NGUYÊN KHÍ
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
10. NI CÔ TIỂU MAI
Ánh nước hoa in một đoá hồng
Vết nhơ
chẳng bén bụt làm lòng
Chiều mai
nở chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không
( Mộc Cận – Quốc âm
thi tập - Nguyễn Trãi )
Lại nói về nhóm người tháp
tùng Tiệp dư Ngọc Dao cùng Hoàng nhi Lê Tư Thành.
Thuyền của họ theo sông Kinh
Thầy, ngoặt sang sông Rừng ra gần cửa
bể, rồi rẽ vào một con lạch nhỏ, đi quanh co giữa những cánh rừng lim cổ thụ,
đến một ngôi chùa. Nơi đây phong cảnh thật hữu tình. Ngôi tam bảo nằm ở thế tả
thanh long hữu bạch hổ, tựa lưng vào một
đồi thông, bên trái là một hồ
rộng, bên phải có một gò thoải, phía trước là cánh đồng. Sư thầy trụ trì có
pháp danh Nhật Chiêu là một người nhân hậu. Vào đêm rằm nguyên tiêu, nhà sư nằm
mơ thấy Phật bà Quan Âm hiển linh bảo rằng mùa thu sẽ có tiên đồng của Ngọc
Hoàng hạ giới. Sư thầy liền cho dựng riêng một bảo am đàn nhang hương khói. Đến
tháng tư bỗng có quân gia của quan An phủ sứ đến lệnh rằng, mùa thu tới nhà
chùa chuẩn bị đón tiếp người của triều đình. Quả nhiên, bây giờ Tiệp dư và Ấu
vương đã tới. Sư thầy Nhật Chiêu cùng các sư, vãi và phật tử vinh hạnh và sung
sướng vô cùng.
Ông Cả Khuê và Nguyên Phong
sau khi hoàn thành công việc, xin bái biệt để về Côn Sơn giúp quan Hành Khiển
tổ chức nghênh giá. Ni cô Tiểu Mai đưa mắt cho Nguyên Phong rồi cũng xin cáo
biệt để về cùng thuyền. Nàng rất muốn trở lại chùa Huy Văn xem tình hình sư
thầy Thích Chân Như và lão Câm - Chân Tín ra sao, nhưng Cả Khuê và Nguyên Phong
khuyên nàng chưa nên về vội, tạm thời hãy về chùa Hun với sư thầy Pháp Huệ,
nhân tiện phụ giúp công việc cho quan Hành Khiển chuẩn bị nghênh giá. Tiểu Mai
nghe theo.
Họ chia tay mẹ con Tiệp dư
và sư thầy Nhật Chiêu, cùng hai ni cô và
các gia nhân nhà quan Thái bảo Ngô Từ, những người từ đây sẽ luôn bên cạnh để
phụ giúp và phò tá Tiệp dư và Hoàng nhi.
Chuyện này không nói nữa.
Bây giờ nói chuyện ni cô
Tiểu Mai.
Suốt từ cái đêm hai mươi
tháng bẩy, khi Tiệp dư trở dạ sinh Hoàng tử, ni cô Tiểu Mai như sống trong
mộng. Có lẽ bởi lần đầu tiên trong đời, ni cô được giao một trọng trách vô cùng lớn lao là phải cùng Chân Tín và Cả Khuê bằng mọi giá phải bảo vệ tính mạng của
mẹ con Tiệp dư và đưa đi trốn an toàn. Không . Không hẳn như vậy. Lo lắng, hồi
hộp thì có, chứ không thể xao xuyến, rạo rực như thế. Vốn là một cô bé mồ côi
cha mẹ, được nhà chùa nhận về nuôi, được học chữ, học võ thuật…, tất cả tuổi thơ,
tuổi thiếu nữ của Tiểu Mai chỉ có biết hướng tới cửa Phật. Mọi vui buồn sướng
khổ đều được giãi bày, chia sẻ, hạnh ngộ trước Phật bà Quán Thế Âm và Đức Phật
tổ Như Lai, đức phật Thích ca Mầu ni. Nhưng giờ thì khác. Nhắm mắt lại, ni cô
Tiểu Mai không thấy Phật mà chỉ thấy ánh mắt vời vợi của chàng. Từ khi bước vào
tuổi thiếu nữ, chưa có ai nhìn ni cô như thế. Chưa có ánh mắt nào nồng nàn đắm
đuối như thế. Ánh mắt như dẫn dụ, mời gọi, rủ rê ni cô từ am vắng ra đồng rộng,
từ tam bảo nghi ngút khói hương lên đồi cao rộn tiếng chim và hoa cỏ, từ trong
bộ cà sa nâu sồng nặng trịch thành cô thôn nữ áo tứ thân,bao xanh, xà tích, nón
thúng quai thao đi trẩy hội.Chàng như một tia chớp làm sáng chói bầu trời đen
đặc, làm vỡ tan lớp vỏ cứng lâu nay chìm sâu trong đất, để nứt vỡ một hạt mầm…
Suốt cả chặng đò dọc từ sông
Rừng vào sông Kinh Thầy, có hai người chốc chốc lại nhìn nhau, nói đúng hơn là bốn mắt họ đắm đuối trong nhau.
Không ai nói, chỉ nhìn, chỉ đốt nhau bằng ánh mắt. Nhiều lúc không chịu được
cái nhìn bỏng cháy và hun hút của chàng, Tiểu Mai lại e lệ gục đầu xuống gối. Nàng vừa thấy mình sung sướng,
rạo rực đến tột cùng, vừa thấy mình là kẻ
tội đồ, tội lỗi đến ghê sợ. Vậy là
mười bẩy năm ăn mày cửa Phật, thụ giáo các bậc hòa thượng lừng danh,
thông hiểu pháp giới, pháp môn, thao lược quyền cước võ lâm… giờ nàng lại muốn giũ bỏ tất cả, muốn hoàn tục,
trở lại cõi súc sinh, ngạ quỉ. Ôi, khốn khổ cho nàng, tội lỗi thay cho nàng.
Cái vòng trầm luân mà đức Phật từ bi đang giải thoát cho nàng, giờ nàng ăn phải
bùa mê thuốc lú, lại định chòng vào cổ mình sao?
Theo hầu Đức Phật đến cõi
Niết Bàn, hay theo chàng?
Câu hỏi ấy xoáy cuộn trong
đầu Tiểu Mai, dày vò, hành hạ nàng. Nàng sẽ gục ngã mất, nếu con thuyền cứ đi
mãi thế này, nếu nàng tiếp tục theo chàng về Côn Sơn hôm nay.
Một ý nghĩ chợt lóe lên khi
thuyền ngang qua Nam Sách: Hãy xuống lò gốm Chu
Đậu của tượng nhân Bùi Thị Hý ở chơi vài ngày để có thời gian tĩnh tâm, để được
chị Hý bảo ban khuyên nhủ.
***
Bùi
Thị Hý là ai?
Ngày ni cô Tiểu Mai theo sư
thầy Pháp Huệ ăn mày đức Phật ở chùa Hun, có một nho sinh trẻ tuổi xưng là Bùi
Văn, hiệu là Vọng Nguyệt, thường đến thắp hương cửa Phật và xin được đàm đạo
kinh pháp với đại hòa thượng trụ trì. Chàng nho sinh thích trò chuyện với ni cô
Tiểu Mai và không giấu giếm hoài bão muốn được lên kinh ứng thí để rạng danh
dòng họ và tỏ mặt nam nhi. Ni cô Tiểu Mai cũng rất có thiện cảm với chàng trai
và hy vọng chàng sẽ công thành danh toại.
Khi biết ni cô Tiểu Mai theo
học phái võ thiếu lâm của Thiền sư Đạo Khiêm ở Hoa Nghiêm tự trên núi Chí Linh,
nho sinh Bùi Văn đã dẫn theo sư đệ của
mình là Bùi Đình Khởi đến cùng thụ giáo và thử tài võ nghệ. Bùi Đình Khởi là
con trai của tướng quân Bùi Quốc Nghĩa, người theo lệnh cha đã lập ra Bình khu
cổ mã đường, một quân doanh để canh giữ An nam Quốc vương Trần Cảo, ông vua vờ
che mắt nhà Minh. Bùi Quốc Nghĩa đã được cha truyền võ nghệ, là một tướng trẻ
tuổi có tài, cùng theo cha tham gia nghĩa quân Lam Sơn và đã hy sinh trong trận
công thành Xương Giang năm Đinh mùi, 1427. Nối chí cha, Bùi Đình Khởi ham luyện
tập võ nghệ, được ông nội Bùi Quốc Hưng truyền dạy nhiều thế võ bí truyền. Mười
tám tuổi, văn võ song toàn, nức tiếng ở Bình khu cổ mã đường, một lò võ nổi
tiếng của trang Quang Ánh, xứ Đông. Lần gặp gỡ ấy, hình như Bùi Văn có nhã ý
giới thiệu sư đệ Bùi Đình Khởi của mình với Tiểu Mai. Bùi Văn nói xa xôi bóng
gió rằng, xem tướng mạo và tử vi, số của ni cô Tiểu Mai không thể ăn mày cửa
Phật lâu được. Chắc chắn một ngày nào đó sẽ có một người đến quyến rũ ni cô
hoàn tục. Tiểu Mai chột dạ, hiểu ẩn ý câu nói. Người đó là Bùi Văn hay sư đệ
Bùi Đình Khởi của chàng?
Bẵng đi một năm, không thấy
Bùi Văn đến chùa. Bỗng nhiên tin đồn ầm lên rằng chàng nho sinh Bùi Văn chính
là một thiếu nữ giả trai, tên thật là Bùi Thị Hý, hiệu là Vọng Nguyệt, cháu nội
quan Thái bảo Bùi Quốc Hưng. Vì muốn được học hành, thi đỗ như bao người đàn
ông khác, nàng đã cải dạng nam nhi để đi thi, đỗ xuất sắc kỳ thi hương, nhưng vừa đến vòng tam trường
thì bị phát hiện. Giấc mộng nam kha
không thành. Bùi Thị Hý đành trở về
thiên chức đàn bà. Nàng lấy tượng nhân Đặng Sỹ, người chủ lò gốm Chu Trang nổi tiếng vùng Nam Sách và hứa
suốt đời phụng sự công đức nhà chồng.
Chia tay Cả Khuê và Nguyên
Phong ở ngã ba sông, ni cô Tiểu Mai hẹn ba ngày nữa sẽ gặp lại hai người ở Côn
Sơn. Ba ngày, với nàng sẽ dài bằng ba năm.
Trước Trần triều hải khẩu,
Tiểu Mai không ngờ vùng đất vang danh
một thời lại sầm uất, trên bến dưới
thuyền tấp nập đến vậy. Sau hai mươi năm giặc Minh dày xéo tan tành, sự phục
hồi các lò gốm Mỹ Xá, Chu
Đậu đã mang đến cho vùng sông nước này một bộ mặt mới. San sát dọc bờ sông các
lò nung suốt ngày nhả khói. Thuyền buôn từ
kinh đô xuống, từ Vân Đồn vào, từ Hải
Đông sang. Có cả những con thuyền lớn vượt biển treo cờ lạ Minh triều,
Hàn quốc, Nhật Bản…
Bùi Thị Hý giờ đây đã là bà
chủ một lò gốm to nhất vùng. Từ ngày lấy
chồng, nàng đẹp lộng lẫy khiến ni cô Tiểu Mai không thể nhận ra.
Bùi nương cũng bất ngờ không
kém. Nàng không thể nhận ra ni cô Tiểu
Mai vì hôm nay Tiểu Mai duyên dáng như một thiếu nữ xứ Kinh Bắc trong bộ váy áo tứ thân, chít khăn nhiễu Tam Giang,
lại khoác theo cả chiếc nón quai thao.
- Mô Phật. Ngọn gió nào đã
đưa ni cô đến với kẻ quê mùa này? – Bùi
nương chắp tay trước ngực, nhưng lại mở to đôi mắt ngạc nhiên nhìn người thiếu
nữ hồi lâu, rồi không kìm được, dang tay
ôm chầm lấy Tiểu Mai.
Tiểu Mai cảm nhận hết hơi ấm
và vòng tay êm ái của người đàn bà tuổi
ngoài hai mươi tràn đầy sinh lực. Nàng
bối rối:
- Chị Bùi Vọng Nguyệt, đừng
gọi em là ni cô. Em không xứng được ăn mày cửa Phật nữa rồi…
Bùi nương sững sờ nhìn gương
mặt đẹp thánh thiện tự nhiên bỗng đỏ lựng, rồi lại nhìn bộ váy áo vận trên người Tiểu Mai:
- Mô Phật. Có chuyện gì với
Tiểu Mai chăng? Ni cô đã hoàn…tục rồi chăng?
- Đã…à chưa…Nhưng em có tội
với đức Phật…
Lời thú nhận ấy khiến Bùi
nương cảm thấy Tiểu Mai vừa thân thiết và đáng yêu, lại vừa hụt hẫng xa vời.
Vậy là sư đệ Bùi Đình Khởi của ta đã không còn cơ hội nữa rồi.
- Thế thì ni cô phải ở đây.
Có chuyện lớn rồi. Chúng mình phải thức
trắng với nhau đêm nay…
Nói rồi Bùi Vọng Nguyệt truyền gia nhân bẩm với Đặng công có khách quí và thu xếp biệt phòng
trên dãy nhà lớn chuyên dành cho các đại thương gia và quí quan triều đình.
Đặng công là tên gọi ngày
thường của chủ lò gốm kiêm thương gia Đặng Sỹ. Ông tuổi Giáp ngọ, hơn Bùi nương
sáu tuổi nhưng tỏ ra già dặn, chín chắn hơn vợ nhiều. Họ gặp nhau và lấy nhau
như định mệnh đã sắp đặt sẵn.
Số là, sau khi việc giả trai
đi thi Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất bị phát giác, cô tiểu thư Bùi Thị Hý thất vọng và đau buồn khôn xiết.
Để an ủi người chị gái có chí hướng nam nhi, cậu em trai Bùi Đình Khởi bèn rủ
chị đi chơi hội đền Kiếp Bạc để giải
khuây. Đó cũng là duyên cớ để nàng Vọng Nguyệt gặp tượng nhân Đặng Sỹ, một chủ
lò gốm tài hoa và giàu có nhất vùng Trần
triều Hải khẩu. Biết nàng Vọng Nguyệt chính là nho sinh Bùi Văn, người rất
có thể giật giải khôi nguyên từ tay
trạng nguyên Nguyễn Trực trong khóa thi Tiến sĩ vừa rồi, nếu như không bị luật lệ triều đình loại khỏi trường
thi, tượng nhân Đặng Sỹ bám riết không
rời. Nhờ cậu em trai Bùi Đình Khởi, vốn quen biết Đặng Sỹ bấy lâu, vun vào, hai
người bén duyên nhau ngay. Chỉ trong vòng một tháng, họ đã nên vợ nên chồng.
Đám cưới của họ được quan Thái bảo Bùi Quốc Hưng, ông nội của cô dâu đứng ra
làm chủ hôn, thực khách hàng trăm người, ăn uống, đàn hát suốt ba ngày liền.
- Vợ chồng là duyên số,
không thể cưỡng lại được – Bùi Vọng Nguyệt nói với Tiểu Mai, trong cái đêm nàng
xin phép chồng cho mình sang nằm chung giường với ni cô để chị em hàn huyên – Chị lấy Đặng công, chính là do số mệnh. Bây giờ nghĩ lại, vẫn như trong giấc
mơ. Em biết không, sau khi bị đuổi khỏi trường thi, chị chỉ muốn ra sông Cái
trẫm mình cho xong. Nghĩ đến cái chết,
chị lại thương cha mẹ, thương ông nội, thương em trai Bùi Đình Khởi, không dám
hủy hoại đời mình. Rồi chị chợt nhớ đến
em, muốn về ngay chùa Hun, xuống tóc đi
tu cùng em…
Câu chuyện của họ không còn
cách bức ni cô, Bùi nương nữa mà chuyển sang cách xưng hô chị em thân mật.
- Nhưng mà khi ấy em đang ở
chùa Huy Văn cơ – Tiểu Mai nói – Giá mà
chị vào chùa Huy Văn gặp em, thì bây giờ
làm gì có những đồ gốm sứ Chu Đậu mê hồn
mà chị vừa cho ra lò…
Bùi Vọng Nguyệt xoay người
ôm lấy Tiểu Mai:
- Sao cơ?Em nói gì chị không
hiểu? Chùa Huy Văn nào? Sao em lại bỏ chùa Hun lên chùa Huy Văn?
Tiểu Mai biết mình lỡ lời.
Chuyện thâm cung bí sử triều đình, hở ra
là tru di tam tộc. Trong óc nàng chợt lóe lên hình ảnh gã thương nhân cùng cập
bến thuyền với nàng trưa nay. Đúng là gã mặt choắt, râu dê, mắt ti hí gian giảo
vẫn thường đến chùa Huy Văn dò la ngày nào. Gã là người của Hoàng hậu Nguyễn
Thị Anh phái tới đây để dò tìm tung tích Tiệp dư và Ấu vương. Hú vía. Gã mặt
choắt đã không nhận ra Tiểu Mai vì nàng đã thay bộ nâu sồng nhà chùa bằng bộ áo
thường dân. Mồ hôi nàng bỗng tóa ra.
- Dạ… À quên. Em nhầm. Ý em
nói là…
Nhưng Bùi Vọng Nguyệt là người đàn bà quá thông minh. Nàng đã ngầm hiểu ra. Ngày
nàng đóng vai Bùi Văn lên trường thi ứng thí, nàng đã làm quen nhiều văn nhân
sỹ tử, trong đó có ba người sau đó đã đỗ
đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đó là Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ và Lương Nhữ Hộc.
Ba chàng giám sinh cùng trạc tuổi Bùi Văn, lại hợp nhau về chí hướng nên hầu
như ngày nào cũng gặp nhau để trao đổi học thuật. Lúc nào họ cũng nhắc đến quan
Thừa chỉ Hành khiển Nguyễn Trãi, người sẽ là chánh chủ khảo kỳ thi này. Văn
chương của Ức Trai, dĩ nhiên vượt xa mọi thời. Còn nhân cách đức độ của Người
thì cả Lê triều không ai sánh bằng. Thời gian ấy, Nguyễn Trãi từ Côn Sơn về
kinh và đã cùng quan Thiếu úy Trịnh Khả xin
vua Lê Thái Tông giảm tội cho Tiệp dư Ngọc Dao, đưa về quản ở chùa Huy
Văn chờ ngày mãn nguyệt khai hoa. Các nho sinh bàn tán không ngớt về chuyện
này. Nhiều người đoán già đoán non sách văn kỳ thi tiến sĩ, nếu do quan Chánh
chủ khảo Nguyễn Trãi ra đề, nhất định sẽ bàn về đạo vua tôi, về đạo tam cương
ngũ thường, hoặc là bàn về Phật pháp, đạo pháp… Nếu Tiểu Mai lên chùa Huy Văn
từ dạo ấy thì nhất định là vì việc của Tiệp dư Ngọc Dao rồi.
- Ngày hôm kia thuyền của Lễ
nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ vừa ghé đây…
Câu nói tưởng như vô tình
của Bùi nương, cho Tiểu Mai hay là người đàn bà thông tuệ này đã biết hết mọi chuyện. Và Tiểu Mai đã
kể hết đầu đuôi câu chuyện, từ việc cử
người chăm sóc, người bảo vệ Tiệp dư, việc đào đường hầm rút ra ngoài đề phòng
quân của Hoàng hậu bủa vây, cho đến đêm Hoàng tử chào đời. Tất nhiên phần sau
của câu chuyện, tức việc đưa mẹ con Tiệp dư đi trốn, và hiện giờ Hoàng nhi ở
đâu, thì Tiểu Mai không thể tiết lộ. Nàng tự hào khẳng định với Bùi nương rằng
sứ mệnh của nàng là lên chùa Huy Văn để bảo vệ Tiệp dư và Hoàng nhi. Và nàng đã
hoàn thành xuất sắc trọng trách của đại hòa thượng Đạo Khiêm, sư thầy Pháp Hoa
và quan Thừa chỉ Hành khiển giao phó. Rằng ngày mai nàng sẽ phải về Côn Sơn gặp
Ức Trai và quan Lễ nghi Học sĩ để tổ chức lễ nghênh giá vào ngày mồng 4 tháng
tám sắp tới.
- Ở chơi với chị một ngày
nữa đi. Ngày kia vợ chồng chị sẽ cùng đi với em – Bùi nương nói – Thời gian gấp lắm rồi. Ba
ngày nữa Hoàng thượng sẽ thống lĩnh binh mã đi duyệt đại quân ở thành Chí Linh, sau đó người sẽ
ghé Côn Sơn thăm quan Thừa chỉ. Trưa mai, mẻ
gốm đặc biệt sẽ ra lò, sau đó chúng ta sẽ đi Côn Sơn…
- Thật vậy ư?- Tiểu Mai quên
cả lễ pháp nhà chùa, nắm lấy hai tay Bùi nương.
- Ban chiều Đặng công và chị
đã đưa em đi xem những đồ gốm mới nhất vừa ra lò. Em biết không, khi Lễ nghi
Học sĩ nhìn thấy những đĩa sứ, bình sứ Chu Đậu, người đã bất chấp cả lễ nghi dang tay ôm chị, khi cả người chị, cả
chân tay đều lấm đất. Người bảo, Ức Trai sẽ vui lắm đây khi được tiếp nhà vua
bằng những đồ sứ Chu Đậu này.
- Em chưa đến Bát Tràng,
nhưng em tin là Bát Tràng sẽ không có được những sản phẩm gốm sứ như ở đây…
- Em quả là người tinh đời.
Đặng công và chị đã đến thụ giáo các tượng nhân Bát Tràng, và đã học hỏi được
nhiều điều. Em chưa biết những sản phẩm đặc biệt đã được đóng gói đưa xuống
thuyền từ hôm qua. Và độc đáo nhất là mẻ gốm trưa mai do chính tay chị tạo
tác…Đây là quà tặng của vùng đất Mỹ Xá, Chu Trang để Ức Trai người nghênh giá
và dâng lên thánh thượng…
Tiểu Mai sung sướng như
chính mình được góp phần tạo ra những sản vật của vùng đất thiêng này. Nàng
bỗng buột miệng:
- Chị ơi, nếu số em không
được ăn mày cửa Phật nữa, chị cho em về đây làm kẻ hầu cho chị nhé.
Bùi Vọng Nguyệt vục ngồi dậy, khêu to ngọn dầu lạc, nhìn Tiểu
Mai trìu mến. Nàng nói:
- Nếu số mệnh đã vậy, hãy
cho phép chị coi em như tình cốt nhục. Ngày mai, trước mặt Đặng công, chị em
mình sẽ làm lễ ăn thề kết nghĩa chị em. Hãy về đây với chị…Nhưng Tiểu Mai ơi,
đừng giấu chị. Sư đệ Bùi Đình Khởi sẽ rất buồn khi biết tin này. Nhưng chị lại
mừng cho em. Người dám kéo em ra khỏi cửa thiền phải là một trang nam nhi tuấn
tú lắm phải không?
Hiển hiện trước mắt Tiểu Mai
là hình bóng chàng. Cao lồng lộng với gương mặt chữ điền, cặp mày ngài, đôi mắt
to sáng, vồng ngực vạm vỡ chắc khỏe. Kì lạ nhất là chàng có cây đoản côn lưỡng
công, vừa như một vũ khí lợi hại, vừa như một cây sáo thần.Khi chàng rút cây
sáo thổi, hoặc vỗ tay ám hiệu, lập tức xuất hiện một đàn bồ câu lượn vòng tít trên đầu. Đó là những con điểu thư gia truyền, mà ngày trước
nghe nói chỉ đại tướng quân Trần Nguyên Hãn mới có. Ngoài cái tên Nguyên Phong,
Tiểu Mai vẫn chưa hề biết gia thế và
hành tung của chàng. Nàng chỉ tin chắc
rằng, với diện mạo, phong thái và võ
nghệ siêu quần ấy, chàng quyết không phải là kẻ gốc gác tầm thường…
Không nỡ giấu Bùi nương,
Tiểu Mai đã kể cho nàng nghe về Nguyên Phong, về tài nghệ và chiến công của chàng trong việc giải cứu ông
Cả Khuê và phò tá Ấu vương cùng Tiệp dư
Ngọc Dao đi trốn.
- Ngày tới chị sẽ gặp chàng
ở Côn Sơn.- Tiểu Mai sung sướng khoe, nhưng rồi bỗng im bặt, nước mắt đầm đìa.
- Kìa em, sao lại khóc? Em
đang hạnh phúc mà…
Tiếng khóc Tiểu Mai càng to
hơn. Nàng gục đầu vào lòng Bùi nương nức nở:
- Nhưng chị ơi, em bối rối quá. Em khổ quá. Em là một kẻ chẳng ra gì… Em sẽ
phải đày xuống địa ngục khi dám phản bội
đức Phật, từ giã cửa thiền…
- Đức Phật sẽ tha thứ cho
em. Dù ở đâu, làm gì, tất cả chúng ta
đều là những phật tử của Người.
Bùi Vọng Nguyệt nói rồi đi
lại ban thờ Phật thắp ba nén nhang chắp tay cầu khấn.
Lạ thay, bát hương bỗng hóa,
lửa cháy thành ngọn . Dường như đức Phật đang cười.
***
Chiều hôm sau nữa thuyền của
vợ chồng tượng nhân Đặng Sỹ cùng với Ni cô Tiểu Mai đến Côn Sơn. Một khoang
thuyền lớn chất đầy hàng trăm sản phẩm gốm sứ độc đáo với nước men, dáng
vẻ tuyệt mĩ chưa từng thấy bao giờ. Đó
là những bộ đồ ăn gồm đĩa, bát, tô, liễn,bình rượu, những vật dụng như cơi đựng
trầu, ống vôi, chân đèn, lọ độc bình, những tượng Phật, tượng tam đa, tượng
người, những đồ vật trang trí hình rồng, nghê, những con giống đủ hình thù,
kiểu dáng…mỗi loại một màu men: trắng hoa lam,men ngọc, men màu tam thái,men
rạn đục…
Quan Thừa Chỉ cùng quan Lễ
nghi Học sĩ đón vợ chồng Đặng công như những người thân.
Về chàng nho sinh nổi tiếng
Bùi Văn, tức cô thục nữ Bùi Thị Hý, bị
phát giác trước kỳ thi Tiến sĩ, quan Thừa Chỉ biết quá rõ. Vụ việc Bùi Văn là
gái giả trai đi thi, loan đi khắp kinh thành, xôn xao đám sỹ tử. Hôm ấy, mấy vị
công thần thuộc Lam Sơn hội đã kéo nhau đến điện Kính Thiên tâu đức vua bắt Bùi
Văn hạ ngục để nghiêm phép nước. Quan
Thái bảo Bùi Quốc Hưng mặt mày xanh xám đến gặp Nguyễn Trãi: - Tiện nữ Bùi Thị Hý là cháu nội của tại hạ.
Cha nó đã hy sinh trong trận công thành Xương Giang. Chỉ vì ngông cuồng dại dột
mà cháu nó dám giả trai để đi thi. Mong quan Thừa Chỉ Hành Khiển nể tình bằng
hữu mà xin đức vua tha cho.
Nguyễn Trãi an ủi người bạn
cao niên:
- Quan Thái Bảo hãy bình
tâm. Cháu nội quan anh cũng là cháu của
Trãi này.Tại hạ còn muốn nhân trường hợp này xin Hoàng thượng ban chiếu từ nay
không ngăn cản bất kỳ trai hay gái tham dự các kỳ thi. Phải bình đẳng nam nữ,
thậm chí khuyến khích nữ giới học giỏi. Có như vậy mới tuyển chọn được người
hiền tài…
Quả nhiên quan Chánh chủ
khảo kỳ thi đã cùng với quan Lễ nghi Học sĩ bẩm với hoàng đế Lê Nguyên Long
đúng như đã nói với quan Thái Bảo. Nhưng Hoàng thượng gạt đi, cho rằng như thế
là gây mầm loạn. Nhà vua nói:
- Riêng việc ta tấn phong
chức Lễ nghi Học sĩ cho bà Lộ đã gây
điều tiếng trong và ngoài triều lắm rồi. Nhiều kẻ còn hỗn xược bảo rằng ta có
tư tình với vợ quan Hành Khiển. Sao loài cẩu trệ có thể nói hỗn hào như vậy
nhỉ? Nói riêng với Ức Trai, lúc nào ta cũng coi quan Lễ nghi Học sĩ như nhũ mẫu
của ta, như thầy dạy của ta. Nhờ quan Lễ
nghi Học sĩ mà đám cung tần của ta biết
chữ thánh hiền, biết đạo cương thường, nghĩa vua tôi…
Những lời như thế được phát
ra từ miệng một ông vua trẻ tuổi, vốn ham chơi, bất cần đến sơn hà xã tắc, thực sự đã là biểu hiện
của một đấng quân vương trưởng thành.Ức Trai không dám nài thêm, đành chấp nhận
việc đuổi Bùi Văn ra khỏi trường thi, cấm vĩnh viễn không được đi thi.
Ức Trai nhìn cặp trai tài
gái sắc, đưa đốt ngón tay bấm độn, như thầm nhẩm tính một điều gì, rồi nói với
quan Lễ nghi Học sĩ:
- Hai người này sẽ làm rạng
danh vùng đất Chu Trang, Nam Sách. Nhưng phải sáu trăm năm nữa, người đời mới
biết đến họ…
Đặng công nói:
- Bẩm Tướng công, chắc Tướng
công còn nhớ chuyến cùng quan Thái bảo
sang Mỹ Xá động thổ chiếc lò nung lớn nhất vùng Nam Sách. Hôm nay vợ
chồng kẻ tiện dân này muốn dâng Tướng công sản phẩm mới nhất của chiếc lò nung
đó, những sản phẩm do chính tay cô cháu nội của quan Thái bảo và cháu yêu vủa
Tướng công chế tác.
Đặng Công phất tay ra hiệu.
Gia nhân vác từ thuyền lên những hòm đóng đai gỗ, những sọt tre lớn đồ gốm sứ.
Bùi Vọng Nguyệt chắp tay xá
quan Lễ nghi Học sĩ rồi thưa:
- Dạ, theo lời chỉ bảo của
quan bà hôm từ kinh đô ghé qua Chu
Trang, hôm nay lò gốm Chu Đậu chúng con xin dâng biếu Tướng công hai loại sản
phẩm, loại ngự dụng và loại gia dụng. Bộ đồ ngự dụng, gồm tượng, bình, đĩa
trang trí, bộ đồ uống trà, bộ đồ ăn để
hôm tới Tướng công và phu nhân nghênh tiếp Thánh thượng và các quan triều đình.
Bộ đồ gia dụng để tiếp qúi khách và người nhà dùng. Đặc biệt, có loại vật phẩm
đặc biệt để Tướng công và phu nhân dùng và làm quà dâng lên đức Vua, như một sản vật của vùng quê Nam Sách…
Đặng công đỡ lời vợ:
- Dạ thưa, vật phần tặng
riêng Tướng công và phu nhân là do chính tay Bùi Vọng Nguyệt tạo tác. Mẻ gốm
vừa ra lò trưa hôm qua. Xin Tướng công và phu nhân thưởng lãm và cho lời chỉ
giáo.
Những chiếc khăn nhiễu điều
được mở ra. Cả Ức Trai và bà Lộ đều sững
sờ. Không thể không gọi là kiệt tác. Hai chiếc bình cao chừng hai gang tay,
ngời lên chất men ngọc hoa lam trong suốt, được chạm vẽ nổi chìm những hoa văn
cúc, sen cách điệu vô cùng tinh xảo. Một chiếc hình củ tỏi, một chiếc hình đàn
Tỳ bà, như một cặp uyên ương sánh vai nhau.
Ức Trai ngắm nghía hai chiếc
bình, rồi nhìn Bùi Vọng Nguyệt, thốt lên:
- Trời ơi, những kiệt tác
của một tượng nhân kỳ tài!
Bùi nương thưa:
- Dạ thưa Tướng công. Từ khi
về làm dâu con dòng họ Đặng và gắn bó với nghề
gốm sứ Chu Đậu, con luôn mơ ước làm
được một sản phẩm độc đáo để kính dâng Tướng công và phu nhân, hai vĩ
nhân mà con vô cùng tôn kính và ngưỡng mộ. Cả trong mơ con cũng nghĩ về hai người.
Thế rồi con nảy ra ý nghĩ phải làm một cặp bình sứ tượng trưng cho hình tượng
một đôi trai tài gái sắc, đó là Ức Trai tiên sinh và Lễ nghi Học sĩ. Và bây giờ
hình tượng ấy đây. Hai chiếc bình này là một cặp, đúng như ý tưởng của vợ chồng
con. Người đời có thể gọi đó là cặp bình Tình Nhân, tượng trưng cho Âm Dương,
Trời Đất, Vợ Chồng…
- Ta hiểu - Ức Trai gật gù,
vuốt chòm râu bạc – Bậc hiền triết có
thể nghĩ ra ý tưởng, nhưng nếu không có bàn tay kỳ tài của tượng nhân Bùi Vọng
Nguyệt đây thì đất Chu Đậu vẫn chỉ là đất mà thôi…
- Dạ, thưa Tướng công – Bùi
nương lại nói – Con đã đọc “Dư địa chí”
của người. Con ghen với Bát Tràng, vì lò gốm sứ này đã lọt vào mắt xanh của Tướng công, được viết
vào“Dư địa chí”, còn Chu
Đậu thì chưa…
Nguyễn Trãi khoát tay, cười:
- Từ hôm nay, gốm sứ Chu Đậu đã thực sự
làm ta kinh ngạc. Ta sẽ san định lại, sẽ bổ cứu vào sách “Dư địa chí”. Ta hứa. Sắp tới,
khi Hoàng thượng ngự giá tới đây, ta sẽ
tâu ngài đưa gốm Chu Đậu vào hàng sản
vật cống phẩm của triều đình…
Bùi nương nhìn chồng, ánh
nhìn tràn trề hạnh phúc và mãn nguyện. Nàng muốn thưa với Ức Trai dự định lớn nhất của đời nàng là được họa chân
dung của Người trên những đĩa gốm, bình gốm, được khắc áng thiên cổ hùng văn
bất hủ “Bình Ngô đại cáo”và những bài thơ của Người trên những bình, đĩa lớn, được đóng những
thương thuyền vượt biển mang những sản phẩm gốm Chu Đậu tới mọi miền quê Đại
Việt và các nước lân bang.
Đặng công đưa mắt cho vợ.
Bùi Vọng Nguyệt hiểu ý, bảo gia nhân mở tấm khăn điều cuối cùng. Lộ ra hai chiếc
độc bình cao chừng một đứa trẻ ba tuổi màu hoa lam, điểm hình tre trúc, thông
tùng.
Ức Trai sững sờ. Một lọ độc
bình vẽ cảnh núi non hùng vĩ, in bài thơ viết trên Thác Bờ của đức Lê Thái Tổ.
Lọ kia vẽ cảnh non nước thần tiên, in bài thơ Vân Đồn của Ức Trai. Tài tình
nhất là chữ viết trên bình chính là thủ bút của vua Lê Thái Tổ và của Nguyễn
Trãi.
Ức Trai bỗng nhớ lại chuyến
đi đầy ấn tượng trên vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Hàng nghìn đảo đá với trăm
hình nghìn vẻ. Thuyền như lọt vào một bát quái trận đồ với đảo đá vây bủa, có
lúc như bức trường thành chắn ngang
tưởng không có đường ra, có lúc mở ra một dòng sông trên biển, nước chảy
xiết, có lúc hun hút bị cuốn vào một dòng xoáy, lại có lúc mở ra bát ngát, sóng
biển trắng xóa tưởng nhấn chìm thuyền và người .Bỗng nhớ đến những chiến công
hiển hách từ thời Ngô Vương, Hưng Đạo Vương. Vùng bát quái trận đồ này đã chôn
không biết bao nhiêu chiến thuyền của quân giặc phương Bắc. Ra tới Vân Đồn, đến
bến Cái Làng, đình Quan Lạn…mới hay từ triều Lý, Trần, các bậc tiền nhân đã chú
tâm khai mở vùng biển An Bang này, không chỉ là phên dậu bảo vệ xã tắc mà còn
mở mang thương trường, bang giao với lân bang. Ức Trai đã viết bài thơ Vân Đồn
để kỷ niệm chuyến đi này.
Bùi nương thưa:
- Dạ, nếu Tướng công chọn
đôi độc bình này để làm bảo vật dâng đức
vua Lê Thái Tông khi Người ngự giá đến đây, thì rất hợp ạ.
Quan Lễ nghi Học sĩ cất
giọng đọc bài thơ “Vân Đồn” của Ức Trai
tiên sinh in trên bình hoa lam:
“ Lộ nhập Vân Đồn sơn phục
sơn
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan
Nhất bàn lam bích trừng minh
kính
Vạn hộc nha thanh đóa thúy
hoàn
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc
Phong ba bất động thiết tâm can
Vọng trung ngạn thảo thê thê
lục
Đạo thị Phiên nhân trú bạc
loan”(*)
( Đường tới Vân Đồn đảo uốn
quanh
Đất trời phục dựng đại kỳ
danh
Nước biếc như gương trời soi
bóng
Muôn hộc buông rèm tóc mướt
xanh
Nhạc biển reo vang tầm vũ
trụ
Bão giông càng vững chí bình
sinh
Trông bờ cây cỏ rờn xanh
thẳm
Thương khách bán buôn thật
hữu tình)
(
HMT dịch)
Đặng công không khỏi xúc
động khi thấy nụ cười mãn nguyện trên môi Ức Trai.Vội thưa:
- Dạ, hẳn Tướng công còn nhớ
chuyến ra chơi Vân Đồn cùng với quan
Thái bảo Bùi Tướng công. Nhân chuyến giao hàng cho khách buôn Nhật Bản, vợ
chồng kẻ tiện dân này đã có hân hạnh được tháp tùng Người trên vùng viễn hải.
Và Người đã chép tặng Bùi Tướng công bài thơ này…
Ức Trai vuốt chòm râu bạc,
cười lớn:
- Ta quên sao được.Đó là lần
đầu tiên ta ra thăm thương cảng Vân Đồn. Non sông gấm vóc Đại Việt khó nơi nào
sánh bằng Hạ Long, Bái Tử Long. Thơ ta chưa xứng với sự diệu huyền của tạo hóa,
chưa xứng với Vân Đồn…
***
Bây giờ nói về Tiểu Mai.
Trong khi mọi người bận rộn
gặp gỡ, chào hỏi và chuyển đồ từ thuyền
lên, thì Tiểu Mai lặng lẽ vào trong khoang, nơi buồng kín, thay bộ áo tứ thân bằng bộ nâu sồng nhà Phật.
Nàng ngồi trong đó rất lâu,
mắt đăm đắm rõi qua ô cửa nhỏ tìm kiếm trong đám người nhà quan Thừa Chỉ từ tư dinh đi xuống. Tim nàng
như ngừng đập, khi nhìn thấy Nguyên Phong theo sau ông Cả Khuê xuống tận bến đò
đón khách.
Nguyên Phong cũng nhớn nhác như tìm
kiếm ai đó.
Em đây!
Tiểu Mai muốn reo lên, muốn
kêu vang động cả vùng sơn thuỷ để báo cho chàng hay. Tiếng kêu lần đầu tiên
trong đời, khẳng định mình là một thiếu nữ, một người phàm tục đang yêu. Nhưng
nàng không dám. Cổ họng nàng như bị chẹn lại. Nước mắt nàng giàn giụa. Hình
bong Nguyên Phong nhoà đi. Chàng cũng nhớn nhác nhìn quanh như tìm kiếm ai đó.
Còn tìm ai nữa? Chàng đang
tìm kiếm Tiểu Mai.
Không thấy nàng, Nguyên
Phong đầy thất vọng, buông thõng hai tay, như buông xuôi tất cả.
Hoàn toàn không chủ động
được mình, như kẻ mộng du, Tiểu Mai lao
từ khoang thuyền lên mui, bay từ mũi thuyền vào bờ, vượt một khoảng rộng mà
người võ nghệ cao cường chưa chắc đã vượt qua nổi. Cứ thế, Tiểu Mai lao tới bên
Nguyên Phong, mặc cho hàng trăm cặp mắt nhìn họ đầy kinh ngạc.
- Nguyên Phong, chàng không
nhận ra em ư? Còn em, chưa bao giờ em nhớ chàng như bây giờ.
Tiếng của nàng rất nhỏ, chỉ
đủ để chàng nghe thấy, nhưng sao chàng cảm thấy như nó vang ngân, tràn ngập
không trung.
Nguyên Phong chột dạ. Chàng
chắp hai tay, toan bật ra hai tiếng “Mô Phật”. Nhưng rồi chàng kịp dừng lại,
đưa cánh tay đỡ lấy tấm thân thiếu nữ đang ào tới chàng.
----------------------------
(*)
Vân Đồn - Ức Trai thi tập
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét