Ký ức làng
Cùa
Tiểu
thuyết của Đặng Văn Sinh
PHẦN THỨ
HAI
Chương mười
5
Bà Cả Huê
được ra khỏi buồng giam bị dân quân áp giải về nhà trình báo tài sản trước khi
đem ra xét xử. Những người thực hiện cuộc khảo của này là Xã đội Mực, Lê thị
Chĩnh Con và Ứng Thị Sót. Bà Chánh mặc bộ váy áo mốc thếch chẳng khác gì con mẹ ăn mày, quỳ ở chân đống rơm có
hai dân quân kèm hai bên. Cố nông Sót nâng cằm bà ta lên bảo :
-Thị Huê
nghe đây! Vàng dấu ở đâu phải thành khẩn khai ra, toà sẽ khoan hồng.
Vợ Chánh
Đàm lắc đầu:
- Thưa bà
cốt cán, nhà này có bao nhiêu tài sản Đội Cải cách đã tịch thu hết, chúng tôi
bây giờ cái bát mẻ cũng không có mà ăn lấy đâu ra vàng.
- Cà cuống
chết đến đít vẫn còn cay! - Sót túm tóc bà Cả Huê giật mạnh mấy cái rồi lèm bèm
chửi hệt như mụ hàng thịt. - Quân mặt sứa gan lim , đồ l... sành ghe đá hút máu
mủ của bần cố nông giàu nứt đố đổ vách mà bảo không có vàng, nói chó nó cũng
không nghe được .
Xã đội Mực
hùng hổ chạy lại giáng liền hai bạt tai làm người đàn bà ngót sáu chục tuổi
loạng choạng, đổ vật vào đống rơm. Hắn kéo bà ta dậy bắt quỳ như cũ, giọng rít
lên :
- Biết điều
thì khai ra vàng ở đâu, nếu không đừng trách.
- Đã bảo là
không có vàng. Các ông các bà đánh chết cũng chẳng đào đâu ra.
- A! Con
khọm này lỳ gớm nhỉ. Cô Sót đâu, lấy chày giò ra đây.
- Hình như
mấy chiếc chày đã được chuẩn bị từ trước. Lê Thị Chĩnh và Ứng Thị Sót, mỗi cô
một bên, tốc váy bà Chánh lên ngang đùi thi nhau dần vào hai đầu gối. Bà ta đau
quá kêu ồ ồ như bò rống, được một lúc thì đái ra váy khai nồng nặc làm hai cốt
cán phải tạm thời bỏ cuộc.
Chừng nửa giờ, sau khi đã thì thầm hội ý với
Lương Văn Mực và Lê Thị Chĩnh, Ứng Thị Sót thay đổi chiến thuật, đưa bà Cả Huê
vào nhà, rót cho chén nước rồi nhẹ nhàng trách :
- Bà cứ
ngoan cố chỉ thiệt vào thân. Chúng tôi thay mặt Đội Cải cách kiểm kê tài sản,
yêu cầu gia đình thành khẩn khai báo, nhất là những đồ vàng bạc, nhà nước chỉ
trưng thu một phần còn đâu sẽ trả lại.
Bà Cả Huê
vẫn im lặng. Sót lại tỉ tê hỏi:
- Thế cái
xuyến vàng nạm ngọc bích trước đây cô Huệ vẫn đeo bây giờ để đâu?
- Nó đã
mang theo chồng sang Pháp rồi.
- Còn cái
vòng cẩm thạch có khắc chữ Phúc?
- Tôi bán
lấy tiền tậu trâu hồi đầu năm Tỵ.
- Bán cho
ai?
- Trên cửa
hàng nữ trang Đông Thị ấy, bà lên mà hỏi.
- Sợi dây
chuyền vàng bảy đồng cân có mặt đá hình quả tim chắc cũng bán rồi phải không? -
Sót dằn giọng.
- Cái dây
ấy hồi qua đò Vạn tôi lỡ đánh rơi xuống sông mất.
- Bà Bà coi
cán bộ Đội Cải cách là trẻ con đấy à?
- Nếu không
tin Đội Cải cách cứ cho người đào bới khắp nhà lên mà tìm.
Xã đội Mực
giật nảy người chỉ tay vào mụ địa chủ
giọng rít lên:
- Trói con
mẹ thần đanh đỏ mỏ này đem vào chuồng trâu vụt chết cha nó đi.
Đến lúc này
thì bà Chánh không thể chịu được nữa.
Thôi thì lành làm gáo vỡ làm muôi, tao sẽ liều với chúng mày một phen rồi muốn
ra sao thì ra. Nghĩ vậy, bà đứng dậy tụt váy ra vứt vào mặt tay Mực :
-Bà cho
mày vàng
đấy, mang về bán đi mà ăn dần.
Tấm váy
nhuộm thâm lâu ngày không giặt bốc mùi khăn khẳn trùm lên đầu ông Xã đội. Anh
ta không dự liệu được tình huống này nên hoàn toàn bị động, lúng túng mãi mới
thoát ra khỏi tình huống bi hài, miệng vừa khạc nhổ vừa chửi lèm bèm :
-Đ. mẹ con
mụ già chết tiệt.
Hai nữ cốt
cán nhìn bà Chánh cởi truồng tô hô vừa tức vừa buồn cuời, mắng:
- Rõ là
không biết dơ!
-Có mà dơ cái
l... bà đây này.-Bà ta vỗ bành bạch vào bẹn rồi hất hàm bảo đám cốt cán:
- L.. tao
có bao nhiêu sợi lông thì nhà tao có chừng lạng vàng. Chúng mày có giỏi vào đây
mà đếm.
Xã đội Mực
vồ lấy súng giương lê, mặt hằm hằm chĩa vào người đàn bà cởi truồng. Vào đúng
lúc ấy, nếu Đội Lạc không xuất hiện kịp thời thì chắc là mũi lê sáng loáng của
ông Xã đội đã xuyên thấu âm hộ bà Chánh. Anh ta liếc qua đã hiểu ngay sự việc
liền bảo đám tay chân:
- Các đồng
chí về đình ngay để Đội Cải cách phổ biến nhiệm vụ mới.
Ứng Thị Sót
đưa mắt cho nhân tình:
-Nhưng
thưa.. anh, con mụ này dám có hành động lăng nhục cốt cán.
-Tôi biết.
- Lạc gật đầu chỉ tay vào chiếc váy bảo bà Chánh. - Bà mặc vào rồi đi theo
chúng tôi.
Cuộc khảo
của xem như thất bại. Bà Cả Huê lại bị giam vào căn buồng cũ. Người mệt rã rời
do bị quỳ quá lâu trong một tư thế, bà ta ngồi lên tấm phản mộc, lưng đựa vào
tường thiu thiu ngủ, nhưng vừa chợp mắt được một lúc, quang cảnh náo loạn của
cuộc chia quả thực mấy hôm trước lại hiện ra.
Ngôi
biệt thự hai tầng với kiểu kiến trúc lai căng cùng dãy nhà ngang do Khúc Đàm vẽ
kiểu được gỡ niêm phong. Bùi Quốc Tầm, trưởng ban điều hành trưng thu tài sản
địa chủ cường hào xã Đoàn Kết ra lệnh cho dân quân dẫn bà Cả Huê trói vào cột
chuồng trâu. Đội Cải cách muốn chơi đòn cân não để khổ chủ tận mắt nhìn thấy
bần cố nông thực hiện lẽ công bằng, vì sự công bằng vốn là ước vọng ngàn đời
của người lao động chân chính. Tất cả bàn thờ, giường phản, sập gụ, tủ chè, hòm
rương, thóc lúa được khuân ra thành mấy đống giữa sân. Các bần cố nông đứng
vòng trong vòng ngoài, phần lớn mặt nhăn nhúm , vàng vọt vì đói ăn, mắt hau háu
nhìn những thứ đồ sơn son thiếp vàng, miệng nuốt nước bọt ừng ực. Bà Cò Toét
mặc chiếc váy đụp hàng trăm mảnh lấy bàn tay mân mê chiếc sập gụ đen bóng mát
như lụa nõn chép miệng:
- Tôi mà
được nằm lên cái sập này một đêm chết cũng sướng.
Lão Khính,
cựu mõ làng , già lụ khụ chống gậy lọc cọc vào sân bảo Đội Lạc:
- Cả đời
tôi chỉ mong được cái ngai thờ để rước các cụ về.
Cánh tá
điền xem ra thực tế hơn. Bọn này đều vào ở độ tuổi trên dưới ba mươi, chẳng để
ý gì đến sập gụ tủ chè mà đứng túm tụm với nhau bàn tán về ba bốn con trâu đang
buộc quanh đống rơm và đám cày bừa, mai cuốc cùng hơn chục chiếc gầu tát nước
vứt lổng chổng trước cửa nhà bếp. Ba Khích, một tay nổi tiếng làng Cùa về tài
vực nghé vuốt ve con trâu đực sừng cánh ná, lông đen, da bóng như sừng. Hắn hết
đứng lại ngồi không dám rời đi chỗ khác, tay khư khư giữ sợi dây thừng vì sợ có
người phỗng tay trên. Gã Trương Chạm mắt trắng dã như mắt lợn luộc, tay chân
lòng khòng, vai so làm cái cổ cò như kéo dài ra, ngay từ sáng sớm đã muốn gìành
con trâu mộng về phần mình, thấy Ba Khích giữ rịt sợi dây thừng hắn nóng mắt
bảo:
- Bỏ dây
thừng ra! Con này tao nhận từ hôm qua rồi.
- Đừng
hòng. Anh Lạc đã hứa cho tao.
Làm gì có
chuyện ấy. Phân chia quả thực[1]
phải công bằng chứ.
- Này, hôm
trước ở nhà Chánh Bang mày đã nhận con nghé tơ sao hôm nay lại còn đòi trâu?
- Con ấy
khi cày nó cứ phá ách tao đổi cho nhà Bồng rồi.
- Thế thì
mặc xác mày.
Trương
Chạm vốn hay gây gổ, trái ý là xông vào thượng cẳng chân hạ cẳng tay, thấy Ba
Khích có ý giữ bằng được con trâu liền quai cho hắn một quả. Cú đấm không đau
lắm nhưng vì tức thằng đầu bò nên Ba Khích kêu toáng lên rồi nhảy bổ tới đấm đá
đối phương túi bụi. Hoá ra trong sân không chỉ có cặp Trương Chạm, Ba Khích đấm
nhau. Trước đống của giời ơi không phải mồ hôi nước mắt của mình làm ra, lòng
tham nổi lên, ai cũng muốn chiếm làm của riêng, thành thử Đội chưa kịp lên danh
sách phân phát họ đã xông vào tranh cướp. Sân nhà Chánh Đàm bỗng chốc trở thành
một cuộc ẩu đả ác liệt. Chiếc bàn thờ sơn son được chạm trổ rất tinh xảo bị
hàng chục bàn tay lôi đi kéo lại một lúc thì đổ kềnh, ba chân gãy rời, mặt gỗ
long ra, sơn tróc loang lổ. Mấy bà cố nông nạ dòng lao vào nhau quyết đấu để
gìành cho được bộ cánh tủ chè. Lúc này tủ đã bị vỡ toác làm bốn mảnh nhưng hai
cánh gỗ gụ vẫn còn nguyên. Bà Đũn yếu hơn nhưng biết dùng mưu bằng cách bất ngờ
cắn vào tay một bà mặt choắt răng vẩu làm bà này kêu thét lên và vác chiến lợi
phẩm chạy ra cổng. Trong lúc nhốn nháo, lão Tý Thọt gọi hai thằng con lẻn vào
khênh sập gụ. Thị Sót đã nhắm bộ này từ lâu liền ngáng chân làm lão chăn vịt
vấp ngã. Cánh sập rơi xuống nền gạch Bát Tràng làm dập bàn chân anh con cả. Hắn
đau quá, ngồi xệp xuống ôm chân rên rỉ. Cùng lúc có bốn năm bàn tay đặt vào bộ
sập. Đó là cánh ngụ cư xóm Trại Cá. Bọn này từ trước vẫn bị chèn ép giờ có dịp bình quyền chẳng ngại ngần gì kéo
nhau vào hôi[2]
của. Sót gan lì, ngồi chồm chỗm trên sập. Bọn ngụ cư chẳng nể nang gì bà cốt
cán trong Ban Cải cách, bốn gã bốn góc khênh cô ta đi như một đám rước. Ứng thị
Sót thấy mình ở thế bất lợi liền nhảy bổ vào gã Tám Cá túm tóc tát liền mấy
cái. Bọn này đều vướng tay, nén chịu đau để lôi cho được chiếc sập gụ ra cổng.
Nhưng không may một gã hẫng chân, mất đà, sập lại rơi xuống. Cuộc giằng co đã
đến lúc vô cùng quyết liệt. Chị em xóm Chùa từ xưa đến nay vẫn ghét Thị Sót là
gái lăng loàn, mồm loa mép giải, liền nháy nhau xúm lại giúp cánh ngụ cư bằng
cách đè cô ta xuống, kéo tuột chiếc quần láng đang mặc quăng xuống ao làm đồng
chí uỷ viên Cải cách mất mặt với bàn dân thiên hạ phải chạy vội vào bếp. Phía
trước, một đám chừng hơn chục người trước đây vẫn lĩnh canh ruộng bà Cả Huê,
đang xúm quanh mấy cũi bát đĩa, vài chiếc nồi đồng và một số lọ hũ bằng gốm sứ hoặc
da lươn. Những thứ này giá trị tuy có thấp hơn nhưng sự tranh chấp cũng không
kém phần quyết liệt. Đã có mấy bà đập những chiếc nậm rượu men ngọc rồi lấy
mảnh vỡ cào vào mặt nhau, máu chảy nhoe nhoét. Bà Tư Bổng, mắt lông quặm, trông
gà hoá quốc, thấy hai chiếc âu gốm miệng
loe tráng men xanh liền xách về nhà, mấy hôm sau mới hay, đó chính là nhưng cái
bô đi tiểu vẫn để duới gầm giường hồi Khúc Đàm còn sống.
Cuộc tranh cướp quả thực đã lên đến đỉnh điểm
có nguy cơ đổ máu thì Lê Thị Chĩnh lẻn về đình Cả báo cho Bùi Quốc Tầm. Anh ta
lập tức cử một đám dân quân khoác súng về nhà Chánh Đàm. Tiếng quát của Tầm bị
chìm đi trong mớ âm thanh hỗn tạp, nhưng khi ba phát súng trường bắn cấp tập
thì tất cả trở lại yên ắng như trước đây chưa từng có chuyện gì xảy ra. Chủ
tịch xã nhảy lên chiếc án thư chưa kịp bị đập gãy, dõng dạc ra lệnh:
-Yêu
cầu tất cả bà con để đồ đạc xuống!
Bà
con nông dân từ xưa đến nay vốn có thái độ kính nể đối với các loại súng đạn.
Tiếng nổ lập tức có hiệu quả ngay. Mọi thứ đồ đạc phải vất vả lắm họ mới giành
được trong trận hỗn chiến tạm thời rời khỏi tay. Người nọ nhìn người kia thở dài đầy vẻ thất vọng. Hơn
chục dân quân dồn đám ngụ cư cùng dân xóm Chùa vào một góc sân rồi thu gom tài
sản xếp thành một đống. Sau nửa giờ bàn bạc, Bùi Quốc Tầm gọi Bùi Sĩ Vĩnh đọc
danh sách phân chia quả thực. Vĩnh là
cháu họ xa Bùi Quốc Tầm đang học tiểu học ở Đông Thị thì bỏ đi theo một người
bà con làm ăn ở mãi Tiên Yên, hoà bình
được nửa tháng mới về. Được giao nhiệm vụ Vĩnh phấn khởi lắm. Anh ta đứng hẳn
lên tầng hai, thò đầu ra ban công dõng dạc đọc:
- Bà cố
nông Ứng Thị Sót một cái sập gụ.
- Chị Bùi
Thị Dong một chiếc nồi ba mươi.
Nhà Dong
vắn váy quai cồng, ì ạch bê chiếc nồi đồng, giọng như mếu:
- Chúng em
đội ơn ông Cải cách.
- Ông
Trương Chạm một con trâu và bộ răng bừa.
Trương Chạm
nhảy cẫng lên:
- Đã bảo
mà, thế là từ nay ta có trâu rồi.
- Ông Tí
Thọt một chum sành, chục bát chiết yêu và ổ gà mái đang ấp.
- Sao lại
chia cho tôi mấy thứ lặt vặt thế này?
- Bà đĩ
Nhụt hai gầu tát nước và một cái nạng gẩy rơm.
-Đếch thèm
lấy, để ông Chủ tịch Tầm mang về cho đủ bộ.
Mọi người
lần lượt nhận đồ của mình, đến xế chiều thì nhà Chánh Đàm chỉ còn cái xác và
sáng hôm sau nó được chia thành bốn phần cho bốn ông bà cố nông.
6
Lê Văn Vận
không tin là mình có tội với cách mạng vì chuyện liên quan đến Quốc dân đảng
chỉ là sự bịa đặt của một số người nhẹ dạ cả tin bị những phần tử cơ hội kích
động. Anh ta hy vọng sớm muộn sẽ có người can thiệp giải oan cho mình. Nhưng
ông Chủ tịch đã lầm. Những ngày này ở cơ quan huyện Nam Thành, các cán bộ chủ
chốt còn lại lo thon thót, chỉ sợ một đêm nào đó dân quân ập đến, ấn súng vào
lưng dẫn đi mà không biết mình phạm tội gì. Lê văn Vận bị bắt chưa đầy một tuần
thì ông Bí thư cũng chung số phận. Tất cả những cuộc bắt bớ đều diễn ra ban
đêm. Bà con hàng phố thấy những bóng đen khoác súng rảo bước trên đường, chẳng
ai bảo ai đều đóng chặt cửa. Không khí xóm làng luôn trong tình trạng căng
thẳng. Phương châm của những kẻ thức thời là im lặng vì lúc này ngay cả bố con,
anh em trong nhà cũng nghi kỵ nhau, đề phòng nhau, sảy chân còn đỡ được chứ sảy
miệng là rước vạ vào thân.
Chủ trương
của Đội Cải cách là khuyến khích bần cố nông tố cáo các đối tượng của cách mạng
càng nhiều càng tốt. Ông hương Tràng có hai mẫu ruộng đồng Quan và một con
trâu, bị tay Mực tố lên bốn mẫu để quy thành phần phú nông. Ông này tính nóng
như lửa chỉ mặt tay Xã đội chửi là đồ ăn cháo đá bát rồi đòi mang thước ra đồng
khảo lại diện tích. Ngay tối hôm ấy ông ta bị hai dân quân tống vào buồng giam
thay cho Chánh tổng Lê Bang đã bị hành quyết. Buồng giam này giáp với buồng Lê
Văn Vận. Ông Hương đánh tiếng hỏi:
- Cả anh
cũng bị nhốt vào đây thì dân Ba Tổng còn biết tin ai?
Chàng cựu
ngư phủ lúc này xem ra đã mất dần nhuệ khí nhưng đối với người trung nông này
vẫn phải lên dây cót tinh thần cho ông ta:
- Phải
tuyệt đối tin tưởng vào đảng. Đây chỉ là sai lầm nhất thời thôi.
Hương Tràng
cười gằn:
-Làng Cùa
rặt những người nếu không phải tay sai thực dân đế quốc thì cũng bị Quốc dân
đảng giật dây, anh bảo chúng tôi tin vào đảng nào?
Thực ra
trong lòng Vận lúc này không nghĩ đến thứ chủ thuyết xem ra khá mơ hồ mà từ
trước đến nay người ta cứ bắt mình phải miễn cưỡng tin theo. Anh ta nghĩ đến cô
vợ khoèo tay, nghĩ đến hai thằng con trai, đến Khúc Luận, Khúc Thị Huệ và nhất
là Mạc Thị Lánh, người đàn bà khốn khổ đã bỏ xác trên rừng gần hai chục năm
nay. Đó chính là quá khứ đè nặng trên vai, là vật cản vô hình ám ảnh mãi trong
tâm trí không thể bỗng chốc thoát ra được. Sau chuyến xuống đồng bằng bị mật thám bắt đưa về phòng Nhì, Vận phải
lĩnh án bảy năm. Tưởng đã bỏ xác trên Sơn La, may nhờ anh em tổ chức cho vượt
ngục, ra ngoài mới bắt mối với cơ sơ ở vùng Cao Tân tiếp tục hoạt động. Thời kỳ
đầu năm bốn nhăm Vận đã là huyện uỷ viên phụ trách công tác an ninh, sau khi cướp
chính quyền được cử làm Chủ tịch huyện Nam Thành. Cuộc đời hoạt động của Vận
cũng chẳng mấy suôn sẻ, nhất là cái quá khứ không bình thường từ hồi làm nghề
sơn tràng. Có lần Vận bị bắt giam vì tự ý bắn chết một kẻ phản bội, nhưng cấp
trên đánh giá anh ta là người trung thực, ghét thói xu nịnh và làm được việc.
Vậy mà đùng một cái ông Chủ tịch huyện bị chính các đồng chí của mình tống ngục
thế này đây.
Sáng ngày
thứ ba, nghĩa là chỉ ba mươi nhăm giờ sau sau khi bị giải về làng Cùa, Đội Cải
cách đã đưa Lê Văn Vận ra xử. Đây là phiên toà đặc biệt có cả phái viên của
Đoàn ủy Cải cách huyện Nam Thành về chỉ đạo. Đội Lạc và Bùi Quốc Tầm đã chuẩn
bị sẵn một số nhân chứng để đối chất nếu bị cáo không thừa nhận tội trạng.
Vành móng
ngựa lần này không phải là những cây chuối chồng lên nhau như hôm xử Lê Bang mà
được ông Bảy Sụ đóng bằng gỗ lim hình bán nguyệt có những gióng to cỡ cổ tay
bào nhẵn trông rất nổi. Ngồi ghế chánh án hôm nay là Ứng Thị Sót. Cô ta mặc
chiếc áo cánh màu be bên ngoài khoác áo bông Tàu, cổ quấn khăn len đỏ, tóc chải
xù lên trông chẳng khác gì hình nộm. Bùi Quốc Tầm, Cấn Viết Tham, Lê Thị Chĩnh
và Đội Lạc chia nhau ngồi hai hàng ghế sau để hỗ trợ bà cốt cán trong lúc thẩm
vấn. Vị đại diện Đoàn ủy ngồi ghế trên cùng. Ông này trạc bốn nhăm, trán hói,
một mắt có nhài quạt thỉnh thoảng lại nháy một cái.
Sân đình
đông nghịt. Bọn trẻ con trèo cả lên cây đa nhòm vào. Mấy chục dân quân, kẻ xách
súng, người mang mã tấu canh gác vòng ngoài đề phòng bọn phản động lợi dụng chỗ
đông người ném lựu đạn khủng bố như ở phiên toà xử lý Biên bên Cao Xá vừa rồi.
Lê Văn Vận bị trói hai tay. Xã đội Mực cầm dây thừng đi phía sau đẩy ông Chủ
tịch vào vành móng ngựa. Vận bị tê chân đang sửa tư thế đứng thì bất ngờ dưới
sân đình có tiếng hô lớn:
-Đả đảo tên
Quốc dân đảng phản động Lê Văn Vận!
Lập tức
hàng trăm cái miệng đồng thanh hoà theo:
-Đả đảo! Đả
đảo!
-Đả đảo Lê
Văn Vận!
-Đả đảo! Đả
đảo!
Chánh án
Ứng Thị Sót vốn là gái lộn chồng, đã từng mặt dạn mày dày với phường trăng gió,
không biết liêm sỉ là gì sau sự kiện bị lột quần hôm chia quả thực đứng lên vẫy tay cho bà
con trật tự rồi dõng dạc tuyên bố:
- Hôm nay
Đội Cải cách và bà con làng Cùa mở phiên toà xét xử tên Quốc dân đảng đội lốt
Việt Minh, chui vào hàng ngũ cách mạng chống phá chính quyền nhân dân. Tên phản
động đó chính là Lê Văn Vận, nguyên Chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Nam Thành.
Toà yêu cầu bần cố nông lên đấu tranh vạch rõ bộ mặt phản dân hại nước của hắn.
Sót vừa dứt
lời đã có một người đàn ông tóc muối tiêu, mặt nhẵn bóng, một bên tai rách
không biết do ngã hay bị chó cắn đứng phắt dậy :
-Tôi xin
đấu tranh.
Anh ta ngồi
cách vành móng ngựa không xa nên chỉ ba bước đã tới trước mặt Lê Văn Vận, hấp
háy cặp mắt lác hỏi ông Chủ tịch:
-Vận mày
còn nhớ tao không?
Lê Văn Vận
lắc đầu:
-Không nhớ.
Chánh án
nhắc:
-Bị cáo
không được xách mé, phải nói thưa ông.
Vận đánh
mắt về phía Ứng Thị Sót cười nhạt:
- Tôi chưa
bao giờ gặp ngưòi đàn ông này và cũng không có lý do gì gọi hắn bằng ông.
Sót đứng
dậy chỉ tay vào mặt Vận:
- Tất cả
những kẻ phản cách mạng chống lại Cải cách ruộng đất đều phải gọi bà con bần cố
nông bằng ông, bà, nghe rõ chưa?
- Rất tiếc
tôi không phải là kẻ phản cách mạng.
- Để rồi
xem, chẳng phải riêng mình tao mà đã có rất nhiều bà con được ông Đội … - Nói đến đây Sót vội bỏ lửng khi thoáng thấy
ánh mắt giận dữ của Đội Lạc.
Xuýt
nữa thì lộ tẩy. Để gỡ thế bí, anh ta
đứng dậy lên giọng cấp trên nhắc nhở:
- Đề nghị
đồng chí chánh án bình tĩnh điều khiển phiên toà.
Ứng Thị
Sót đã kịp thời lấy lại tư thế chủ toạ, bảo người đàn ông rách tai:
- Nói rõ tội
trạng của hắn đi.
- Tôi là
Trần Văn Sệ, nhân viên tiếp phẩm trong cơ quan huyện, tháng bảy năm năm hai, cơ
quan tản cư sang Ngân Bình, chính mắt tôi đã nhìn thấy Lê Văn Vận cùng với
Hoàng Thịnh và Thái Khắc Toả rủ nhau về Đông Thành khai hội Quốc dân đảng. Cơ
sở Quốc dân đảng ở Đông Thành do lão Huyện Hựu cầm đầu.
- Này anh
kia! - Vận nhếch môi cười nhạt. - Tôi ở
cơ quan huyện Nam Thành nhiều năm chưa hề thấy một người vừa rách tai vừa chột
mắt như anh, đừng có vu oan giá hoạ cho người ta.
Gã cố nông lấm lét nhìn Đội Lạc, được ông chủ
khuyến khích, anh ta bỗng nhiên cất giọng khê nồng như kép tuồng ra bộ :
- Chính mắt tao đã nhìn thấy mày ngồi uống
rượu với huyện Hựu ở nhà hàng Ngũ Lâm...
Lê Văn Vận
bật cười bảo:
- Tôi không
chấp anh nhưng hãy về bảo với những kẻ đã xui anh rằng, chúng rất ngu vì nói
dối cũng không biết đường. Năm năm hai chỉ có ban tài chính và nông hội tản cư
sang Ngân Bình còn cơ quan huyện uỷ và ủy ban hành chính kháng chiến vẫn ở lại
Đông Thị bám địa bàn tổ chức đánh giặc. Đồng chí Phó chủ tịch, đồng chí Trưởng
công an và cả ông Chủ tịch Liên Việt đều biết rất rõ việc này, đề nghị toà cho
được mời đến làm chứng.
Tay rách tai
bắt đầu lúng túng. Hắn gần như quên sạch những gì người ta dặn từ hôm trước bởi
trình độ i tờ mới học được dăm
bữa, và vốn từ vựng quá ít ỏi không đủ sắp xếp chúng lại với nhau theo trật tự
ngữ pháp để tiếp tục vở diễn.
Trên ghế
chánh án, Ứng Thị Sót lừ mắt giục:
- Nói tiếp
đi!
Trần Văn Sệ
ngập ngừng mãi rồi bỗng nhiên nói một câu ngoài kịch bản làm cả vị phái viên
cấp trên, cả Đội Lạc và Ứng Thị Sót đều choáng váng:
- Tôi...
những lời ông Lạc dặn hôm qua... tôi... quên sạch rồi.
Vận lắc đầu
tỏ vẻ thương hại:
- Thật khổ
cho nhà anh, có tuổi rồi mà còn nghe ngưòi ta xui dại, chưa biết chừng nay mai
chính anh cũng bị khép vào tội Quốc dân đảng cũng nên.
- Về chỗ!
– Bùi Quốc Tầm đứng sau buộc phải đứng dậy quát khẽ. - Đã dặn thế
mà cũng không nói nên hồn.
Chánh án nhìn xuống giọt đình gọi:
- Toà mời
chị Khúc Thị Hài.
Vận thoáng
giật mình :" Bọn này nham hiểm thật. Chúng định dùng sự việc trong quá khứ
để xử tử mình đây. Thôi được, đến đâu thì đến". Khúc Thị Hài mặc áo bông
chần vải xanh, váy sồi, mặt đã có những vết nhăn khá rõ trông già hơn cái tuổi
ba tám, bước đi loạng choạng như người say. Bà vợ ông Chủ tịch khẽ ngẩng đầu
nhìn lướt qua các vị quan toà rồi lại gần vành móng ngựa hỏi:
- Chắc anh
Vận không quên người đàn bà khoèo tay này chứ?
- Không
quên - Vận gật đầu.
- Bao nhiêu
năm bỏ mẹ con tôi anh đi những đâu?
- Đi nhiều nơi.
- Ông Chủ tịch trả lời nhấm nhẳng.
Chánh án
nhắc:
- Không
được gọi bị cáo bằng anh.
Khúc Thị
Hài im lặng một thoáng rồi từ từ ngẩng lên bảo Ứng Thị Sót:
-
Dù sao người ta cũng là chồng tôi, tôi không thể...
- Nhà chị phải chấp hành quy chế của Đoàn ủy
Cải cách.- Sót răn đe - Số phận bà
Hai Thoả và hai đứa con trai hoàn toàn phụ thuộc vào việc chị vạch tội
Lê Văn Vận.
- Dạ, Tôi biết...
Khúc Thị
Hài cắn môi. Quá khứ tủi nhục bất giác hiện ra. Mẹ con chị ta bị bà Cả Huê đuổi
ra khỏi nhà sau cái chết của Chánh Đàm. Lê Văn Vận dắt bà Ba đi biệt xứ, nếu
không được ông Lái Lự cưu mang thì mấy mẹ con bà cháu đã chết mục xương từ lâu
rồi. Tất cả những nỗi trầm luân ấy đều do một tay anh ta gây ra.
- Thưa quý
toà, tôi tuy là con ông Chánh Đàm nhưng chẳng khác gì người ở. Chuyện nhân
duyên cũng do ông Chánh và bà Cả sắp đặt. Nghĩ rằng anh Vận là người thật thà,
khoẻ mạnh, chăm chỉ làm ăn, ai ngờ có với nhau hai mặt con tôi mới biết anh ta
là kẻ bạc tình bạc nghĩa, chẳng những thông gian vơi bà Ba Lánh mà còn giết
chết bố vợ rồi đem nhau đi trốn. Từ đó Vận bỏ mặc vợ con sống vất vưởng trong
sự hắt hủi của gia đình, họ hàng. Hành vi của Lê Văn Vận hoàn toàn không xứng
đáng với tư cách của một cán bộ Việt Minh, một Chủ tịch huyện. Tôi đề nghị toà
xử phạt nghiêm khăc để làm gương cho kẻ khác.
Khúc Thị Hài vừa đi xuống thì hội trường lại
bị vỡ ra bởi những tiếng hô đến khản cả giọng :
- Đả đảo Lê
Văn Vận!
- Tử hình!
Tử hình!
Ngọn đòn mà
Khúc Thị Hài vừa giáng xuống làm Lê Văn Vận mất tinh thần. Anh ta cúi đầu, thỉnh
thoảng khẽ thở dài. Chánh án Ứng Thị Sót chưa kịp gọi nhân chứng tiếp theo thì
một ông già tóc bạc, khập khiễng lách lên. Đó là một bần nông người Mạc Điền,
năm Bính Tuất có cô con gái bị bọn tay chân của Đỗ Kim bắt cóc. Ông ta chỉ mặt
Lê Văn Vận bảo :
- Thời thực dân đế quốc phong kiến cai trị ở vùng Ba Tổng chưa bao giờ
xẩy ra những chuyện tầy đình như thế. Vậy mà các ông Việt Minh vừa giành được
chính quyền đã dung túng cho bọn lưu manh hãm hại dân lành. Thằng Đỗ Kim là dân
cờ bạc cả tổng này ai chẳng biết, tại sao các ông cử nó làm Chủ tịch xã? Chính
vì thế bọn đầu trộm đuôi cướp mới núp dưới bóng nó mở sòng bạc, bắt cóc đàn bà
con gái hãm hiếp rồi quẳng xuống sông Lăng. Bà con gửi đơn kiện thì bị huyện
dìm đi. Hôm nay tôi đến là để đòi sự công bằng. Ông Chủ tịch huyện, hãy trả con
gái cho tôi, nếu không tôi phải liều...
Nói đến đây bất ngờ ông già rút trong cạp quần
ra con dao nhọn nhảy bổ lên đâm Lê Văn Vận. Cũng may hai dân quân cảnh giác can
thiệp kịp thời nếu không hẳn là đã có án mạng. Ngoài cửa đình Lương Văn Mực giơ
tay hô to:
- Đả đảo
tên Việt gian Lê Văn Vận!
- Đả đảo!
- Kiên
quyết bắt tên Quốc dân đảng đền mạng!
- Kiên
quyết! Kiên quyết!
Vận thoáng
rùng mình khi nhìn thấy một rừng cánh tay giơ lên cùng với âm thanh rùng rùng
như gió lốc tưởng có thể đẩy bật tung mái đình lợp ngói âm dương lên chín tầng
trời.
- Thưa bà
con, cho tôi nói…
- Câm ngay
đi! Tội trạng đã rõ ràng còn nói gì nữa.
- Thưa đồng
bào! Tôi bị oan, đề nghị Toà cử người về huyện lấy nhân chứng.
Đến lúc ấy,
Ứng Thị Sót mới đứng dậy liếc nhìn Đội Lạc, Đội Yên rồi thong thả kết luận:
- Tội trạng
của bị cáo Lê Văn Vận đã rõ không một ai có thể thanh minh cho hắn được, bà con
bần cố nông thấy tôi nói có đúng không?
- Đúng lắm.
Toà xét xử công minh lắm .
- Xin mời
bà con tạm nghỉ để Toà hội ý.
Vì đình Cả
là nơi bàn việc của chế độ cũ năm gian thông nhau không có phòng riêng nên các
quan toà phải vào hậu cung nghị án. Thực ra bản án đã có sẵn, có thể tuyên
ngay, nhưng vị đại diện của đoàn ủy Cải cách bảo phải làm thế mơí đúng trình tự
xét xử, đồng thời cho nhân dân thấy được tính dân chủ, công bằng của nền tư
pháp trong chế độ mới.
Bên ngoài
một số thiếu niên quá khích, sau khi thì thầm với Xã đội Mực, lần lượt chen vào
đình, mỗi đứa đều dấu một cái gì đó dưới áo. Đến gần vành móng ngựa, bất chợt
một thằng choai choai hô to: Đả đảo tên
Quốc dân đảng!, thế là bọn trẻ ranh, đứa thì quệt mực tàu vào mặt, đứa ném
cà chua thối vào áo, đứa trát một nắm
bùn vào đầu làm ông Chủ tịch phút chốc biến dạng chẳng khác gì thứ hình nộm cổ
quái. Khúc Thị Hài thừa lúc trong đình còn ít người đến bên Lê Văn Vận sụt sịt
khóc.
- Anh hiểu
cho, tôi vẫn thương anh nhưng bị người ta ép buộc, không đấu anh thì thằng
Nghiên, thằng Khải bị bắt.
Vận nhếch
mép cười cay đắng :
- Cô mắc
lừa chúng nó rồi. Tôi mà chết, hai thằng khó mà ngẩng đầu lên được.
- Làm thế
nào bây giờ hở mình?
Vận gắt :
- Thôi về
đi! Ngày mai không được cho chúng nó ra pháp trường.
Án đã nghị
xong. Khi mọi người vào đình đông đủ, Ứng Thị Sót đứng lên dõng dạc đọc thuộc
lòng mấy câu ngắn gọn do Đội Lạc soạn thảo:
- Căn cứ
vào tội trạng của bị cáo Lê Văn Vận, nhân danh Ủy ban Cải cách nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà, Toà tuyên bố hắn tội tử hình.
Cả hội
trường lặng đi mấy giây rồi bất ngờ đồng thanh hô to:
- Đả đảo tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận!
- Đả...đảo!
Phiên toà
vừa kết thúc, Đội Lạc gọi Bùi Quốc Tầm và Ứng Thị Sót rỉ tai bảo:
- Đồng chí phái viên cấp trên yêu cầu phải thi
hành bản án ngay chiều hôm nay.
Lần này nơi thi hành án không phải đồng Xưa mà là đồng Đấu. Dân quân đã
đào huyệt và chôn sẵn chiếc cọc bằng một đoạn tre trên miệng hố. Hầu hết bà con
đều không về nhà mà rồng rắn kéo nhau xuống pháp trường. Đồng Đấu là khu ruộng
bỏ hoang từ nhiều năm nay cách xa làng Cùa năm cây số. Đoàn người mỗi lúc một
đông vì cứ qua mỗi làng lại có thêm bần cố nông nhập bọn.
Trời lạnh,
những hạt mưa bụi bay lất phất vì gió bắc đã tràn về. Rất nhiều người không có
quần áo ấm, mặc phong phanh run lên vì rét. Bọn trẻ chạy nhảy chán, giờ đói
bụng, ngồi vạ vật dọc đường, có đứa ngồi chồm chỗm trên lưng mẹ ngủ gà gật. Mấy
lá cờ thấm nước ủ rũ ngả màu đỏ sẫm. Những người cầm cờ cố giữ cán cho thật
thẳng, ưỡn ngực hiên ngang bước như trong cuộc diễu binh.
Lê Văn Vận
bị trói hai tay vào cột tre, mắt bịt băng đen. Anh ta im lặng, khuôn mặt lạnh
như đá không hề biểu hiện thái độ gì. Bẩy dân quân được chỉ định hành hình xách
súng đứng về một bên. Xã đội trưởng Mực
bố trí chỗ đứng cho từng người rồi lại gần ông Chủ tịch bảo:
- Cho phạm
nhân nói lời cuối cùng.
Vận lắc
đầu:
- Không
cần.
- Các đồng
chí dân quân chuẩn bị lên đạn!
Tiếng khoá
nòng lách cách nghe khô khốc đập vào cân não rợn cả người.
- Bắn!
Một loạt
tiếng nổ, Mùi thuốc súng vừa khét vừa hăng hắc làm một số người đang bị lạnh
hắt hơi. Vận bị trúng ba viên, một vào cằm vỡ quai hàm, máu từ động mạch chủ
phụt ra như chiếc vòi bơm áp lực. Một nửa hàm răng bên trái nhoe nhoét máu bật
khỏi mồm nhưng vì vẫn còn dính dây chằng nên cứ lủng lẳng trước ngực chưa chịu
rơi xuống. Khuôn mặt Lê Văn Vận lúc này biến dạng một cách khủng khiếp chẳng
giống người cũng chẳng giống ma quỷ. Nó là một quái nhân khiến cho bất cứ ai
nhìn vào cũng phải rùng mình.
Lần này Chủ
tịch Bùi Quốc Tầm không bị mất mặt trước vị phái viên cấp trên vì phạm nhân
chết ngay từ loạt đạn đầu. Người ta nhanh chóng khám nghiệm tử thi rồi cởi dây trói
hất cái xác xuống hố. Lúc ấy đã xế chiều. Pháp trường vừa mới đây có cả ngàn
người khí thế hừng hực xông lên tận trời, giờ vắng tanh vắng ngắt, trả lại cái
tĩnh mịch muôn thuở của cánh đồng hoang. Đây đó những gò đất lô xô mọc đầy lau
lách chẳng biết được đắp từ bao giờ trông chẳng khác gì những con lạc đà với
hàng loạt bướu to nhỏ khác nhau, nằm phục hai chân trước chờ ông chủ trèo lên
lưng. Hoa bìm bìm vắt trên những cành dâu dại nở tím cả chiều đông. Hoa dành
dành xoè cánh trắng điểm chút Nhụy vàng nhô lên giữa những bụi mẫu đơn đỏ, đứng
xa trông như đám hoa mò thường mọc trên bờ đầm Ma. Cánh đồng lạnh lẽo thoang
thoảng mùi tử khí nhập nhòa trong buổi hoàng hôn, thỉnh thoảng nghe thấy tiếng
gió chạy lao xao, tiếng loài chim lợn bay thấp và tiếng cú rúc đâu đó trong
những bụi núc nác. Khúc Thị Hài ngồi một mình bên mộ Lê Văn Vận. Người đàn bà
này ngay cả lúc chồng bị tử hình cũng không nhỏ một giọt nước mắt. Chị ta đã
hoá đá sau khi biết mình bị lừa. Cái sự bị Đội Cải cách lừa còn đau hơn nhiều
so với việc mất người thân, bởi sự lừa đảo những thân phận đã gửi hết niềm tin
vào mình nó đê tiện hèn hạ làm người ta kinh tởm, hơn thế nữa đây lại là chuyện
lừa đảo có tổ chức. Chị còn nhớ, chiều hôm trước mấy dân quân lạ hoắc khoác
súng vào nhà ông lái. Một người tự xưng là Xã đội cho biết, họ phải vượt sông
Lăng, đi hàng chục cây số sang đây là để yêu cầu chị làm một việc cho sự nghiệp
cách mạng. Toán dân quân dẫn Khúc Thị Hài ra cồn Láng, chỉ đến khi sang sông
chị mới hiểu mình bị áp giải về làng Cùa. Trước khi ra khỏi kẻ Bòng, Lương Văn
Mực còn dặn ông cựu Chủ tịch Liên Việt xã:
- Không
được cho thằng Nghiên, thằng Khải biết là mẹ nó đã sang sông, nếu để lộ chuyện
ông hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước Đội Cải cách.
Bị giải về
đình Cả, Khúc Thị Hài được đưa vào gặp Bùi Quốc Tầm và mấy bà cốt cán. Không
cần rào trước đón sau, Đội Lạc, người chỉ huy cao nhất Đội Cải cách xã Đoàn Kết
nói ngay:
- Chúng tôi
phải cho người sang làng Bòng đón chị về đây vì chị là nhân chứng quan trọng
trong vụ án Lê Văn Vận. Anh ấy hiện đang bị tạm giam, ngày trước có mắc một số
sai lầm cần phải được làm rõ.
Khúc Thị
Hài tái mặt. từ trước đến giờ chị ta chưa được tiếp xúc với các cán bộ chính
quyền kiểu này nên run lắm.
- Thưa...
tôi phải làm gì?
Đội Lạc nhỏ
nhẹ bảo:
- Chị là
con gái ông Chánh Đàm. Ông ta tuy chết rồi nhưng tội phản dân hại nước cả tổng
đều biết, nếu còn sống cũng không thoát khỏi án tử hình. Trong gia đình họ Khúc
chỉ có chị là không thuộc thành phần bóc lột lại bị mẹ con bà Cả hắt hủi đuổi
ra khỏi nhà, Đội Cải cách yêu cầu chị khai báo thành khẩn những hành vi sai
trái của anh Vận. Chị càng nói thật, càng thể hiện lòng căm thù thì càng chứng
tỏ mình trong sạch, không liên quan đến bọn Quốc dân đảng chống phá công cuộc
Cải cách cuả chính phủ.
Khúc Thị
Hài là người thật thà, cả tin nghe ông đội nói bùi tai, ngập ngừng hỏi:
- Nhưng mà
nói thế sợ rằng nhà tôi bị tội...
- Chị yên
tâm. - Bùi Quốc Tầm kéo xong điếu thuốc lào, phà khói mù mịt nói chêm vào. -
Anh Vận là Chủ tịch huyện được cấp trên bảo vệ không thể bị đối xử như bọn địa chủ cường hào. Chị dám
dũng cảm đứng lên tố cáo sai lầm của anh ấy trong quá khứ cũng chính là cứu tính mạng và danh
dự hai cậu con trai. Sau này, chính quyền sẽ cấp cho gia đình giấy xác nhận thành phần bần cố nông, không liên quan đến
địa chủ phản động.
Đội
Lạc nói ngọt như mía lùi làm Khúc Thị Hài không thể không tin vào sự nghiệp Cải
cách. Sau một đêm suy nghĩ, chị quyết định tố cáo Lê Văn Vận với tất cả những
tội trạng mà anh ta đã gây ra hồi còn ở
làng Cùa mà không biết rằng tự tay mình ký vào bản án tử hình của chồng.
Đêm xuống
từ lúc nào Khúc Thị Hài không biết. Màn sương đục lơ lửng giăng ngang trời.
Trăng thượng tuần bị nhoè đi bởi phải lặn ngụp giữa những cồn mây. Giữa đồng
hoang lờ mờ có vài bóng đen đang chuyển động dần về phía mấy gò đất. Có lẽ là
ma. Chị ta quỳ sụp xuống vái lấy vái để:
- Trăm lạy
anh Vận sống khôn chết thiêng, tôi bị người ta ép buộc chứ thực tâm không muốn
vu oan giá hoạ cho anh...
- Kìa mẹ,
sao mẹ lại làm thế? Dù sao ông ấy cũng là bố chúng con.
Thì ra là hai
anh em Lê Văn Khải. Khúc Thị Hài như thấy có cái gì vỡ ra trong lòng, bất giác
oà khóc, giọng tức tưởi:
- Các con
ơi mẹ bị người ta lừa...
Lê Văn
Nghiên trách:
- Mẹ sang
đây mà không cho chúng con biết. Nếu biết không bao giờ chúng con để mẹ đấu bố.
- Chiều hôm
qua, lúc hai đứa đánh lưới trên sông, dân quân làng Cùa sang bắt mẹ về. Họ dặn
ông lái không được nói với các con.
- Quân khốn
nạn! - Lê Văn Khải nghiến răng chửi.
Lê Văn
Nghiên nói:
- Mãi đến
tối không thấy mẹ về, bà đoán có chuyện chẳng lành mới bảo chúng con sang.
Lê Văn Khải
lấy trong bọc ra một nắm hương, bật diêm châm lửa, cắm lên vầng cỏ trên mộ bố
rồi lầm rầm khấn:
- Bố tha
lỗi cho mẹ và phù hộ cho chúng con. Cuộc đời này còn lắm bất công nên bố phải
chết oan, nếu có khôn thiêng hãy về vật chết những kẻ giáng hoạ cho nhà ta.
Bó hương
gần tàn. Ba mẹ con đang định quay về thì từ phía sau có hai người đàn ông
khiêng cỗ quan tài mộc và một người đàn bà áo xô khăn trắng tay cầm bát cơm quả
trứng lặng lẽ đến bên như những cô hồn. Cỗ quan tài vừa hạ xuống ngưòi đàn bà
liền đến bên mộ Lê Văn Vận lầm rầm khấn. Một trong hai người đàn ông bật lửa
thắp hương. Khúc Thị Hài cho rằng họ là
thân nhân của những địa chủ bị bắn ngày hôm qua nên lại gần bảo:
- Các người
nhầm mộ rồi.
Người đàn
bà mặc đồ tang lắc đầu:
- Tôi không
nhầm. Đây là mộ ông Chủ tịch Lê Văn Vận mới bị bắn chiều nay.
- Các người
là ai? - Lê Văn Khải hỏi.
- Hai cậu
là Khải và Nghiên phải không?
- Sao bà
lại biết chúng tôi?
- Việc ấy
sẽ nói sau, điều cần thiết lúc này là phải mai táng tử tế cho ông Chủ tịch. Ông
ấy tuy có lúc vấp ngã nhưng là người tốt, không thể để nằm lạnh lẽo như thế
dưới ba thước đất. Tôi đã mua sẵn cỗ ao quan và nhờ hai bác đây chôn cất giúp.
Nào, bây giờ hai bác đào huyệt ở sát gò đất kia.
Lê Văn Khải
hỏi:
- Sao lại phải
đào huyệt khác?
Người đàn
bà vừa lấy trong quan tài ra chiếc mai, chiếc cuốc và chiếc xẻng đưa cho từng
người rồi hạ giọng thì thầm:
- Để phòng
xa. Thời buổi này việc gì người ta cũng có thể làm.
Lê Văn Vận
nằm úp sấp, chân tay co quắp, một bên quai hàm bạnh ra, mặt sưng phồng hiện ra
dưới ánh nến rất khủng khiếp. Người đàn bà cởi bộ quần áo bẩn thỉu của ông Chủ
tịch rồi mặc vào bộ bà Ba mới màu gụ.
Cái xác đã cứng, khó khăn lắm mới nắn được tay chân về đúng vị trí với sự trợ
giúp của chai rượu ngang. Vải liệm được chuẩn bị sẵn cùng với quan tài. Đó là
một miếng diềm bâu khá dài. Anh em Khải Nghiên tự tay quấn cho bố, đến khi nắp
quan tài vừa đóng thì vành trăng non cũng lặn. Càng về khuya trời càng tối. Nến
dưới huyệt cũng đã tàn. Mọi người chỉ nhìn thấy nhau như những cái bóng. Lê Văn
Nghiên có mang theo chiếc đèn chai nhưng không dám thắp. ánh sáng bất chợt giữa khu đồng hoang chắc sẽ
làm đám dân quân làng Báng, làng Quao và Đậu Khê nghi ngờ. Khốn khổ thay cho chàng
ngư phủ sông Lăng, sống trên cõi dương gian đã gặp không ít đoạn trường đến lúc
chết xuống âm phủ cũng phải chôn cất vụng trộm. Mọi người chụm nhau lại che ánh
sáng để Lê Văn Khải bật diêm đốt nhang. Trong đêm đen, tàn hương phát tán nhảy
nhót giống hệt lũ ma trơi, thỉnh thoảng một ngon gió lướt qua lại bùng cháy
thành quầng lửa nhỏ toả ra đồng hoang thứ mùi lãng đãng của thế giới những hồn
ma bóng quỷ.Thắp hương xong, người đàn bà mặc đồ tang bảo hai phu đòn và anh
em Lê Văn Khải lấp ngôi mộ cũ đắp vầng
cỏ trả lại nguyên dạng ban đầu. Trong làng, gà đã gáy dồn. Có lẽ đã quá canh
ba. Bà ta quỳ xuống trước nấm mộ vái ba vái thì thầm điều gì đó rồi cùng hai
người đàn ông vác mai cuốc quay đi. Bóng họ lẫn vào đêm tối rất nhanh. Trong
khi ấy, Khúc Thị Hài vẫn ngồi lặng lẽ như pho tượng. Từ lúc quan tài hạ huyệt
chị ta chẳng hỏi han gì người đàn bà lạ kia nữa. Hai mươi năm chờ đợi bây giờ
mất hẳn anh ta, chị hận chồng nhưng lại trách mình nhẹ dạ cả tin, trách ông
trời ăn ở bất công. Khi ba mẹ con bắt đầu rời khỏi khu đồng Đấu, Lê Văn Khải
hỏi:
- Bà ấy là
ai thế hả mẹ?
Khúc Thị
Hài ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Có lẽ đấy
là dì Ba Lánh, người mà các con phải gọi
bằng bà trẻ, nhưng việc này phải giữ kín.
- Thế còn
ông lái?
- Tạm thời
đừng nói gì với ông.
Thanh toán được Lê Văn Vận, vị phái viên lập tức viết báo cáo gửi cấp trên. Ông ta vốn là chính trị viên tiểu đoàn, được quân đội cử sang làm Cải cách ruộng đất từ đầu tháng bảy. Tối mồng tám tháng mười một, nghĩa là một ngày một đêm sau khi Chủ tịch huyện bị hành quyết, Đội Lạc họp với ban cốt cán để sơ kết giai đoạn đầu công tác Cải cách ruộng đất ở làng Cùa. Đây là một trong sáu làng điển hình của xã Đoàn Kết được chọn làm thí điểm, nếu thành công sẽ nhân ra cả huyện Nam Thành và tỉnh Hải Đông. Dự họp, ngoài vị phái viên còn có Đội Lạc, Bùi Quốc Tầm, Xã đội Mực, Cấn Viết Tham, Bí thư Lại Quang Nghinh, ỨngThị Sót, Lê Thị Chĩnh và một vài cán bộ Nông hội. Đây là cuộc họp quan trọng nên không thể để nhiều người biết. Bùi Quốc Tầm đề nghị họp trong đình Cả nhưng Đội Lạc quyết định chọn ngôi nhà cũ của Ứng Thị Sót để bảo đảm bí mật. Từ khi Sót cùng bà mẹ nghễnh ngãng chuyển sang nhà Chánh Bang, chỗ này tạm để cho lão Thốn vốn là dân ngụ cư chuyên nghề đóng cối ở nhờ. Mấy hôm nay lão sang làng Báng làm cho ông Trưởng công an xã, ăn nghỉ luôn ở đấy nên căn hộ vẫn bỏ không, cổng dấp mấy cành rào. Hai dân quân được phân công gác khoác súng đi lại trước sân thỉnh thoảng lại đảo một vòng ra phía sau bụi tre nhòm ngó. Lúc ấy khoảng hơn mười giờ. Trong nhà mọi người đang bàn cãi khá căng thẳng về trường hợp của Khúc Kiệt và Ngô Quỳnh thì bỗng nhiên có vật gì rơi đến bịch một cái từ trái nhà xuống.
- Lựu đạn! Tất cả nằm xuống! - Bùi Quốc Tầm vừa kịp thét lên thì quả
lựu đạn mỏ vịt đang xì khói đã phát nổ. Một quầng lửa nhoáng lên như ánh chớp.
Không khí bị co giật mạnh đến mức chiếc lọ sành vẫn dùng đựng nước của lão Thốn
để trên đầu kệ gỗ bay vèo xuống gầm chõng vỡ làm mấy mảnh. Hai dân quân lúc ấy
đang chụm đầu kéo thuốc lào, nghe tiếng nổ vội xách súng chạy vào, mặt cắt
không còn hạt máu. Cảnh tượng sau vụ nổ bày ra thật khủng khiếp. Ông Điến Chủ
tịch Nông hội ngồi ngay dưới chái nhà, hai mắt bị sức ép mạnh lồi ra khỏi tròng
lầy nhầy những máu là máu. Vị phái viên của Đoàn ủy Cải cách đang đứng
nói, tay khua khua vào không khí hứng trọn một trận mưa mảnh gang theo hình nón
ngược cắm chi chít từ mông đến bả vai
giống như con nhím xù lông chuẩn bị bắn kẻ thù. Xã đội Mực chưa chết ngay. Anh ta
ngã chúi đầu xuống đất chân vẫn còn gác lên chiếc chõng tre ngâm cứ run bắn như
con ếch lúc bị chặt đầu. Một mảnh gang chém dưới màng tai, máu xối ra làm Mực
rống lên ồ ồ như tiêng con bê lạc mẹ. Bùi Quốc Tầm nằm dán bụng xuống đất, vòng
hai tay che gáy bị bóc mất mảng lưng, lúc đầu trắng toát sau chuyển sang đỏ
sẫm. Anh ta hốt quá, vừa thở phì phì như trâu kéo gỗ vượt dốc vừa rên rỉ:
- Phen này
thì tôi chết rồi, ới Đội Cải cách ơi!
Chỉ ít phút
sau dân làng Cùa đã kịp thời có mặt. Bà con vốn rất nhanh nhạy với các sự kiện
kiểu này. Họ chen chúc vòng trong vòng ngoài làm cản trở những người có nhiệm
vụ cấp cứu nạn nhân. Trong xóm, ngoài ông lang Toạ chữa thuốc bắc không một ai
hiểu gì việc xử lý người bị thương. Họ khiêng mấy xác chết để sang một bên sau
đó chuyển các nạn nhân ra đình.
Vụ nổ bất
ngờ làm cả xã Đoàn Kết choáng váng. Ở một vài ngõ xóm có tiếng mẹ khóc con, vợ hờ chồng. Đêm như bị
xé nát ra bởi tiếng bước chân rầm rập truy bắt hung thủ của lực lượng dân quân
dưới sự chỉ huy của Xã đội phó Cung Văn Luỹ. Đèn đuốc sáng như sao sa rồng rắn
chảy vào các ngõ ngách. Tiếng hô hoán lúc gần lúc xa nghe như thiên hạ sắp đại
loạn đến nơi. Phía điếm Bài Vân thỉnh thoảng rộ lên tiếng súng. Lũ chim đêm tá
túc trên những cụm lồng ngộc[3]
hoặc tre gai giật mình bay nháo nhác.
Chúng đã quen tiếng súng nhưng lại sợ lửa. Những cây đuốc nứa dài thườn thượt
cháy rần rật được đám thanh thiếu niên vác chạy khắp làng, ra cả ao Quan, ao
Lịnh, đồng Gà tìm lũ phản động, nhưng đến sáng bạch vẫn không thấy tăm hơi. Nhờ
có ông Điến làm vật chắn, Đội Lạc chỉ bị mảnh gang nhỏ xẻo mất một miếng da bắp
chân, anh ta lập tức cử người về huyện trình báo đồng thời cho bắt ngay những
kẻ tình nghi có liên quan đến vụ án. Ngoài Khúc Kiệt, Ngô Quỳnh, Đặng Thị Huê,
Phó lý Kiền đang bị giam từ trước, lần này Bùi Quốc Tầm ra lệnh xích tay một
loạt phú nông, lính dõng, lính Bảo an và
cả mấy tay Trương tuần[4]
có máu mặt. Nhà giam ngoài đình chật cứng, Cung Văn Luỹ nghĩ ra cách tống bọn
này vào tầng hầm nhà Chánh Đàm tuy rằng ba hôm trước nó đã được chia cho mấy hộ
bần cố nông. Hai dân quân canh gác cũng bị thẩm vấn. Đội Lạc nghi, rất có thể
họ thông lưng với Quốc dân đảng gây ra vụ khủng bố đẫm máu này. Mãi đến chiều
hôm sau, Bùi Quốc Tầm mới nhớ đến anh em họ Lê. Đội Lạc lập tức ký lệnh cử Cung
Văn Luỹ cùng bốn dân quân sang làng Bòng bắt khẩn cấp Khải và Nghiên.
Đ.V.S.
(Xem tiếp kỳ sau)
[1] Đồ đạc trong
nhà địa chủ chia cho nông dân gọi là “quả thực”
2 Một hình thức
chiếm đoạt công khai nhưng mức độ thấp hơn cướp bóc
3 Một loại tre
bương khá to thường dùng làm cột nhà ở vùng đồng bằng sông Hồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét