Nhãn

Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015

Hậu Chuyện kể năm 2000



HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời biến đổi gien)

Kỳ 1


Bùi Ngọc Tấn


 




 


              Bùi Ngọc Tấn & Hậu Chuyện kể năm 2000

UYÊN THAO

Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông gia nhập làng báo sau khi theo đội Thanh Niên Xung Phong vào tiếp quản Hà Nội tháng 10-1954 với vai trò phóng viên cho tờ Tiền Phong. Thời gian này, ông ký bút danh Tân Sắc và bắt đầu sáng tác văn nghệ, dù có lệnh cấm nhà báo viết văn nên phải viết chui tức ký bút danh khác. Cái lệnh kỳ quái này không cản được Bùi Ngọc Tấn sáng tác và ông đã gửi một truyện ngắn — Chị Trúc — dự thi giải văn nghệ của báo Văn Nghệ. Truyện của ông được Tô Hoài khen hay nhưng không được in và tất nhiên không được chấm giải, vì bị cho là nói đến những mất mát của chiến tranh “hơi quá liều lượng.” Tất nhiên sau đó Bùi Ngọc Tấn phải điều chỉnh cách viết để có thể tiếp tục góp mặt trong sinh hoạt văn nghệ nhưng đã cố giữ khoảng cách với “hàng ngũ nhà văn cung đình.”

Cuối năm 1959, ông chuyển về Hải Phòng làm biên tập viên báo Hải Phòng Kiến Thiết, đồng thời tiếp tục viết văn và đã có một số tác phẩm được xuất bản. Về khoảng thời gian này, trong một lần trả lời phỏng vấn, ông đã tâm sự “chuyển về thành phố quê hương Hải Phòng với ước mong thâm nhập công nông để viết được tác phẩm của đời mình.”
Chưa kịp viết tác phẩm ấy thì tháng 11-1968, Bùi Ngọc Tấn bị tống vào tù với tội danh “tuyên truyền phản cách mạng” trong vụ án “nhóm xét lại chống Đảng, làm tay sai cho nước ngoài” có mặt các bạn ông như nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà điện ảnh Huy Vân, nhà báo Vũ Huy Cương, nhà báo Kỳ Vân… dù Bùi Ngọc Tấn chưa bao giờ là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam và không hề biết cái tội mình bị quy kết kia mặt ngang mũi dọc ra sao. Từ đây, khúc ngoặt cuộc đời Bùi Ngọc Tấn mở ra với bước khởi đầu là 5 năm sống trong các trại tù mang mỹ danh “trại tập trung cải tạo.”
Đầu tháng 4-1973, đúng 2 tháng 7 ngày sau khi Hiệp Định chấm dứt chiến tranh Việt Nam ký kết tại Paris, Bùi Ngọc Tấn được ra khỏi nhà tù. Tuy nhiên, những ngày sống ngoài nhà tù lại u ám ghê hãi hơn cả cảnh sống giữa những bức vách nhà tù — như ông ghi lại:
“Trong những năm tháng hậu tù thất nghiệp đi bốc vác, kéo xe bò… thoi thóp kinh hoàng ấy, tôi có làm một cuộc khảo sát đời sống: Ra đầu phố những giờ đi làm và tan tầm, nhìn những người đạp xe qua Ngã Sáu và phát hiện một điều: Tất cả những người trên đường không một ai cười. Giống nhau. Xam xám. Đăm chiêu. Đồng phục quần áo. Đồng phục mặt người ……
Khi tôi kêu lên: “Các ông ấy bần cùng hóa nhân dân ghê quá”, Nguyên Bình nghiêm mặt bảo tôi: “Cuộc sống này gần với cuộc sống loài vật. Đâu phải cuộc sống con người.”
Thực tế không dừng tại đó.
Giữa cảnh đọa đầy đẩy con người xuống ngang loài vật ấy, Bùi Ngọc Tấn lại chỉ được xếp vào hạng phó người — chính xác hơn là thua cả loài vật. Cùng với những cực nhọc lam lũ do bị vây hãm bởi nhu cầu cơm áo trong thân phận phó người sống bên lề xã hội phải lao vào đủ loại việc mưu sinh khổ ải nhếch nhác là mạng lưới công an mật vụ luôn vây bọc từng giờ từng phút. Bùi Ngọc Tấn không ngừng bị cách ly, bị theo dõi, bị kiểm tra, bị dọa nạt… dưới nhiều hình thức khiến không tránh khỏi mối ám ảnh luôn bị đeo bám bởi một “người vô hình” : “… Ai cũng có một người vô hình để mà trình bày, để mà sợ sệt và thầm cãi lại. Người vô hình luôn bên cạnh mỗi người như hình với bóng, cả trong giấc ngủ …
Tôi thấy rợn hết cả người khi nghĩ đã có mấy thế hệ theo dõi tôi, săn đuổi tôi, vu cáo tôi. Họ đã già đi. Đã về nghỉ, hưu trí an nhàn. Nhiều người đã chết. Một thế hệ khác tiếp tục việc theo dõi. Rồi một thế hệ tiếp theo nữa. Đời này sang đời khác.
Tất cả đều là Gia-ve. Những Gia-ve với lòng dạ đen tối, không phải tìm sự thật mà chỉ nhăm nhăm hãm hại người lương thiện…”
Cuộc sống không còn là cuộc sống mà chỉ là sự tồn tại.
Ý nghĩa duy nhất về sự tồn tại của bản thân với Bùi Ngọc Tấn thời kỳ này là “sống vì những đứa con.” Nhưng mục đích này cũng không dễ theo đuổi vì toàn bộ gia đình thân thuộc của lớp phó người đều phải gánh chung thân phận phó người. Những đứa trẻ ngây thơ vô tội kể cả đứa chỉ mở mắt chào đời khi người cha đã bị đưa vào tù vẫn bị ngăn trở mọi sinh hoạt, kể cả việc cắp sách tới trường … khiến luôn thúc đẩy những cơn tự dằn vặt rồi bùng sôi phẫn nộ : …Tôi càng thấm thía tội lỗi làm bố của mình. Chỉ vì tôi. Chỉ vì tôi nên con tôi có thể thất học… Người tôi sôi lên. Hỡi bọn chó đểu kia. Chúng mày làm gì tao thì làm, bỏ tù lại tao cũng được. Nhưng đừng triệt hạ con tao!!”
May mắn duy nhất với Bùi Ngọc Tấn là không thể từ bỏ cây bút, dù cầm bút là chuyện thiên nan vạn nan. Vì thế kiếp sống phó người đã hiện thành những trang sách để cuối cùng góp mặt với cái tên Chuyện Kể Năm 2000. Đây là tác phẩm được Bùi Ngọc Tấn khởi viết từ cuối năm 1990 sau hơn 20 năm rời xa chữ nghĩa và tiếp tục hoàn chỉnh gần 10 năm cho tới khi có cơ hội ấn hành vào đầu năm 2000. Thế nhưng ngay khi vừa in xong, tác phẩm đã bị gom lại ghiền nát, ngâm thành bột “như thi hành án một tội phạm tử hình với khâu cuối cùng là bác sĩ khám nghiệm tử thi và chôn cất.” Riêng tác giả chưa kịp hưởng “niềm vui trúng số” vì tác phẩm được chào đời đã phải nai nịt và ngụy trang mỗi khi ra đường vào thời điểm đó: “… Mũ Nin-da, thứ mũ có lưỡi trai, trùm kín đầu kín tai kín mặt, xuống tận cổ, chỉ để hở hai con mắt. Rất lợi hại… Trùm vào ấm đã hẳn, người ta lại còn không biết mình là ai. Chưa kể nó bảo vệ mặt tránh được những ca át-xít… Cái cảm giác có đuôi ngày nào trước khi bị bắt năm 1968 lại phả hơi lạnh, hơi bẩn sau gáy.”
Hậu Chuyện Kể Năm 2000 ghi lại nhiều diễn biến quanh tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 từ các đoạn đường hoàn thành tới khi tác phẩm chào đời và những ngày kế tiếp. Tựa đề đầu tiên của Hậu Chuyện Kể Năm 2000 là Thời Biến Đổi Gien được Hoàng Hưng diễn giải là “Một thời đại ghê gớm trên quê hương chúng ta mà cái “gien” NGƯỜI đã bị biến đổi đến thảm hại!”
Đó là thời đại quét sạch mọi quyền sống căn bản của con người buộc toàn thể xã hội luôn cúi đầu quỳ gối tôn thờ những kẻ thủ đoạt quyền lực — thời đại mà hết thẩy người dân không được phép có một hành vi, một ý nghĩ nào khác ngoài việc tự biến thành công cụ phục vụ ý đồ của kẻ thủ đoạt quyền lực được coi là tín ngưỡng tối cao độc nhất vô nhị. hưng những dòng hồi ức Hậu Chuyện Kể Năm 2000 cho thấy mọi thủ đoạn bất nhân, mọi chủ trương tàn ác không hoàn toàn đáp ứng đúng tham vọng của kẻ thủ đoạt quyền lực. Qua những điều gần như vụn vặt nhỏ nhoi nhất trong cuộc sống, tình người vẫn luôn vươn lên bằng mọi cách thuộc mọi lúc và ở mọi nơi.
Vợ con người tù tới thăm mộ chồng không dám cất tiếng khóc vì đã có lệnh cấm khóc, nhưng không lệnh nào có thể cấm được nỗi đau dâng lên trong trái tim họ. Cũng không có lệnh nào hỗ trợ nổi cho các luận điệu dối trá nói trắng thành đen để buộc mọi người phải đặt trọn niềm tin vào những điều vu cáo.
Sự câm lặng của người vợ và những đứa con trước mộ chồng, mộ cha cũng như những cái gật đầu của đám đông trước các luận điệu dối trá chỉ biểu tỏ một tâm thế chịu đựng nhất thời trong khi sức sống của tình người hướng về thương yêu, hướng về sự thật luôn kiên trì tồn tại với độ nóng có thể còn vượt mức độ bình thường.
Chính vì thế, cuốn sách bị kết án tử hình, bị ghiền thành bột đã lập tức phát tán khắp nơi qua mọi hình thức và được truyền tay từ người này sang người khác với số lượng khó thể ước đoán. Thêm nữa, những dòng hồi ức Hậu Chuyện Kể Năm 2000 đã ghi rõ tên tuổi từng người liên hệ tới mọi chuyện kể. Điều này không chỉ diễn tả tấm lòng tôn vinh sự thật mà còn cho thấy thái độ bất chấp mọi chủ trương trấn áp, mọi thủ đoạn bạo hành — thái độ bất khuất của ý chí kiên trì sự sống đúng nghĩa.
Năm 2012 tại Paris vào dịp Festival Livre Et Mer trao tặng giải thưởng cho tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá của Bùi Ngọc Tấn, nhà văn kiêm kịch sĩ Francois Bourgeon đã phát biểu : “… Từ khi lập ra giải thưởng này, tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn đã hoàn toàn làm chúng tôi thoả mãn. Tác giả là người Việt Nam. Bùi Ngọc Tấn tặng cho chúng ta một cuốn tiểu thuyết nhân văn… Bùi Ngọc Tấn biết cái giá của tự do. Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là một tác phẩm không thể quên. Thậm chí có lẽ là… một tác phẩm làm cho ta tốt hơn.”
Dù chỉ nêu nhận định về tác phẩm Biển Và Chim Bói Cá, nhưng Francois Bourgeon đã cho thấy cái nhìn bao quát về thế giới chữ nghĩa của Bùi Ngọc Tấn trong đó không thể vắng tác phẩm Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Và có thể nói kết luận của Francois Bourgeon về “một tác phẩm làm cho ta tốt hơn” càng chính xác khi dành cho Hậu Chuyện Kể Năm 2000 tức Thời Biến Đổi Gien.
Bởi Hậu Chuyện Kể Năm 2000 không chỉ phác họa trung thực chân dung “ba kiếp sống” của những thế hệ nạn nhân Việt Nam trong thời đại quyền lực độc tôn mặc tình tác ác mà đã cho thấy ý chí bất khuất và sức sống phi thường của tình người qua vô số diễn biến cụ thể trong cuộc sống thường ngày đang quằn quại dưới đủ mọi thủ đoạn bất nhân tàn khốc. Những dòng hồi ức của Bùi Ngọc Tấn qua Hậu Chuyện Kể Năm 2000 đã dựng lên hình ảnh một chân trời yêu thương đầm ấm với âm hưởng lời ca thúc đẩy những bước chân dũng cảm kiên trì vươn tới chân trời ấy để “làm cho ta tốt hơn” — như cảm nghĩ của Francois Bourgeon — hầu đạt tới cuộc sống tốt đẹp hơn.

Virginia, 11/2014

THƯ GỬI
            BÙI NGỌC TẤN
˜ HOÀNG HƯNG

A
nh Tấn ơi!
Tôi đã đọc một mạch xong bản thảo cuốn sách trên 300 trang của anh trên suốt chặng đường Đà Nẵng – Sài Gòn 20 giờ xe đò, trừ mấy giờ ngủ chập chờn. Và cũng như cái lần đọc CHUYỆN KỂ NĂM 2000 mà anh còn nhớ rất rõ và kể lại trong sách này, nước mắt và cả sự nghẹn ngào phải kìm để không thành tiếng nấc, cứ tự nhiên bật ra. Để rồi ngay sau đó tiếng nghẹn ngào lại biến thành tiếng “cười rinh rích” không kìm nổi.
“Đi đến cốt lõi ngọn nguồn” của Sự Thật, không né tránh, không sợ hãi, cái Sự Thật bi phẫn mà anh đã trải qua, mà bạn bè anh trong đó có tôi, mà cả dân tộc này đã trải qua trong hơn nửa thế kỷ, anh đã phơi bày nó chính xác đến từng chi tiết rùng mình y như từng nắp chai nước mà hai đứa con anh chắt chiu để sống mỗi ngày; nhưng anh luôn vượt qua nó, vượt lên trên nó bằng cái hài hước quen thuộc của mình. Cái hài hước chỉ có ở những tâm hồn mạnh mẽ, không thể khuất phục, của những con người “đắm đuối cuộc sống” — chữ của một hoạ sĩ bạn đọc CHUYỆN KỂ NĂM 2000 mà anh tâm đắc.
Tinh thần kép nói trên, thấm nhuần trong những trang miêu tả và kể chuyện hấp dẫn, hồi hộp vô cùng, là sức mạnh những trang viết của anh, ở đây cũng như ở CHUYỆN KỂ NĂM 2000.
Ấn tượng khó quên của tôi về CHUYỆN KỂ NĂM 2000 chính là ở những đoạn “căng thẳng” kỳ lạ như đoạn tả cảnh chia cơm tù ở trại, những con mắt tù hau háu, đau đáu theo dõi việc “cân” các suất cơm bằng chiếc que, những con mắt có khả năng phát hiện chính xác đến từng gam cơm thừa thiếu; còn ở “Chuyện Kể” mới này, là ở những đoạn gom sách nộp lại cho nhà xuất bản —  những âm mưu tính toán, những cuộc điện thoại bằng “mật mã”, những cuộc hẹn hò “bí mật” với vai chính mặc áo Phổ Nghi, đội mũ “ninja”… — ly kỳ như truyện trinh thám…
Vâng, 14 năm sau “Chuyện Kể”, Bùi Ngọc Tấn lại hiến cho người đọc một “chuyện kể”, lần này là chuyện kể về “chuyện kể.” Tất cả những gì liên quan đến việc viết, in, phát hành, thu hồi CHUYỆN KỂ NĂM 2000, với tất cả những con người liên quan, những bình luận, những hậu quả khôn lường của nó. Anh đã gọi cuốn tiểu thuyết dựa trên nguyên mẫu mình là Chuyện Kể…, ngược lại, bây giờ đặt cái tên rất “tiểu thuyết” cho cuốn hồi ức — tư liệu về Chuyện Kể… là THỜI BIẾN ĐỔI GIEN.
Có lẽ bởi anh không muốn người đọc chỉ đọc nó như một hồi ức riêng tư. Mà là hồi ức về một thời đại. Một thời đại ghê gớm trên quê hương chúng ta mà cái “gien” NGƯỜI đã bị biến đổi đến thảm hại!
Những con người tốt nhất, bản thân anh, người vợ thủy chung lặng lẽ kiên cường, bạn bè anh — những nhà văn nhà báo khăng khăng một niềm tin ngây thơ vào Cái Đẹp — suốt đời bị nghi ngờ, bị rình rập, bị săn đuổi, đã phải lay lắt để tồn tại như những PHÓ NGƯỜI. Những người tốt khác, ông giám đốc một nhà xuất bản hiếm có, những biên tập viên tâm huyết… dám in tiểu thuyết của anh, những người âm thầm hỗ trợ cho nó ra đời và đến tay người đọc… đã phải sống hai mặt, mặt NGƯỜI ở chốn riêng tư, mặt CÔNG CỤ ở chốn hành nghề. Những kẻ khác thì tùy mức độ, phần NGƯỜI và phần CÔNG CỤ tỷ lệ nghịch với nhau, ý thức CÔNG CỤ khác nhau từ chỗ ý thức rõ rệt, đến chỗ vô thức, bản năng, hay chỉ là một thói quen tập nhiễm.
Tôi nhớ đến cái vườn tượng trên một sườn đồi ở Praha. Rải rác từ chân đến đỉnh đồi, là tượng những NGƯỜI không toàn vẹn hình hài, kẻ mất tay, kẻ mất chân, kẻ không đầu, kẻ không tim…
Nếu nói đến tội ác của một chế độ, thì tôi xin nói rằng tội ác lớn nhất của nó chính là phá hủy TÍNH NGƯỜI trong nhiều thế hệ. Một nền kinh tế lụn bại có thể nhanh chóng phục hồi với sự tự cải tổ và trợ giúp từ bên ngoài, một nhà nước bất lực có thể được thay thế với sự đồng thuận của dân chúng, một đất nước thất trận có thể khôi phục lực lượng quân sự của mình bằng tiền bạc, kỹ thuật… Nhưng một dân tộc mà TÍNH NGƯỜI bị phá hủy thì không biết cần đến mấy thế hệ để trở lại làm NGƯỜI toàn vẹn.
Nỗi ám ảnh ấy đã theo tôi nhiều năm nay. Và trong tâm thế ấy, tôi tâm đắc với Bùi Ngọc Tấn về ý nghĩa của việc Viết: Viết là “cuộc chiến đấu vô vọng” để “giữ sự trong sáng trong đôi mắt nhìn đời của các con tôi.” Tôi xúc động vì lời ông bác sĩ ung thư đang chờ chết nói ông đã được tiếp sức từ những trang sách như thế nào: “Tôi hiểu rằng con người không được phép bi quan, không được phép đầu hàng. Tập sách của anh đã nâng đỡ tôi sống những ngày còn lại. Còn một ngày cũng sống cho ra sống.”
Vì thế, chúng ta phải viết.
Vì những người đọc như thế. Vì chính chúng ta.
Họ không muốn ta viết, ta phải viết.
Họ sợ ta viết, ta phải viết.
Họ cấm ta viết, ta phải viết.
Họ truy lùng, tiêu hủy những trang viết của ta, ta phải viết.
Họ ngăn cản những trang viết của ta đến người đọc, ta phải viết.
Ta phải viết “khi cuộc sống chúng ta bị nén xuống sát gần cái chết”, phải không anh Tấn!
                           Sài Gòn, sau ngày biểu tình lớn
                 chống Trung Quốc xâm lược 11/5/2014



BẠT

= Dương Tường


T
ôi nài xin – gần như đòi – Bùi Ngọc Tấn cho tôi được viết lời bạt này. Bắt chước cách nói của Saint–Exupéry, tôi có hai lý do chính để nài xin như vậy:
– 1/ tôi là một trong những người đầu tiên được đọc, không phải chỉ một lần, tập hồi ký không ít dấu ấn của lịch sử này, từ dạng bản thảo được sửa đi sửa lại suốt mười năm, cho đến khi không còn chút gì để áy náy trong lương tâm, cho đến độ tột cùng trung thực.
– 2/ tôi cũng là một “nhân vật” của Bùi Ngọc Tấn trong hơn một cuốn sách, kể cả cuốn bạn đọc đang cầm trên tay.
Châu Diên bảo: “Mày phải viết lời bạt cho thằng Tấn — ở tuổi ngoài tám mươi cả rồi, chúng tôi vẫn không đổi được cách xưng hô này. Gói lại những gì bọn mình đã cùng nhau chia xẻ trong hơn nửa thế kỷ qua: vui sướng và đau buồn, ngọt bùi và cay đắng, tin yêu và tuyệt vọng, lý tưởng và ảo tưởng... Phải, tất cả những cái đó trong cái thời đầy biến thiên mà thằng bạn của chúng ta gọi là Thời Biến Đổi Gien ...”
Năm ngoái, 2013, cũng vào độ này, ba đứa tôi – Bùi Ngọc Tấn, Châu Diên và Dương Tường – những kẻ “cùng một lứa bên trời lận đận”, mượn cái đầu để Tìm Lại Thời Gian Đã Mất, kiệt tác của Marcel Proust, đã có một cuộc trò chuyện giao lưu với hơn 100 khán giả tại Manzi, một trung tâm sinh hoạt văn hoá ở Hà Nội. Ít nhất, chín mươi phần trăm số người dự thuộc thế hệ 8x, 9x. Chúng tôi ngạc nhiên sung sướng thấy không có rào cản nào giữa chúng tôi và các bạn trẻ ấy. Cảm giác chung của chúng tôi là họ dường như không mấy khó khăn để hình dung ra những bước nhọc nhằn chúng tôi đã trải trong hành trình tìm lại, mỗi người theo cách riêng, thời gian đã mất của mình, qua những trầm luân của lịch sử.
Một tuần sau, Thùy Hân, một nữ sinh viên Việt Nam của trường nghệ thuật Francfurt, Cộng Hòa Liên Bang Đức, có mặt trong buổi giao lưu ấy, như còn “thòm thèm”, đến nhờ tôi đưa xuống thăm vợ chồng Bùi Ngọc Tấn tại nhà riêng, cùng với khoảng mười bạn cùng khoá tại trường Francfurt. Có lẽ chưa bao giờ căn phòng nhỏ của Tấn lại tiếp một đoàn khách nhiều quốc tịch đến thế. Đó là các bạn: Clémentine (Pháp), Andrew de Freitas (New Zealand), Elisa (Ý), Yuki (Nhật Bản), Mahsa (Iran), Rasmus (Đan Mạch), Raphaela (Đức), Thùy Hân (Việt Nam), Trương Quế Chi đang học đạo diễn ở Pháp và một số bạn đọc ở Hà Nội đã dự buổi trao đổi Tìm Lại Thời Gian Đã Mất. Một lần nữa, chúng tôi sung sướng cảm thấy giữa chúng tôi không hề có cái mà người ta gọi là generation gap. Trong một bức thư gửi hai chúng tôi ít ngày sau đó để bày tỏ hết những cảm xúc chưa kịp nói ra, Andrew de Freitas, cậu sinh viên người New Zealand, viết: “Được gặp các bác, biết về cuộc đời của các bác, quả thực là niềm cảm hứng lớn để chúng cháu tiếp tục theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật vượt qua mọi hệ thống, không bị bó buộc trong chính trị, thực sự nhân văn và toàn cầu.”
   Phải, ở bất kỳ đâu, vào bất kỳ thời điểm nào, Nhân Dân vẫn luôn là những người làm ra lịch sử và — như Bùi Ngọc Tấn đã dành cả một tham luận để nói về  chủ đề này ở Massachussets, Mỹ — cũng là những người chịu đựng lịch sử. Âm thầm ghi lại những gì xẩy ra hôm nay để có thể có một bộ mặt chính xác của lịch sử, ghi lại thân phận bé mọn của những người chịu đựng lịch sử. Mỗi người đều mang lịch sử trong mình, mỗi người đều phản ánh lịch sử. Mỗi người qua đời là một bí ẩn của lịch sử biến mất. Hãy ghi lại những bí ẩn lịch sử qua những người ta quen biết, yêu thương, không để chúng rơi vào quên lãng. Đó là những điều chúng tôi đã chia xẻ với các bạn trẻ trong hai buổi giao lưu ấy. Đó cũng là thông điệp của THỜI BIẾN ĐỔI GIEN.
Nhưng có một thứ nằm ngoài tầm của sự biến đổi gien đại trà ấy, mãi mãi tồn lưu chừng nào nhân loaị tồn tại. Đó là NHÂN BẢN. Chính sự vĩnh tồn ấy của NHÂN BẢN giúp ta duy trì niềm tin ở cuộc sống, bất chấp sự sụp đổ của mọi niềm tin khác.
(Xem tiếp kỳ sau)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét