Lược khảo về các tên gọi Viện Hàn lâm và Viện sĩ cùng những nhầm lẫn tai hại*(tiếp theo và hết)
Lê Mạnh Chiến
Hơn một năm
qua, mọi người đã tôn xưng GS Phan Huy Lê khi thì là viện sĩ, lúc thì là viện
sĩ thông tấn Viện HL bi ký và mỹ văn Pháp. Nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều người,
trong đó GS Đinh Xuân Lâm đã nói rằng, GS
Phan Huy Lê được bầu vào Viện hàn lâm Pháp, đồng nghĩa với việc ông trở
thành con người “bất tử” của nước Pháp, được người Pháp thờ phụng muôn đời. Nhưng sự thực thì GS Phan Huy Lê chỉ được Viện hàn lâm bi ký và mỹ văn chỉ định làm thông tín
viên, làm việc của một nghiên cứu viên cấp thấp, không cần có có sự bầu
chọn ở một cuộc họp của hội đồng viện sĩ.
Phải coi việc GS Phan Huy Lê được chỉ
định làm thông tín viên của Viện HL Bi
ký và Mỹ văn là một vinh dự và may mắn quá lớn đối với ông. Tuy thế, đó vẫn
là một việc rất rất nhỏ, chưa đáng để cho báo chí ở Pháp đưa tin, chỉ có các
bản tin tiếng Việt phóng đại quá sai mà thôi. Chúng tôi phải tìm ở website của L’Académie des Inscriptions et Belles
Lettres thì mới thấy tin này bằng tiếng Pháp.
Sự hồn nhiên của ông chủ tịch Hội sử học thật
đáng trách. Lẽ ra, vinh dự mà mình được hưởng đến đâu thì cứ khoe đến đấy, đằng
này lại khoe quá đà, vượt sự thật quá xa, để cho gần một trăm triệu người Việt
Nam hiện tại (nếu kể cả mai sau thì còn nhiều lắm) bị lấm lẫn, từ thạch anh lại
tưởng là ruby thượng hạng hoặc kim
cương, để rồi khi vỡ lẽ ra thì lại thất vọng ê chề, chán chường, bực tức rồi
quay ra chửi đổng.
Trước đây, khi một thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm
khoa học Nga (hoặc Liên Xô) xuất hiện trên báo chí dưới danh hiệu là viện
sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô), ví dụ, ông Nguyễn B chẳng hạn, bao giờ cũng thấy viết là
GS.VS. Nguyễn B. Viết như vậy là phạm liền mấy lỗi, như tôi đã phân tích ở
trên. Nhưng thật khó biết đó là lỗi của
nhà báo, của biên tập viên, lỗi của nhân viên đánh máy hay là lỗi của chính ông
Nguyễn B. Riêng về GS Phan Huy Lê, tôi đã thấy có chỗ ông viết tên mình là GS.VS.Phan
Huy Lê rồi ký tên và đóng dấu của
Hội Khoa học lịch sử.
Nói tóm lại, GS Phan Huy Lê là thông tín viên(correspondant) của Viện
hàn lâm Bi ký và Mỹ văn (L’Académie des
Inscriptions et Belles-Lettres), một Viện học thuật nổi tiếng vào hạng thứ tư
hoặc thứ năm ở Pháp; ông không hề là
“viện sĩ” của một Viện nào cả, lại càng không thể là Viện sĩ Viện hàn lâm
Pháp như chính ông cùng hệ thống báo chí toàn quốc đã từng ngộ nhận và tuyên truyền rầm rộ và coi đó là một niềm tự hào của người
Việt Nam..
VI.
Vài lời cuối bài
Đây là bài lược khảo về các tên gọi
“viện hàn lâm” và “viện sĩ”. Nếu viết kỹ hơn thì còn rất nhiều điều đáng nói,
có cả chuyện “cười ra nước mắt” nữa. Nhưng, tác giả nghĩ rằng, ngần ấy cũng đã khá đủ để chúng ta
có những hiểu biết cơ bản về các tên gọi như viện hàn lâm và viện sĩ, académie
(hoặc academy, akademiya...) và académicien (hoặc academician, akademik...), và
cuối cùng nhận rõ không ít sai lầm tai hại trong việc sử dụng tên gọi “viện
sĩ”.
Ở nước ta, các tên gọi “viện hàn lâm”
và “viện sĩ” hình như có sức mê
hoặc phi thường và rất nhiều người muốn
khai thác chúng một cách triệt để. Cho nên, cứ hễ ớ đâu có Academy là lập tức được dịch ra ngay thành
Viện hàn lâm, hễ dính một chút đến một Academy nào đó là trở thành viện sĩ, và được nhiều người trầm
trồ, thán phục. Sự ngưỡng vọng đối với viện hàn lâm và viện sĩ, có lẽ bắt đầu
thể hiện đối với Viện hàn lâm Pháp (Académie franÕaise) từ thế hệ cha chú chúng
tôi, tiếp nữa là đối với Viện hàn lâm
khoa hoc Liên Xô, bén rễ trong lòng nhiều thế hệ trước khi Liên xô sụp đổ. Tình
cảm ấy bắt nguồn từ đức tính tốt là lòng yêu chuộng tri thức. Nhưng, khi thời
thế đổi thay, thói giả dối, bệnh ham chuộng hình thức và hư danh bao trùm lên
xã hội thì đức tính tốt ấy bị lợi dụng
và khai thác triệt để. Thói dối trá đã ngấm sâu vào máu của những người đã
giành được ít nhiều danh lợi, đến mức trở thành bản năng, vô thức, tất yếu.
Khi lương tâm và trách nhiệm công dân
bắt buộc tôi phải viết vài này, nhiều khi tôi cảm thấy thẫn thờ, chán nản. Ôi,
sao lại có chuyện lạ đời như thế này? Một giáo sư nổi tiếng bậc nhất hiện nay, thường vẫn rao
giảng về thái độ trung thực trong khoa học, về việc dấn thân để bảo vệ chân lý
khoa học, nay lại đánh lừa cả nước ngót 100 triệu người ư? Mà lại lừa rất dễ.
Ông ta đã được các cấp chính quyền cùng
toàn bộ hệ thống thông tịn tuyên truyền văn hóa giáo dục khoa học ra sức
đề cao, tâng bốc, coi như một niềm tự hào của đất nước. của dân tộc.Tôi băn
khoăn tự hỏi, trước sự việc này, ta nên cười hay nên khóc, và đối với những
người trong cuộc ấy, ta nên khinh ghét hay nên thương hại?
Tôi rất mong muốn nước ta có những
“viện hàn lâm” (nếu thấy cần phải gọi
như thế) hoặc là một hay vài viện nghiên
cứu (của nhà nước và của tư nhân), trong đó nổi lên một viện có ảnh hưởng sâu
rộng đến sự phát triển lành mạnh của đất nước, rất nổi tiếng và toàn dân ai ai
cũng biết, dù nó có tên là Viện (hàn lâm) ABXFZ gì đó nhưng chỉ cần nói đến
“Viện (hàn lâm)” là đủ biết mà không cần nói rõ tên, giống như từ “đảng’ hiện
nay vậy. Khi đó, các thành viên trụ cột (không phải là “tứ trụ” mà có thể là “nhị
thập tứ trụ” hay là “tứ thập nhị trụ”, v.v.) được tôn xưng là Viện sĩ của
viên ABXFZ, nhưng chỉ cần xưng “Viện sĩ” là đủ.. Lúc bấy giờ, các cụ Phan
A, Nguyễn B, Trần C (nếu còn sống) sẽ được gọi là viện sĩ theo đúng nghĩa và họ
tha hố vung bút thoải mái viết VS Phan A, viện sĩ Nguyễn B mà không sợ
phạm lỗi tiếng Việt. Nhưng lúc đó phải lưu ý cấm các chú vệ sĩ không được viết
tắt chữ “vệ sĩ” là VS, mà có lẽ nên cấm ngay từ bây giờ, vì nếu không cấm thì vệ
sĩ Mạnh Huỵch chẳng hạn, lúc nào cũng có quyền giới thiệu mình là VS.
Mạnh Huỵch mà không cần ai ban phát danh hiệu và không hề phạm lỗi tiếng
Việt, bởi vì vệ sĩ gần như là nghề
nghiệp của ông ta, như ta vẫn thường
nói ca sĩ Hồng Nhung hay nhạc sĩ
Trần Tiến vậy. Ngoài ra, nếu Viện ABXFZ
được mọi người biết đến vì nó đầy
tai tiếng, lúc đó, xét về mặt ngôn ngữ học thì viết VS Phan A hay
viện sĩ Nguyễn B cũng đều hoàn toàn
đúng, nhưng đó là cái đúng mà chúng ta không mong muốn.
Ở nước ta có hai Viện nghiên cứu lớn
(không biết đã lớn nhất hay chưa) mà tôi khá quen biết, đó là Viện khoa học xã hội Việt Nam và Viện khoa học và công nghệ Việt
Nam. Cả hai Viện ấy có tên bằng
tiếng Anh, lần lượt là Vietnam Academy
of Social siences và Viet Nam Academy of Science and Technology
(chữ Việt Nam có khi viết liền, có khi viết rời, có khi viết Vietnamese). Vì
khá nhiều người hiểu chữ Academy một cách “hàn lâm” chứ không nghĩ rằng ngày
nay nó được sử dụng khá “thông tục” nên họ phê phán rằng, làm ăn chẳng ra gì mà đã huyênh hoang khoác lác ,
dám vỗ ngực tự xưng là Academy. Theo tôi thì dịch như vậy không sai, Viện khoa
học Trung Quốc cũng có tên bằng tiếng
Anh là Chinese Academy of Sciencescơ mà. Còn cái tên bằng tiếng Việt thì cũng tùy các nhà lãnh đạo cao cấp định
đoạt, nhưng nếu gọi là Viện hay Viện hàn lâm thì giá trị của nó cũng không hề
tăng lên hay giảm xuống. Chiếc áo không làm nên thày tu, huống chi là một cái
tên.
Với tư cách một công dân cao tuổi, tôi
viết bài lược khảo này để quý vị độc giả và
các nhà chức trách tham khảo nhằm hiểu
rõ hơn về những danh hiệu mà suốt nhiều năm qua, các cơ quan báo chí và
các nhà khoa học cùng toàn thể dân chúng đã hiểu sai, dấn đến những chuyện lố
bịch, đáng hổ thẹn. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước đông đảo độc giả và cả
trước pháp luật về điều mà tôi đã khám phá.
Theo những địa chỉ của các nguồn tư
liệu từ Internet mà tôi đã sử dụng, bất cứ độc giả nào biết chữ Hán và
tiếng Nga, tiếng Anh và tiếng Pháp đều có thể kiểm tra ngay trước màn hình của máy tính. Nếu phát hiện thấy tôi đã trích
dẫn sai, hiểu sai, diễn giải sai các
nguồn tư liệu ấy, tôi kính mong được chỉ dẫn thật rõ, rõ hơn hoặc như tôi đã
làm trong bài này. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm toàn diện về mọi điều mà tôi
đã viết.
Tháng 9 năm
/2012
L.M.C
Phần phụ lục
Kính thưa quý vị độc giả!
Để độc giả khỏi phải nghi ngờ về tính
xác thực của những cứ liệu được sử dụng trong bài này, chúng tôi xin giới thiệu
một số cứ liệu ấy.
Nhằm giúp quý vị độc giả hình dung được
khoảng cách giữa một Associé étranger (Cộng sự viên nước ngoài) váo một
Correspondant étranger (thông tín viên nước ngoài), chúng tôi xin giới
thiệu Hồ sơ cá nhân của một Cộng sự viên
nước ngoài và Hồ sơ cá nhân của GS Phan Huy Lê mà chúng tôi đã tìm thấy trong website chính thức của Viện
hàn lâm Bi ký và Mỹ văn (L’Académie
des Inscriptions et Belles-Lettres). Chúng tôi khong cần giới thiệu Hồ sơ cá
nhân của một Viện sĩ, bởi vì,như trong bài đã nói, Các cộng sự viên nước ngoài
là những người có trình độ chuyên môn
rất cao, có thẻ sánh với các Viện sĩ,
nhưng vì họ không phải là người Pháp nên không thể gọi là viện sĩ. Bởi vậy,
Hồ sơ cá nhân của một viện sĩ
nhất định phải phong phú hơn Hồ sơ của mọt cộng sự viên.
Ngoài ra, chúng tôi cũng xin giới
thiệu trang website chính thức nói về Các
thành viên và các thông tín viên của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn, cũng như
các bản tin từ Báo điện tử của Dảng cộng sản Việt Nam và của Nhà xuát bản Tri
thức nói về việc GS Phan HUy Lê trỏe thành Viện sĩ viện hàn lâm Pháp.
Lê Mạnh Chiến
Hồ
sơ của GS Phan Huy Lê,
(Correspondant) tại website chính
thức của Académie des Inscriptions et
Belles-Lettres
Correspondant étranger PHAN
HUY Lê
Chevalier des
Palmes académiques.
Né à
Thach-Châu (Vietnam), le 23 février 1934.
Orientaliste,
spécialiste de l’histoire rurale, culturelle et militaire du Vietnam. Président
de l’Association des historiens du Vietnam.
Nommé le 27
mai 2011 correspondant étranger à la place de Francisco Rico.
Thông tín viên nước
ngoài PHAN HUY LÊ
Sinh tại Thạch Châu (Việt Mam), ngày 23 /02/1934. Nhà đông phương học, chuyên gia về lịch sử nông thôn, lịch sử văn hóa và lịch sử quân sự Việt Nam. Được chỉ định ngày 27 tháng 5 năm 2011 làm thông tín viên nước ngoài ở vị trí của Francisco Rico
***
Để đối chứng tư cách của một thông
tín viên (correspondant) với một cộng sự
viên (associé), chúng tôi xin giới thệu hồ sơ của ông Louis Godart , được bầu chọn (Élu, chứ
không phải Nommé = Được chỉ định,
như GS Phan Huy Lê) ngày 12/4/2002 làm Associé étranger
Hồ sơ của ông GODART Louis (sinh năm 1945, quốc tịch Italia), Cộng sự viên nước ngoài (Associé
étranger), tại website chính thức
của Académie des Inscriptions et Belles-Lettres
GODART
Louis
(Bourseigne-Vieille,
Belgique, le 12 août 1945 ; naturalisé italien)
Élu, le 12 avril 2002, associé étranger de
l’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres, au fauteuil de Cinzio VIOLANTE
GODART Louis
Sinh tại
Bourseigne-Vieille, Bỉ, ngày 12 tháng 8 năm 1945. quốc tịch Ý. Được bầu ngày
12 tháng tư năm 2002 làm cộng sự v iên nước ngoài của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn, ở ghế bành của Cinzio VIOLANTE.
Spécialisation: HELLÉNISTE
[mycénologue, spécialiste du monde égéen, proto et pré-grec]
Carrière : - 1967-1971. Boursier du Consiglio
nazionale delle Ricerche (Rome). - 1971. Docteur en philosophie et Lettres de
l’Université libre de Bruxelles. - 1971-1973. Membre de l’École française
d’Athènes. - Depuis 1973. Professeur chargé de cours, puis extraordinaire (1980)
et ordinaire (1983) de philologie mycénienne près la Faculté de lettres et
philosophie de l’Université de Naples« Federico II » - 1977. Docteur ès
lettres. - 1983-1988. Directeur de l’Academia Belgica (Rome). - 1998.
Correspondant étranger de l’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres. -
2001. Segretario de la classe di scienze morali, storichi e filologiche
dell’Accademia nazionale dei Lincei. - 2002. Conseiller du président de la
République italienne pour les affaires culturelles.
• Directeur de la mission archéologique
de l’Université de Naples« Federico II » en Crète (depuis 1982).
• Membre du Comitato di Indirizzo per
la Valutazione della Ricercha scientifica du ministère de l’Université et de la
Recherche scientifique (Italie).
• Membre de l’Accademia nazionale dei
Lincei (Rome), de l’Accademia Pontaniana (Naples), de l’Accademia di Lettere e
Belle Arti di Napoli et membre correspondant de l’Académie d’Athènes.
• Grand-Officier de l’Ordre de Léopold
II (Belgique).
Principales publications : - 1973. Index
généraux du linéaire B (en coll. avec J.-P. Olivier, C. Seydel et C.
Sourvinou). - 1976-1985.Recueil des Inscriptions en linéaire A, 5 t. (en coll.
avec J.-P. Olivier). - 1976. TO MINOIKO APXEIO TON XANION (en coll. avec I. A.
Papapostoulou et J.-P. Olivier). - 1978. Fouilles exécutées à Mallia. Le
quartier Mu (Introduction générale par J.-C. Poursat ; L’écriture
hiéroglyphique crétoise par L. Godart et J.-P. Olivier). - 1978. Les tablettes
en linéaire B de Thèbes (en coll. avec A. Sacconi). - 1986-1998. Corpus of
Mycenaean Inscriptions from Knossos, 4 vol. (en coll. avec J. Chadwick, J. T.
Killen, J.-P. Olivier et A. Sacconi ; ainsi que I. A. Sakellarakis pour les t.
1 et 2). - 1990. Le pouvoir de l’écrit. Aux pays des premières écritures. -
1990. Appunti di Filologia micenea (en collaboration avec A. Franceschetti). -
1992, 2001 (2ème ed.).L’invenzione della scrittura. Dal Nilo alla Grecia. -
1992.Témoignages archéologiques et épigraphiques en Crète occidentale du
Néolithique au Minoen Récent III B (en coll. avec Y. Tzedakis). - 1995. Le
disque de Phaistos. L’énigme d’une vieille écriture de l’Égée(également en
italien, anglais, allemand et grec). - 1996. L’oro di Troia. La vera storia del
tesoro scoperto da Schliemann (en coll. avec G. Cervetti). - 1996. Corpus
Hieroglyphicarum Inscriptionum Cretae (en coll. avec J.-P. Olivier). - 1997. Le
isole degli Dei. Creta a l’arcipelago greco. - 1998. Grecia. Terra di dei e di
Eroi (en coll. avec J. Lange). - 2001. Fouilles de La Cadmée I. Les tablettes
en linéaire B de la Odos Pelopidou, Biblioteca di Pasiphae I (en coll. avec V.
L. Aravantinos et A. Sacconi). - 2006. Il Palazzo del Quirinale.
• Membre des comités scientifiques des
revues Archeo, Archeologia Viva, Archéologie nouvelle, Gaia et Respublica
Litterarum.
En ligne sur
Persée :
Godart,
Louis. « La Crète occidentale au Minoen Récent III B (XIIIe s. av. n.
è.) ». In : Comptes rendus des séances de l’Académie des Inscriptions
et Belles-Lettres, 136e année, N. 1,
1992. pp. 157-172. (Consulté le 04 novembre 2011)
Godart,
Louis. « Les écritures crétoises et le bassin méditerranéen ».
In : Comptes rendus des séances de l’Académie des Inscriptions
et Belles-Lettres, 138e année, N. 3,
1994. pp. 707-731. (Consulté
le 04 novembre 2011)
Godart, Louis. « Littérature mycénienne et épopée homérique ». In :Comptes rendus des séances de l’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres, 145e année, N. 4, 2001. pp. 1561-1579. (Consulté le 04 novembre 2011)
Godart, Louis. « Le nouveau visage du Quirinal ». In : Comptes rendus des séances de l’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres, 150e année, N. 2, 2006. pp. 887-890.
Godart, Louis. « Littérature mycénienne et épopée homérique ». In :Comptes rendus des séances de l’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres, 145e année, N. 4, 2001. pp. 1561-1579. (Consulté le 04 novembre 2011)
Godart, Louis. « Le nouveau visage du Quirinal ». In : Comptes rendus des séances de l’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres, 150e année, N. 2, 2006. pp. 887-890.
. (Consulté le
04 novembre 2011).
Một số bản tin về việc GS Phan Huy Lê trở
thành viện sĩ hàn lâm Pháp
Nguồn: http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Giao-su-Phan-Huy-Le-tro-thanh-Vien-si-han-lam-Phap/20117/91210.vgp
Nguồn:
http://nxbtrithuc.com.vn/viet-nam/145-gs-phan-huy-le-tro-thanh-vien-si-vien-han-lam-phap
* Bài còn có tiêu đề khác: Cùng luận bàn về Viện Hàn lâm và danh hiệu
viện sĩ của ông Phan Huy Lê
Nguồn:
- Tạp chí Nghiên cứu và phát triển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét