NGUYÊN KHÍ
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
11. TƯỢNG NHÂN BÙI THỊ HÝ
Giang sơn như tạc anh
hùng thệ
Thiên địa vô tình sự
biến đa
( Nước non như vẽ
người đâu tá
Trời đất vô tình việc
rối bong)
( Quá Thần Phù hải khẩu – Ức Trai
thi tập - Nguyễn Trãi )
“ Hai người này sẽ làm rạng
danh vùng đất Chu Trang, Nam Sách. Nhưng phải sáu trăm năm nữa, người đời mới
biết đến họ…”
Lời tiên đoán của Ức Trai tiên sinh vào tháng bẩy năm
Nhâm tuất,1442 ấy, đúng 567 năm sau, vào
ngày 26 tháng 10 năm 2009, tức ngày 9 tháng 9 Kỷ sửu, hậu duệ của tượng nhân
Bùi Thị Hý mới tìm thấy phần mộ và lai lịch của bà.
Câu chuyên bắt đầu từ lá thư
của ngài Makoto Anabuki, Bí thư Đại sứ quán Nhật Bản ở Hà Nội gửi cho ông Ngô Duy Đông, lãnh đạo
tỉnh Hải Hưng.
Năm 1980, trong một chuyến
sang thủ đô Istambul, Thổ Nhĩ Kỳ, ông
Makoto Anabuki đã tới thăm bảo tàng nổi tiếng Topkapi Saray. Tại đây ông đã
nhìn thấy chiếc bình hoa lam quí giá hình củ tỏi, cao 54 cm, được bảo hiểm tới
một triệu USD, có ghi dòng chữ Hán: “Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng
nhân Bùi Thị Hý bút” (Thái Hòa năm thứ 8 – Đời vua Lê Nhân Tông, 1450 – tượng
nhân là Bùi Thị Hý, người châu Nam Sách lưu bút).
Vì sao cặp bình Tình Nhân,
âm - dương, lại chỉ còn một? Chiếc bình âm - Tỳ bà, thất lạc ở đâu? Vì sao
chiếc bình cổ của Việt Nam
lại đến tận đất nước Thổ Nhĩ Kỳ xa xôi? Tượng nhân Bùi Thị Hý là ai? Ở đâu?
Sống vào thời nào?
Suốt hai mươi năm sau đó,
một cuộc tìm kiếm nơi xuất xứ của chiếc bình cổ hình củ tỏi vô giá kia và nguồn
gốc gia thế tượng nhân Bùi Thị Hý, diễn ra trên nhiều địa bàn của tỉnh Hải
Dương, khi âm thầm lặng lẽ, lúc sôi động quyết liệt. Từ năm 1986 đến 1997, các
nhà khảo cổ học Hải Dương, tiêu biểu là nhà khảo cổ học Tăng Bá Hoành đã kỳ
công tìm kiếm, thăm dò, kể cả lục tìm
kho thư tịch, gia phả, kể cả thám sát trên thực địa. Có nguồn tư liệu cho rằng
vùng gốm cổ có thể nằm bên sông Thái Bình, thuộc khu vực Trần triều Hải khẩu
ngày xưa. Nhưng qua điền dã, dấu tích bề mặt tuyệt nhiên không thấy. Chỉ bát
ngát một vùng trồng lúa, trồng cói. Mấy làng ven sông, nhất là Chu Đậu, chỉ có nghề truyền thống dệt chiếu.
May thay, cuối cùng, các nhà
khảo cổ đã xác định được vùng sản xuất gốm sứ cổ trên một diện tích 40.000 mét
vuông, tại khu vực giáp đê sông Thái Bình, trên địa bàn hai xã Thái Tân và Minh
Tân, huyện Nam Sách.
Sau bẩy lần khai quật, một
phát hiện bất ngờ đã lộ ra: Hơn một trăm đáy lò nung dưới lòng đất với hơn một
vạn hiện vật, gồm bát, đĩa, hộp, lọ, bình gốm sứ… cách đây từ năm trăm đến sáu
trăm năm.
Chu Đậu, Chu Trang đã phát lộ, đã được thừa nhận từng là một
trung tâm gốm sứ lớn và nổi tiếng không thua kém gì Bát Tràng.
Tiếp đến, năm 1994, ngư dân
Quảng Nam đã phát hiện và trục vớt được ở ngoài khơi đảo Cù Lao Chàm một con tàu đắm, tìm được 340.000
hiện vật gốm sứ Chu Đậu.
Các nhà sử học không khó khăn gì khi cắt nghĩa
sự biến mất của gốm sứ Chu Đậu khỏi bản
đồ phát triển ngành gốm sứ Việt Nam
mấy trăm năm qua. Có thể khẳng định, vùng gốm sứ này xuất hiện từ thời Lý –
Trần. Thời Minh thuộc, giặc Ngô đã bắt đi nhiều nghệ nhân giỏi giải về Yên
Kinh. Một số khác di cư sang Triều Tiên, Nhật Bản. Riêng nghệ nhân Vương Quốc
Doanh chuyển lên Bát Tràng, trở thành tượng nhân nổi tiếng. Sau cuộc kháng chiến chống quân Minh, vùng
gốm Chu Trang khôi phục dần, đạt mức cực
thịnh vào cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI ( từ khoảng 1430 đến 1530). Nhưng rồi
Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1526), Lộ Hải Đông trở thành địa bàn ác liệt
suốt cuộc chiến tranh Lê – Mạc. Các lò gốm Chu Đậu bị hủy hoại, vùi lấp dưới
các lớp trầm tích.
Cuộc tìm kiếm nữ tượng nhân
họ Bùi khó khăn và mù mịt hơn. Bởi các
thư tịch cổ đã bị mất nhiều, các gia phả, tộc phả cũng hiếm gặp, lại viết bằng
chữ Hán, ít người đọc được.
Nhưng rồi linh hồn người xưa
như mách bảo, ông tộc trưởng họ Bùi ở Quang Ánh, Gia Lộc, tìm thấy cuốn gia phả
dòng họ có ghi bà cô tổ Bùi Thị Hý (1420
-1499), là cháu nội của khai quốc công thần triều Lê, Bùi Quốc Hưng. Được các
nhà khảo cổ, các nhà Hán học trợ giúp,
những bí mật ngôi mộ cổ của bà Bùi Thị
Hý đã được tìm ra. Trong kho tàng đồ gốm
tổ tiên để lại có một chiếc mâm đồng ghi
những thông tin về bản sao văn bia mộ chí:
Kỳ tài phu nhân Bùi Thị Hý
chi mộ.
Chồng bà Bùi Thị Hý là Đặng
Sỹ. Ông bị chết trên biển trong một lần
đưa hàng gốm sứ đến một thương cảng. Bà tái giá
với ông Đặng Phúc, một đại gia khác ở
Chu Đậu. Sau đó hai người tiếp tục đưa
gốm sứ sang bán ở phương Tây.
Cuối đời, tượng nhân Bùi Thị
Hý về công đức làm chùa Viên Quang.
Từ một thông tin ở chùa Viên
Quang, cuối cùng những hậu duệ họ Bùi,
mà đại diện là ông Bùi Lợi, đã lần tìm
ra ngôi mộ cổ của bà Bùi Thị Hý, táng
tại gò Hình Nhân, thôn Quang Tiền, xã
Đồng Quang huyện Gia Lộc, Hải Dương.
Hòn gạch đậy trên mộ ghi:
“Tẫn cốt tổ cô Bùi Thị Hý nội bình đồng Vọng Nguyệt bảo kiếm”(Tro xương tổ cô
Bùi Thị Hý trong bình cùng thanh kiếm Vọng Nguyệt của bà).
Đáng chú ý là trong mộ, ngoài chiếc đĩa và con nghê có
thủ bút của bà Hý, còn có một phiến đá
nhỏ ghi chữ Hán. Đó là chiếc la bàn đi biển. La bàn hình vuông, kích thước 1,7
x 1,7 x 7 centimet, giữa có một lỗ sâu để đặt kim nam châm, có ghi:“Châm bàn
chu hải khứ Bùi Thị Hý”( Bàn kim chỉ thuyền đi biển của Bùi Thị Hý).
Vậy là, không còn nghi ngờ
gì nữa, nữ kỳ tài Bùi Thị Hý là một
tượng nhân, nhà doanh nghiệp, nhà hàng
hải. Người vượt đại dương đầu tiên của Việt Nam chăng? Nếu vào năm Canh Ngọ,
1450, chiếc bình hoa lam dương do bà chế tác vượt biển để đến Thổ Nhĩ Kỳ, thì
bà có kém gì Christopher Columbus
(1451-1506), Ferdinand Magiellan (1480- 1521), những người đương thời, nhà phát
kiến địa lý, nhà hàng hải vĩ đại của nhân loại. Và con đường giao thương trên biển, từ Đại Việt,
men theo Thái Bình Dương, sang Ấn Độ Dương, vào Địa Trung Hải…, thuyền của bà
đã không dưới một lần vượt qua.
Vĩ đại thay là một nữ kỳ
tài!
Thảo nào, mới gặp, Ức Trai
tiên sinh đã nhận ra tài năng và tầm vóc
của con người xuất chúng này!
Cũng trong dịp này, dòng họ
Phí ở Hà Nội, xuống nhận dòng họ Bùi ở Gia Lộc. Cuộc thất lạc họ hàng này đã mấy trăm năm? Rất có thể từ
khi giặc Ngô dày xéo Đại Việt.
Tra tìm trong gia phả, thấy
dòng họ Phí từng có một vị quan trọng
thần tên là Phí Mộc Lạc.
“Đại Việt sử ký toàn thư”
chép: “ Tháng hai ( Hưng Long, 1304), lấy Bùi Mộc Đạc làm Chi hậu bạ thư chánh
chưởng trông coi cung Thánh Từ. Mộc Đạc tên tự là Minh Đạo, người Hoàng Giang,
họ Phí, tên là Mộc Lạc, có tài năng. Thượng hoàng cho rằng họ Phí từ xưa không
thấy có, mới đổi làm họ Bùi, cái tên Mộc Lạc là điềm chẳng lành(*), mới đổi
thành Mộc Đạc(**) sai theo hầu ngày đêm. Đến nay trao cho chức ấy. Sau này,
người họ Phí hâm mộ danh tiếng của Mộc Đạc, nhiều người đổi làm họ Bùi.”
Tượng nhân Bùi Thị Hý là
chắt 5 đời của đại thần Bùi Mộc Đạc ( Phí Mộc Lạc) thời Trần. Thân mẫu bà là hậu
duệ của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
***
“ Thọt bỉ nhân” Bùi La Việt
không ngờ từ mấy năm nay, anh lại là một trong những người góp phần phục dựng
lại tiểu sử và chân dung tượng nhân Bùi Thị Hý, người mà vào cuối tháng bẩy năm Nhâm tuất, 1442 ấy, đã
cùng chồng mang đến tặng Ức Trai tiên sinh những vật phẩm gốm sứ tuyệt vời để Người chuẩn bị nghênh đón vua Lê
Thái Tông vi hành.
Về nguồn gốc họ Bùi của “Thọt bỉ nhân” và những liên quan gốc gác với dòng tộc tượng
nhân Bùi Thị Hý, sẽ nói sau.
Phần việc của anh, nhà ngoại
cảm, là phải “đọc” được những ký hiệu của người xưa, đưa được họ “gặp” hậu duệ
để họ “nói ra” những điều cần biết. “Thọt bỉ nhân” còn nhớ như in cái cảm giác
đêm ở chùa Viên Quang cách đây sáu năm.
Lúc ấy đã khuya, ngoài trời lắc rắc mưa. Bùi La Việt đang ngồi cầu khấn trước
điện, bỗng rùng mình ớn lạnh, thấy mặt mày xây xẩm, rồi như có cơn bão biển
tràn về.
Sóng biển cao ngất trời. Một
chiếc thuyền lớn, cột buồm nghiêng ngả, những cánh buồm tơi tả hiện ra. Một
người đàn bà vận áo tứ thân, chít khăn vành dây màu huyết dụ, một tay cầm thanh
đoản kiếm có khắc chữ Vọng Nguyệt ở đốc kiếm, một tay cầm một ống kính viễn
vọng, như từ trong sương khói hiện ra. Người đàn bà ấy xưng tên là nữ tài nhân Bùi
Thị Hý, đang dẫn đầu một thương đoàn đi sang Tây phương. Giọng bà như lẫn trong
tiếng sóng biển: “Ta tưởng đã bị người đời quên lãng, bị vùi sâu dưới tầng đất
cùng với những lò gốm Chu Trang. May thay, đúng như lời Ức Trai tiên sinh tiên
đoán, đất nước đã đến thời hưng thịnh, người đời đã tìm thấy Chu
Đậu, đã biết đến ta. Thật là diễm phúc dòng họ Bùi, dòng họ Phí, dòng họ Đặng.
Dẫu là nữ nhân, nhưng từ nhỏ ta đã có chí hướng nam nhi. Không được thi thố
chốn quan trường, thì ta quyết cùng các thương nhân tỏ tài dũng lược, muốn nước
Đại Việt không thua kém các nước lân bang, muốn gốm Chu Đậu danh vang bốn cõi,
hàng bán buôn khắp cả Trung Nguyên, Nhật Bản, Cao Ly, Chiêm Thành, Trảo Oa,
Xiêm La, Mãn Lạt Gia, thậm chí sang cả
Tây phương…”
Sau chuyến “gặp” ấy, hậu duệ họ Bùi đã tìm thấy mộ tượng
nhân Bùi Thị Hý, đã tìm được chiếc la
bàn đi biển đầu tiên của người Việt, một báu vật vô giá.
Bây giờ, một lần nữa, Bùi La
Việt, với tư cách một dịch giả, lại tìm thấy trong thư tịch cổ hình bóng nàng
tài nữ họ Bùi, những năm nàng ở tuổi hai mươi. Chắc chắn chiếc bình hoa lam củ
tỏi mà ngài Makoto Anabuki được chiêm
ngưỡng trong bảo tàng Topkapi Saray, đã được làm ra sau bộ bình Tình Nhân mà vợ
chồng nàng tặng Nguyễn Trãi tám năm. Đó là thế hệ bình thứ hai hoặc thứ ba, khi
mà tay nghề và tài năng của tượng nhân đã lên đến tuyệt đỉnh, khi mà cái chết
oan khiên của cặp Tình Nhân Nguyễn Trãi – Nguyễn Thị Lộ trong vụ án Lệ Chi Viên
đã hằn lại trong lòng nàng Vọng Nguyệt một nỗi đau đến mức chiếc bình nàng tạo
ra đã kết đọng hồn người.
Đau đớn thay, đến cả bình sứ
cũng bị tách chia, cũng bị lưu đày.
---------------------
(*) Mộc lạc có nghĩa là cây đổ, cây rụng.
(**)Mộc
đạc có nghĩa là cái mõ, sự nổi tiếng.
(Xem tiếp kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét