnh buồn man mác khi mà đôi lứa phải chia ly. Bên cạnh những câu thơ bộc
lộ niềm nhớ thương người vợ trẻ vốn là tình cảm tự nhiên của con người, tác giả
cũng có những bài tự sự về Tổ quốc, nhân dân, trong đó ông nhấn mạnh đến tư
cách kẻ sĩ một khi đối diện với lương tâm mình:
“Nàng thơ bỗng cười to
Chỉ tay vào ngực
Nơi sự thật không trang sức
Một gã làm thơ công chức
Bôi bẩn mực giấy
trắng
lương tâm
Lại đòi làm cây trầm
đứng thơm cả núi.
Tôi cúi đầu
Nếu có một lần sau
Dù phải kiếp ngựa trâu
Xin yêu người
trong
vô thức
Viết bằng mực
của
trái tim đau”.
( Nếu có lần sau, Hoàng
Yến tuyển tập, NXB HNV,2007)
Thế là đủ.
Phải nằm phục những hai năm giờ mới có cớ để ra tay. Tập thơ Tình người soi dặm đường chẳng khác gì
giọt nước tràn ly. Ngay cái tên cũng đã ngứa mắt, sao không phải là “cách mạng
soi đường ta đi” mà cứ phải “tình người”?
Có cái gì đó vẫn còn rơi rớt của chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản ở đây! Kế sách
dụ rắn ra khỏi hang kiểu “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” của bác Mao triển khai bước đầu đã thành công. Chứng
cứ rõ ràng bằng giấy trắng mực đen, còn chờ gì nữa mà không xếp cây bút phản
động này vào cùng một rọ với bọn Nhân văn- Giai phẩm, sau đó sẽ bật đèn xanh để
các “dư luận viên” mẫn cán phát động quần chúng công nông, dằn mặt cho hắn biết
thế nào là dám vuốt râu hùm! Nhận xét về “vụ” Tình người soi dặm đường, nhà văn Huy Phương viết: “Ở cái thời điểm
sôi bỏng của văn học nghệ thuật những năm 1957- 1958 ấy, tập thơ nhỏ của anh,
với giọng điệu đa cảm của nó, đã vấp ngay phải phản ứng của một vài cây bút phê
bình đang ráo riết canh giữ tính chiến đấu và lạc quan của thơ văn. Một vài bài
viết hoặc phát biểu thẳng thắn của anh trước đó trên mặt báo và trong những
cuộc thảo luận về thơ là cái ngòi đã châm sẵn. Và tập thơ khiêm tốn ấy đã trở
nên giọt nước rơi vào cốc nước sắp tràn…”.
Từ đây là những tháng ngày trầm luân đối với
đời thơ Hoàng Yến. Ông bị đình chỉ công tác tại Phong Văn nghệ Quân đội, bị
điều đi cải tạo trên nông trường Vân Lĩnh, Phú Thọ, bị “bức” phải li dị vợ con,
rồi sau đó bị “phát vãng” sang bộ Văn hoá làm công tác văn hoá quần chúng. Cái
tên Hoàng Yến không báo nào, nhà xuất bản nào chịu in, đành lấy bút danh Thạch
Tiễn, Hoàng Đức Anh… và bán tên cho người khác để kịch bản được dàn dựng.
Thế nhưng,
thời gian là vị giám khảo công bằng nhất đối với những gì là văn chương đích
thực. Với Hoàng Yến, thơ của ông nặng về tình người cùng với những suy ngẫm về
thân phận con người trong chiến tranh hơn là những lời tuyên ngôn nặng mùi sắt
máu. Bài thơ Một giọng đàn, một dòng sông
Hoàng Yến viết vào năm 1957 là một trong số đó:
“Tiếng đàn bên tai tưởng trong cơn mê sảng
Ánh đèn đường hay sáng bóng trăng
Mưa bụi rơi không tiếng trên thềm
(…)
Đã từ lâu tôi có biết khóc đâu
Mỗi tiếng đàn đưa tôi xuống một chiều sâu
Đi về những dặm chim
Những con đường hôm qua máu rỏ
Lãng quên chưa hề mọc cỏ…”
Thơ ấy là thơ
tâm trạng, là tiếng lòng của một tâm hồn tinh tế đã chuyển hóa một cách tài
tình qua những tín hiệu ngôn ngữ tạo thành một văn bản nghệ thuật mang tính đặc
thù, riêng một phong cách làm thổn thức bao trái tim đa cảm nhưng không hòa
nhịp được vào dàn hợp xướng công nông binh vừa thoát nạn mù chữ qua phong trào “Bình
dân học vụ” lúc bấy giờ. Đây cũng chính là bi kịch của những nhà thơ đi trước
thời đại.
Theo quan điểm
ấu trĩ của các nhà tuyên huấn, những người có trách nhiệm chăm sóc “phần hồn” cho
văn nghệ sĩ, cách mạng là sự nghiệp lớn lao của cả một dân tộc, gia đình chỉ là
thứ yếu, thậm chí không là gì cả, vì vậy, người chiến sĩ phải hy sinh tình cảm
cá nhân để có được tình cảm cách mạng. Thế nhưng, Hoàng Yến lại làm trái với
quy trình trên, khi mà trên đường hành quân ông viết về cho người vợ thân
thương với hình ảnh sông Hương, đường Kim Long phượng đỏ ngày nào, những dòng
thơ tràn đầy nỗi nhớ nhung:
“Em ơi em có biết
Rời bàn tay tạm biệt
Là lúc trời xanh biếc
Chân anh vướng chân em.
Em ơi em có biết
Mưa đông chiều chiến dịch
Mùi nhớ nặng trong hồn
Có pha chút hoàng hôn.
Em ơi em có biết
Em đã thành người vợ
Mẹ của Tùng-Thu-Phương
Nhưng em vẫn em Nương
Của anh vẫn người thương
Đường Kim Long phượng đỏ…”.
Viết về Hoàng
Yến, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn trong bài “Thi
nhân trên ngã ba mây”, đăng trên tuần báo Văn nghệ số 13 năm 2009, đã nhận xét khá chính xác về tư cách nghệ
sĩ của ông: “Một nhà thơ đích thực dù che đi lý lịch, che đi địa vị thì diện
mạo vẫn hiện ra trong thơ… Hoàng Yến không có thái độ cách tân thơ bằng hình
thức cầu kỳ. Ông thay đổi thẩm mỹ thơ bằng chính nội dung. Do đó, Hoàng Yến
viết được nhiều thể loại một cách mới mẻ. Thơ lục bát của Hoàng Yến xa vắng: “Giấc xưa bỏ ngỏ chờ em/ Lầu xưa vẫn đợi
trăng lên mặt người/ Em xuôi bến lạ tìm mơ/ Thuyền côi cắm mục hai bờ sông mưa”.
Thơ ngũ ngôn của Hoàng Yến lắt léo: “Ôi!
Cái nhìn vạn lý/ Vụ ly dị trường thành/ Trời viết mây hồi ký/ Cây tòa án vẫn
xanh”. Thơ chia mỗi khổ bốn câu theo lối truyền thống của Hoàng Yến vẫn
không cho phép vần điệu che mờ cảm xúc: “Thần
ái tình chết từ đầu thế kỷ/ Lứa đôi nay không thể bóng trăng xưa/ Tình chung
thủy là món hàng xa xỉ…/ Sao ngõ hẹn một đời anh vẫn đứng đợi mưa?”.
Cách tiếp nhận
và biểu đạt các dạng thức tình cảm trong thơ Hoàng Yến rất đa dạng với những
biến thái bất ngờ làm người đọc đương thời đôi khị bị “choáng”. Ông không cầu
kỳ chọn câu chữ mà liên kết câu chữ trong một tập hợp tối ưu tạo thành sự bùng
nổ ngôn từ. Cấu trúc thơ Hoàng Yến là loại cấu trúc phức hợp kết hợp với kỹ
năng ngắt nhịp linh hoạt. Ông không mấy quan tâm đến vần điệu nhưng lại đặc
biệt chú ý đến nhạc điệu nên câu thơ lúc nào cũng sinh động tạo nên lực hấp dẫn
mê hoặc các thế hệ độc giả. Tuy nhiên, kỹ xảo cho dù điêu luyện đến mấy cũng
chỉ là hình thức bên ngoài. Điều đáng chú ý vẫn là cái thần thái từ nơi sâu
thẳm tâm hồn Hoàng Yến lúc ẩn lúc hiện qua mỗi dòng chữ như có ma lực dẫn dụ
người đọc. Hoàng Yến độc hành trên con đường thi ca đầy trắc trở, vậy mà có
những lúc ông cảm thấy như mình đang bồng bềnh “Trên ngã ba mây”. Vào những năm
năm mươi của thế kỷ trước, không ai diễn tả tình yêu phức tạp như Hoàng Yến khi
mà ông bộc lộ tất cả những cung bậc tâm hồn bằng những câu chữ đầy nội lực biến
ảo:
“Tên em
Chiều nhớ
Hành hương
Tiếng dế đồng sương
Tên em
Một thiên đường đã mất
Một thiên đường chưa mở ngỏ
Một thiên đường xưa cha ông để lại
Di truyền anh qua ký ức bào thai
Qua vùng sáng trên trang sách nát
Qua thân xác trần truồng
những
giấc mơ trôi dạt
Đêm đêm tấp bến Ngân Hà”.
Đương nhiên,
những nhà phê bình chỉ điểm, luôn căn cứ vào câu chữ để đánh giá tính hiện
thực, tính giai cấp và tính Đảng cũng như phẩm chất cách mạng của văn nghệ sĩ
không thể chấp nhận loại thơ này. Chỉ riêng tập thơ Tình người soi dặm đường, Hoàng Yến đã được ngành an ninh văn hóa
ghi danh vào “sổ đen” cùng với Trần Dần, Lê Đạt , Hoàng Cầm…
Thư của nhà văn Võ Quảng gửi Hoàng Yến
ngày 16 tháng 11 năm 1998
3-
Công Tằng Tôn Nữ Tùng Nương
Thói đời “giậu
đổ bìm leo”. Đến đúng thời điểm thích hợp, người ta mới tính sổ với Hoàng Yến,
sau khi đã gộp cả tội cũ lẫn tội mới, trong đó, nặng nhất là tội “chống lại
đường lối văn nghệ của Đảng”. Lúc ấy Hoàng Yến là đại úy Quân đội nhân dân Việt
Nam,
bị khai trừ Đảng, đưa đi cải tạo lao động ở nông trường quân đội Vân Lĩnh, Phú
Thọ.
Sau vụ kỷ luạt
đầy uẩn khúc này, cuộc đời nhà thơ tài danh xứ Quảng bắt đầu chuyển sang một
trang u ám. Có những con mắt đố kỵ nào đó luôn theo dõi nhất cử nhất động của
ông. Cũng bắt đầu từ đây, gia đình ông tan đàn sẻ nghé. Người vợ thân yêu cũng
đàn con dại bị tách ra khỏi người chồng, người cha mang tội danh “Nhân văn-
Giai phẩm”. Mọi trách nhiệm nuôi dạy con cái trút lên đôi vai gầy của người phụ
nữ xứ Huế: Công Tằng Tôn Nữ Tùng Nương bút hiệu Lan Châu.
Nữ sĩ Lan Châu
sinh năm 1927, là hậu duệ trực hệ đời thứ năm của vua Thiệu Trị, là một phụ nữ
hoàng tộc có học vấn. Nữ sĩ Lan Châu tham gia phong trào Âu hóa từ rất sớm. Bà
ham chơi các môn thẻ thao nhất là quần vợt. Năm 1943, chỉ bằng một cuốn sách tự
học tiếng Nhật, bà đã trở thành cô giáo dạy tiếng Nhật cho học sinh nữ trung
học Đồng Khánh. Cũng vào năm ấy, cô giáo trẻ kinh thành Huế cảm mến chàng trai
xứ Quảng tài hoa Lê Hoàng Yến sau mấy lần tương ngộ. Cuộc tình kết thúc có hậu
như một mối lương duyên “thiên tải nhất thì” không gì đẹp và lãng mạn hơn. Thế
nhưng, mối tình tưởng như keo sơn ấy lại khơi mào cho một màn bi kịch không
tiền khoáng hậu. Cái hạt giống cách mạng mà Hoàng Yến gieo vào tâm hồn các công
nữ quý tộc nào hay đã vô tình kéo họ vào “kiếp đoạn trường”.
Trong tập bút
ký Bạn văn ngoài vùng phủ sóng, nhà
văn Hoàng Minh Tường đã viết về chân
dung nữ sĩ Lan Châu qua bài “Công Tằng
Tôn Nữ Tùng Nương – Đời và thơ” với những tình tiết vô cùng xúc động: “Một
tai họa khủng khiếp mà cho tới bây giờ tôi vẫn thấy rụng rời – Nhà thơ Lan Châu
nhớ lại - Vợ một kẻ phản động, bị khai trừ khỏi Đảng, bị đi cải tạo. Khủng
khiếp quá. Rất nhiều ngày đến cơ quan, tôi không dám ngẩng mặt nhìn ai. Tôi như
người mắc bệnh hủi bị loại bỏ khỏi cộng đồng, như kẻ phản bội bị mọi người ghê
sợ, xa lánh. Chiều về mẹ con chỉ biết buồn bã, ngậm ngùi. Nghĩ mình phận mỏng
cánh bèo. Mình đã là con nhà phong kiến, dòng dõi vua quan nhà Nguyễn phản dân
hại nước, giờ chồng lại Nhân văn Giai phẩm, các con sẽ sống sao đây? Sau nghiều
ngày đấu tranh dằn vặt, năm 1960, tôi quyết định rời Hà Nội, nơi gạo châu củi
quế, nơi khó nuôi nổi các con chỉ bằng một bìa tem phiếu công chức quèn loại E,
nơi định kiến xã hội với bọn Nhân văn - Giai phẩm quá nặng nề. Tôi xin chuyển
công tác lên bệnh viện Phú Thọ, gần nơi cải tạo của chồng, và cũng là vùng
trung du có đất đai để chăn nuôi trồng trọt, may ra nuôi nổi các con…”.
Từ nàng thiếu
nữ lá ngọc cành vàng đến cô y sĩ phụ sản ở bệnh viện miền sơn cước với đàn con
trứng gà trứng vịt trong cảnh đói nghèo triền miên, đối với Lan Châu là cả một
sự đổ vỡ niềm tin. Xã hội vận hành như một nghịch lý, khi mà hầu hết người dân
sống dưới mức nghèo khổ thì một bộ phận khác lại được phân biệt thự, có phiếu
mua hàng cao cấp ở cửa hàng riêng và, véo von ca ngợi: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng/ Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng/ Trông lại
ngàn xưa trông tới mai sau/ Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu”. Cũng vào
thời điểm ấy, mẹ con Lan Châu phải cuốc nương trồng sắn ăn thay gạo, đêm đêm
đốt lửa sưởi để chống cái rét cắt da vùng thượng đạo, thì vẫn có người nằm
trong chăn nệm ấm ngâm nga: “Tôi viết cho
ai bài thơ 61/ Đêm đã khuya rồi gió về tê buốt/ Hà Nội rì rầm còi thổi ngoài ga/(…)
Ba con tôi đã ngủ lâu rồi/ Còn bao nhiêu chưa được ngủ trong nôi/ Miền Bắc
thiên đường của các con tôi”… Chẳng cần phân tích dài dòng, cứ đọc những vần
thơ trong bài Phận nước bèo của nữ sĩ
Lan Châu ( trong tập thơ Hương Giang chiều, NXB Hội Nhà văn, 2007) dưới đây chúng ta sẽ hiểu được hoàn cảnh và tâm trạng
của người phụ nữ quý tộc rời bỏ xứ Huế theo chồng hy vọng tìm thấy “thiên đường
cách mạng”:
“Trong mơ dệt thắm
Bao hoài bão
Thực tế ngỡ ngàng
Tay…trắng tay
Tỉnh giấc mộng vàng
Sương nhuộm tóc
Vẫn thấy tay mình
Nắm chặt
Trắng…bàn tay”.
Rất may, bà là người mẹ có bản lĩnh, dám đội
đơn lên “triều đình” gặp đích danh ông lớn, (vốn từng là người đồng chí trong
tổ chức Thanh niên Phản đế ở Huế trước cách mạng tháng Tám 1945, - Tố Hữu, Võ
Quảng, Hoàng Yến), đã xuống tay trừng phạt chồng mình, kêu oan cho mấy đứa con
vốn chẳng có tội tình gì nhưng … không được vào đại học vì có người cha…phản
động!
Tuy nhiên việc
“lai kinh” đối với Lan Châu chưa phải là đoạn cao trào của vở bi kịch cuộc đời.
Nỗi đau nhất của bà chính là phải cắn răng viết đơn ly hôn với chồng để những
đứa con có được bản lý lịch “trong sạch”. Đây cũng lại là một nghịch lý trong
xã hội có quá nhiều nghịch lý. Nó là nỗi ám ảnh thường trực, là sự hãi hùng đối
với bất cứ ai có nguồn gốc gia đình không thuộc thành phần bần cố nông! Hầu như
tất cả tiếng nói phản biện bị triệt tiêu. Phản biện là phản động. Đời cha chẳng
may bị nhiễm vết đen thì đời con chỉ có …quét lá đa! Tờ giấy ly hôn bằng bàn
tay nhưng có sức nặng ngàn cân. Nó là minh chứng hùng hồn cho những gì được gọi
là nghịch lý của một xã hội lấy đấu tranh giai cấp làm phương thức cai trị.
Sau khi hết
hạn lao động cải tạo, Hoàng Yến được chuyển về Cục Sân khấu Bộ Văn hóa. Cuộc ly
hôn bất đắc dĩ giữa hai người là ngọn đòn phũ phàng đánh vào tâm lý đàn con.
Nhưng đó là những người con của một bà mẹ giàu nghị lực. Sau này tất cả đều qua
bậc đại học và thành đạt, trở nên những công dân đáng kính, nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn họ, vết thương tinh thần không bao giờ kín miệng.
Với Hoàng Yến,
vẫn theo hồi ức của nhà văn Huy Phương, thì số phận nghiệt ngã đã vây bủa ông
đến cùng. Trước mắt các nhà tổ chức, người nghệ sĩ tài hoa xứ Quảng là kẻ tội
đồ vĩnh viễn không bao giờ được ân xá trong một xã hội đồng phục: “Còn nhớ mãi
một buổi chiều, hai chúng tôi ngẫu nhiên gặp nhau bên góc Hồ Gươm, Hà Nội.
Hoàng Yến với chiếc áo quân phục màu rêu tàng tàng từ trên xe đạp bước xuống,
vỗ nhẹ lên vai tôi: ‘Có lẽ mình sắp chuyển ngành đây. Thời buổi này còn thơ
thẩn quái gì. Cái thể loại này nó vulnérable*
lắm. Mà chúng mình lại quá hồn nhiên..”. Đây há chẳng phải lại là một lời từ
biệt với nàng thơ giống như thi sĩ Nguyễn Bính dặn lại con: “Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/ Nghèo lắm
con ơi bạc lắm con!”? Còn nhà văn Hoàng Minh Tường, vẫn trong bài bút ký
nổi tiếng của mình, viết về quãng đời sau này của Hoàng Yến đầy cảm khái:
“Hoàng Yến chuyển sang viết kịch, biên khảo kịch và tiểu thuyết lịch sử. Trong
những ngày sống ở khu tập thể của Bộ Văn hóa phố Lê Văn Hưu, rồi chuyển xuống
căn nhà tạm ở phố Mai Hương, nhà thơ Hoàng Yến sống gá nghĩa trong mười năm với
nữ nghệ sĩ Thùy Linh. Những tác phẩm của ông từ đây hoặc lấy bút danh Thùy Linh
hoặc cộng thêm một đồng tác giả Thùy Linh. Để tránh cái họa vulnérable của thơ, ông đành mượn chuyện
đời xưa để gửi gắm tâm can, những suy nghĩ về thời cuộc. Các vở kịch và tiểu
thuyết lịch sử của ông lần lượt ra đời: Câu
thơ yên ngựa, Chân mây khép mở, Thanh gươm và cô Đô đốc, Hình và bóng, Kẻ trộm
nước trời, Suối hoa, Đêm Tiền Hải, Lý Thường Kiệt… Có vở kịch như Thanh gươm và cô Đô đốc vừa công diễn đã
có tiếng vang, được gửi đi Paris
dự liên hoan. Có vở như Hình và bóng,
công diễn ở Hải Phòng, gây chấn động như một sự kiện nghệ thuật không bình
thường, nhưng hôm sau có “ông lớn” từ Hà Nội xuống, chỉ thị ngừng công diễn (!)
Hoàng Yến trốn vào lịch sử nhưng vẫn không giấu nổi cốt cách khảng khái, cương
trực, khẩu khí trung ngôn nghịch nhĩ của ông. Trong văn chương nghệ thuật, ông
quá lận đận, giống như câu thơ của Tản Đà: Tài
cao phận thấp chí khí uất. May mà cuối đời, châu lại về Hợp Phố, khi về hưu
ở Sài Gòn, với mức lương từ thuở đại úy đến…cán sự sáu, ba mươi năm vẫn giữ
nguyên tại chỗ, ông lại trở về mái nhà xưa, trở về với người vợ đầu đời, như
câu thơ ông từng viết bằng nhịp đập tình yêu tha thiết:
Nhưng em
Vẫn em Nương
Của anh vẫn người thương
Đường Kim Long phượng đỏ…
4- Và
bản lý lịch rởm…
Các nhà tổ
chức của chế độ XHCN “dân chủ gấp triệu lần tư sản” của chúng ta luôn dị ứng
với những bản lý lịch không “sạch sẽ” kể cả khi đương sự đã giải nhiệm, thậm
chí sắp “về” với tổ tiên. Vì thế, nếu cần, người ta sẵn sàng ngụy tạo ra một
bản lý lịch mới sau khi đã tẩy xóa nguyên bản. Đây là một thứ quyền hành vô
lượng, nhân danh sự an ninh của Nhà nước, nhưng nếu đương sự liều lĩnh dám làm
việc này thì sẽ có ngay bản án nghiêm khắc cho anh ta trong tại giam.
Trước khi về
hưu, Hoàng Yến được Phòng Tổ chức Cục Nghệ thuật sân khấu Bộ Văn hóa trao cho
bản lý lịch cán bộ chế tạo sẵn do Cục trưởng Tô Hải ký tên đóng dấu, trong đó,
những phần thiết yếu nhất đều bị thay đổi đến mức dù có nằm mơ giữa ban ngày
ông cũng không thể tưởng tượng ra. Xin trích ra dưới đây những điểm sai lệch cơ
bản để bạn đọc tham khảo:
LÝ LỊCH
CÁN BỘ CÔNG NHÂN VIÊN
(Bản do Hoàng Yến khai ngày 21 tháng 3 năm 1991 nằm trong
hồ sơ cán bộ do Cục Nghệ thuật biểu diễn quản lý)
|
LÝ LỊCH
CÁN BỘ CÔNG NHÂN VIÊN
(Bản do Vụ Nghệ thuật sân khấu “sáng tác”, vụ trưởng Tô
Hải ký và đóng dấu ngày 10 tháng 9 năm 1980)
|
Họ và tên đang
dùng: Hoàng Yến
Họ và tên khai sinh:
Lê Hoàng Yến
Thành phần gia đình: Tiểu
thương nông thôn
Trình độ văn hóa: Diplôme
Ngày và nơi tham gia Cách mạng: Năm 1938 tại Huế
Bố đẻ: Lê Thành, trước và sau Cách mạng
buôn bán nhỏ tại xã Hòa Tiến, Hòa Vang, Quảng Nam. Trong Kháng chiến chống Pháp
tản cư lên Trung Phước. Năm 1954 về ở Đà Nẵng. Không làm gì cho chế độ Mỹ
Ngụy. Mất năm 1979 tại Đà Nẵng.
Mẹ đẻ: Huỳnh Thị Mẹo, theo chồng buôn
bán, mất năm 1965 tại Đà Nẵng.
Vợ: Nguyễn Thị Tùng Nương, cán bộ hưu
trí, thường trú tại 11 Đinh Công Tráng, Quận 1,TP Hồ Chí Minh. Đã ly hôn năm
1960.
Cuối bản khai là
chữ ký thật của Hoàng Yến.
|
Họ và tên đang dùng: Hoàng Yến
Họ và tên khai sinh: Hoàng Yến
Thành phần gia đình: Tiểu
tư sản
Trình độ văn hóa: Đại học Văn sử
Ngày và nơi tham gia Cách mạng: Tháng 8 năm 1945 tại Quảng Nam
Bố đẻ: Hoàng Tâm, trước Cách mạng tháng 8
năm 1945, nhân viên bưu điện của tỉnh Quảng Nam, cuối năm 1945 ốm chết.
Mẹ đẻ: Vũ Thị Nguyệt, trước Cách mạng
tháng 8 nội trợ, sau Cách mạng tháng 8 nội trợ, đến giữa năm 1946 ốm chết.
Vợ: Thùy Linh, 51 tuổi, biên kịch Nhà
hát Cải lương TW.
Cuối bản khai là
chữ ký giả mạo Hoàng Yến do người “sáng tác” bản lý lịch ký.
|
Ảnh trái là bản lý lịch thật do Hoàng Yến Khai, ảnh phải là bản lý lịch
rởm do Tổ chức “sáng tác” với chữ ký giả mạo.
Theo Bản lý
lịch mà Vụ Nghệ thuật sân khấu “ban cho” từ tháng 8 năm 1980 thì Hoàng Yến mất
cả họ, mất cả cha mẹ, vợ con. Ông âm thầm sống như một ẩn sĩ, âm thầm viết để
mưu sinh và ký thác triết lý nhân sinh của mình.
Hoàng Yến và con gái Hiền Phương
Có điều, như
trên đã nói, cũng bởi cuộc đời này đầy nghịch lý, nên, ngoài niềm vui được đoàn
tụ với nữ sĩ Lan Châu cùng các con đã trưởng thành, Hoàng Yến còn được Chủ tịch
nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến
hạng nhất vào năm 1998, các vở diễn của ông được nhận huy chương vàng, bạc,
được đưa đi hội diễn ở nước ngoài. (Lẽ ra ông phải được công nhận Tiền bối Cách
mạng và Người có công với chế độ v.v…). Sau khi ông qua đời vào năm 2012, nhà
thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, trịnh trọng đọc lời ai điếu
tiễn đưa nhà thơ xứ Quảng về nơi an nghỉ cuối cùng, trong đó có đoạn: “Nhà văn
Hoàng Yến sinh ra trong một gia đình tiểu chủ giầu truyền thống yêu nước. Cha
mẹ ông từng nuôi giấu các chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Duy Trinh, Huỳnh Ngọc
Huệ…Từ truyền thống yêu nước của quê hương và gia đình, ngay từ khi học lớp
thành chung, Lê Hoàng Yến đã sớm giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào Thanh
niên phản đế, rồi gia nhập tổ chức Đảng. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, ông đã giữ chức Chủ sự Phòng Tư pháp Công an Trung bộ”.
Khi nói đến sự
nghiệp sáng tác của Hoàng Yến, nhà thơ Hữu Thỉnh viết: “Tìm trong lịch sử để
giải mã hiện tại, chính là một cách Hoàng Yến thể hiện bản lĩnh nhà văn, tình
yêu Tổ quốc ở một góc độ khác. Những tiểu thuyết lịch sử của ông có cái thâm
trầm uyên bác của sử gia và tâm huyết một nhà văn gắn bó máu thịt với thân phận
con người. Ông luôn luôn xuất phát từ hiện tại để soi chiếu vào quá khứ, chắt
lọc lấy cái tinh hoa để bồi dưỡng cho hiện tại…Hoàng Yến hầu như dành trọn cả
văn nghiệp của mình cho lịch sử. Ông đã viết tên mình bên cạnh những người áo
vải, chân trần, yêu nước hết mực lòng trung, thương nhà tận cùng chữ hiếu, dũng
cảm xả thân và khoan dung nhân ái. Sự nghiêm cẩn trong sử dụng sử liệu và sự
hào hoa trong tạo dựng tính cách và bối cảnh cùng với tính triết lý nghệ thuật
sâu sắc đã đưa Hoàng Yến trở thành một trong những nhà văn viết hay nhất và
thành công nhất về lịch sử dân tộc. Sau những trang tráng ca và bi ca, bao giờ
người đọc cũng nhân ra trái tim Hoàng Yến đập nhịp nồng nàn với đất nước và
nhân dân. Chính vì thế, những tác phẩm tâm huyết nhất của Hoàng Yến sẽ còn mãi
với hồn Việt và văn hóa Việt…”.
Để thay lời
kết cho bài viết này, chúng tôi xin trích những dòng cuối của bài điếu văn của
Hội Nhà văn Việt Nam khẳng định về tư cách công dân và tư cách nghệ sĩ của nhà
thơ Hoàng Yến, khác hẳn những gì mà người ta gán cho ông trong vụ Nhân văn Giai
phẩm: “Vâng, kính thưa nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia Hoàng Yến, mây trời ở cõi
trần gian chính là những người thân, bạn bè và công chúng nghệ thuật cùng đến
đưa tiễn ông hôm nay. Họ đã xem ông như một phần trong cuộc sống tinh thần của
họ. Đó là một vinh hạnh cao nhất của bạn đọc dành cho nhà văn. Ông đang trôi
giữa trời hoa, những đám mây ngũ sắc của đất, đã bao bọc và gửi gắm nỗi tiếc
thương của cháu con, gia đình, bạn bè và tất cả những người đã mến mộ ông khi
đọc và xem tác phẩm.
Vĩnh biệt ông,
chúng ta vĩnh biệt một nhân cách nghệ sĩ đáng kính, một tấm gương sáng tạo
không mệt mỏi…”.
Không biết
những lời có cánh trên có biến thành những vầng mây- hào quang để hoà vào “ngã
ba mây” ký ức của nhà thơ mà cuộc đời nhuốm đầy bi kịch chỉ vì… không chịu đánh
mất mình?
19/8/2015
Đ.V.S.
Chú thích: * Tiếng Pháp: dễ bị tổn
thương, dễ bị đánh (tính từ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét