Bảo Ninh, người làm lễ bỏ mả
cho giai đoạn thơ văn minh họa
Đỗ Trường
Cuộc sống này,
quả thật còn có nhiều điều không thể hiểu. Tôi chỉ là người viết văn tép riu,
vui là chính, như lời nhà thơ Trần Nhương. Ấy thế mà, tôi cảm giác, văn thơ như
có một sợi dây vô hình nào đó gắn bết lại lại với nhau. Khi viết Nguyễn Trọng
Tạo, tôi lại nghĩ đến nhà thơ Hoàng Cát, Lưu Quang Vũ. Lúc viết về Trần Mạnh
Hảo, cái hào sảng, khí phách con người cũng như thơ ca Bùi Minh Quốc lại hiện
về. Viết xong Đỗ Hoàng, thế quái nào tâm trí còn đọng lại bác Bảo Ninh. Giờ này
đang viết về Bảo Ninh, người lính chiến miền Bắc, lại thấy ông em họ, lính thám
kích miền Nam, chết sau mấy năm trở về, từ nhà tù Thanh Hóa, ngồi lù lù bên
cạnh …
Nguyễn Minh
Châu là nhà văn tài năng số một của miền Bắc viết tiểu thuyết, văn xuôi về đề
tài chiến tranh. “ Dấu Chân Người Lính“ được cho là một trong những cuốn tiêu
biểu đỉnh cao nghệ thuật của văn học thời kỳ ấy. Nhưng năm 1987, Nguyễn Minh
Châu ra lời kêu gọi bằng chính tác phẩm của mình: “ Hãy Đọc Lời Ai Điếu Cho Một
Giai Đoạn Văn Nghệ Minh Họa“. Thật ra, trước ông đã có một số nhà văn, nhà thơ
đã định làm lễ bỏ mả cho cái giai đoạn văn nghệ tuyên truyền, minh họa này.
Tiêu biểu Phạm Tiến Duật năm 1974 với bài thơ “ Vòng Trắng“. Mấy năm sau,
Nguyễn Trọng Tạo lại trần trụi với bài “ Tản Mạn Thời Tôi Sống“…Chưa đúng thời,
cả hai ông đều bị tẩm quất. Văn chương thơ phú muốn nói thật viết thật, quả
thật còn nguy hiển hơn cả ngoài mặt trận. Phạm Tiến Duật lộn lại chiến trường,
còn Nguyễn Trọng Tạo bị dồn đến chân tường, có những lúc ông đã phải nghĩ đến
cái chết.
Không ai phủ
nhận những đóng góp, sức mạnh của văn thơ tuyên truyền, cổ động trong thời điểm
đó và tài năng của các nhà thơ nhà văn. Nhưng văn thơ tuyên truyền, minh họa
chỉ nhất thời, có tuổi thọ ngắn. Ngay đến nhà thơ tài danh Xuân Diệu, đầu năm
1979 vào Buôn Mê Thuộc, theo đơn đặt của tỉnh ủy Daklak, ông viết bài thơ Huyện
Lắc. Bài thơ này, được ông đọc và bình trước sinh viên trường đại học Tây
Nguyên, trường sư phạm. Bài thơ không hay! Có một tên trời đánh Hoàng Thế Hoan
(sinh viên sư phạm Đà Lạt, quê quán Nghĩa Hùng, Nghĩa Hưng, Nam Định), dám cả
gan chê ngay trước mặt ông như vậy. Âu đó cũng là chuyện bình thường, bởi thơ
đó không được tiết ra từ xúc cảm tâm hồn Xuân Diệu, mà cái đơn đặt hàng nó viết
đấy thôi.
Ông phó cối,
hàng xóm nhà tôi, người lính đã trải qua ba cuộc chiến. Ngày còn nhỏ anh thường
phải theo cha đi đóng cối xay khắp nơi, nên ít được đến trường. Nhưng anh ham
đọc, nhất là sách, truyện viết về chiến tranh. Có lần anh hỏi tôi, theo chú,
tại sao truyện của Bảo Ninh đọc đi đọc lại mãi không chán? Nếu như người khác,
tôi đã cho là hỏi đểu, nhưng với anh tôi biết, đó là câu hỏi thật. Vâng! Chỉ
một câu trả lời: Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh. Và tôi hỏi lại, anh đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh,
thấy Bảo Ninh viết về những người lính và chiến trường giống những gì anh đã
trải qua không? Anh bảo, giống…giống lắm, người lính tên Can là một phần cuộc
sống của anh về cả xuất thân quê quán, hoàn cảnh, chiến tranh đánh đấm khói lửa
cho đến suy nghĩ…
Cách nay vừa
tròn hai mươi năm(1993), tôi có về Hà Nội, gặp được ông em họ vừa ở tù ra vì
can tội là lính thám kích, quân đội VNCH. Tôi có đưa cho hắn cuốn Nỗi Buồn
Chiến Tranh. Đọc xong, hắn bảo, ông Bảo Ninh viết hoàn toàn sai về người lính
VNCH. Như câu chuyện bốn người lính thám
kích bị bắt, tác giả viết một cách không đúng sự thật. Từ cách mô tả hành động
đến thuật lại những mẩu đối thoại của những người lính thám kích này.
Lính thám kích
được chọn, hầu hết còn trẻ, gan dạ và có bản lãnh. Họ không thể nào quá hèn hạ,
van xin như Bảo Ninh kể. Nếu có xin tha đi nữa, thì cách nói và những lời nói
ấy, nhất định không phải của họ. Điều này hắn khẳng định không thể có. Người
lính thám kích đã được giáo dục về nhân cách, ngay sau khi đã được tuyển chọn.
Trong nhiệm vụ đặc biệt, những toán thám kích cần phải tránh nổ súng, tránh bị
phát hiện, trừ trường hợp, tự vệ, bất khả kháng. Cho nên, không thể có trường
hợp phát hiện, bắt ba cô gái, rồi dẫn đi nhởn nhơ như vậy, để nhóm của Kiên tóm
được. Hơn nữa, trong trường hợp đã bị bắt, trước sự sống chết, không thằng nào
ngu xuẩn, nói giọng trêu cợt: Ba nhỏ đó
trình quý anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi... Mấy nhỏ la khóc quá trời..
Hắn cũng cho
rằng, cuốn truyện còn nhiều cảnh tưởng tượng quá mức, như trường hợp, một đám lính, làm thịt con xà niêng, nhưng
sau khi cạo lông mới phát hiện ra đó là một người đàn bà.
Tôi viết lại
lời hắn theo trí nhớ của mình. Và còn nhiều lời nặng nề khác của hắn về Nỗi
Buồn Chiến Tranh, nhưng tôi xin phép không chép ra đây. Hắn ra người thiên cổ
đã lâu. Vài dòng như một chút tưởng niệm đến hắn và các những người lính cả hai
miền Nam-Bắc đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Tôi là người sinh sau đẻ
muộn, rất may mắn không phải tham gia trận chiến thê thảm này. Bài này, tôi chỉ
đề cấp đến sự thật khốc liệt của chiến tranh, ở những tình tiết có ở trên trang
sách của Bảo Ninh và nghệ thuật viết truyện của ông, qua suy nghĩ cá nhân. Do
vậy, khi đọc các bác đặt quan niệm chính trị, ra ngoài bài viết này.
Cũng như Lưu
Quang Vũ, Bảo Ninh được sinh ra trong một gia đình văn chương, khoa bảng. Nói
một cách dân dã, các ông là con nhà nòi và lớn lên trong cái lò văn chương,
nghệ thuật. Lưu Quang Vũ đã sớm nắm bắt được cái tinh cái cốt ấy, nên đến với
thi ca rất sớm. Còn Bảo Ninh đủng đà đủng đỉnh, cứ như một gã thợ cày làm công
nhật, tính điểm thời hợp tác xã vậy. Do đó, ông đến với văn chương khá muộn, so
với các nhà văn cùng thế hệ. Có thể nói, nếu như không có sự cổ vũ, giúp đỡ
tích cực của người cha thì chưa chắc Bảo Ninh đã theo nghiệp viết lách. Thật
vậy, khi đọc văn của Bảo Ninh, thấy dường như có một nhà ngôn ngữ học thấp
thoáng ở đâu đó.
Điều tất nhiên
khi đánh giá tài năng nhà văn, cũng như kiểm tra OTK trong nhà máy, chỉ dựa vào
chất lượng sản phẩm của họ. Xuất thân, đến sớm hoặc muộn với văn chương chỉ là
tài liệu tham khảo. Tài năng phát tiết ra sớm hay muộn cũng như cơ địa của hai
cô gái cùng tuổi, nhưng thời điểm dậy thì, khác nhau mà thôi.
Bảo Ninh có
cái may mắn, gốc rễ, được sinh ra tại miền quê và ông lớn lên trưởng thành ở Hà
Nội. Giống nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, ông được đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều
người ở vùng miền khác nhau. Những cách sống, văn hóa, ngôn ngữ vùng miền ấy,
sau này đã được ông tiếp thu, hòa trộn đưa vào trang sách một cách sinh động
phong phú. Dường như Bảo Ninh viết không nhiều, không viết tạp. Ông chỉ viết
những gì, khi hiểu thật kỹ và đã, đang sống cùng nó. Ngoài viết báo ra, ông còn
gánh hai mảng, truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết văn, nhất là tiểu thuyết là
công việc nặng nhọc, nên nhà văn ngoài tài năng bẩm sinh, kỹ năng viết ra, cần
phải có sức lực, vốn sống, kiến thức thâm hậu. Chứ viết văn dốt bị “nghĩa lộ“
ngay, không như mấy bác lười nhác, trống
rỗng làm thơ tắc tị, nhạt như nước ốc, vẫn có thể lấp liếm được, cho là thơ
trừu tượng, thơ mới…Vì vậy, (tịnh) không thấy bác nào, lập ra hội văn phường,
văn xóm như thơ. Vì những lý do này và là người kỹ tính, nên Bảo Ninh cốt tinh
chứ không cốt lượng, viết thận trọng từng bước, từng bước chăng?
Nhà văn Bảo Ninh |
Cho đến nay, về tiểu thuyết, Bảo Ninh chỉ mới trình
làng cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh. Cuốn tiểu thuyết này, ông viết cách nay đã trên
hai chục năm. Tôi cho rằng, đây là cuốn
sách rửa lại bộ mặt nhem nhuốc cho văn học Việt Nam. Và nó là lời ai điếu cho
giai đoạn văn thơ minh họa tuyên truyền.
Thân Phận Tình
Yêu là cái tên đầu của cuốn sách. Một cái tên vô thưởng vô phạt, không hay, nếu
như không muốn nói là tối nghĩa. Bởi vì cái tên, cái tựa là cái giỏ chứa cả hồn
cốt của cuốn truyện. Tôi nghĩ, cái tên này chỉ là giải pháp bắt buộc tạm thời
như vậy, nếu Bảo Ninh, muốn đưa được cuốn sách này đến người đọc. Gỉa dụ, cái
tựa này do Bảo Ninh thực sự đặt ra, thì cha ông, một giáo sư ngôn ngữ học,
không chịu để yên như thế. Vậy là cuốn sách đã qua được vòng kiểm duyệt, (chắc
chắn có sự hỗ trợ của một số nhà văn khác có trách nhiệm, tư tưởng cởi mở)
để đến tay bạn đọc. Năm 1991, được tái
bản, Bảo Ninh mới dám trả đúng tên cho cuốn sách của mình: Nỗi Buồn Chiến
Tranh.
Mặc chiếc áo
của người lính chiến tên Kiên, Bảo Ninh đã lột trần sự tàn nhẫn, của chiến
tranh và thân phận đớn đau, không lối thoát của người lính ngay sau cuộc chiến.
Một sự thật từ xưa đến nay người ta đều giấu giếm kiêng kị. Tiếng vang của nó
không còn đóng khung trong nước, mà tràn ra khỏi biên giới. Độc giả các nước
Âu-Mỹ đã đón nhận nó. Sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, kéo theo hệ thống xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Những năm sau đó, trong nước có những
lãnh đạo cao cấp đã nhận ra sai lầm. Tư tưởng người dân dao động. Tầng lớp trí thức, thanh niên bước đầu có
những chính kiến rõ ràng. Các bác giật mình sợ hãi. Một cái lệnh vu vơ từ cõi
trên, treo tái bản Nỗi Buồn Chiến Tranh hơn chục năm.
Mười năm, văn
học Việt Nam vẫn luẩn quẩn, không có một cuốn sách nào vượt qua được Nỗi Buồn
Chiến Tranh. Tuy sách của Nguyễn Huy Thiệp được xuất bản ở nước ngoài, gây
tiếng vang, nhưng chỉ là truyện ngắn, không nặng ký như tiểu thuyết, truyện dài
hơi. Đất nước muốn thoát cảnh đói nghèo, cánh cửa biên giới phải mở. Internet
phát triển như vũ bão, các bác treo Nỗi Buồn Chiến Tranh, người đọc tìm Bảo Ninh
trên trang báo nước ngoài. Bộ mặt văn học Việt Nam vẫn méo mó, đối ngoại luẩn
quẩn. Các bạn nước ngoài hỏi đến Bảo Ninh, các bác ngơ ngác, thật là kỳ cục.
Thế là, người ta lại phải cần đến Bảo Ninh và Nỗi Buồn Chiến Tranh để lau lại
khuôn mặt nhem nhuốc đó. Muốn vậy, chỉ còn cách duy nhất, Nỗi Buồn Chiến Tranh
phải được tái bản lại ở trong nước. Đây là cuốn sách, được người đọc trong và ngoài nước yêu thích và
cũng có số lượng phát hành nhiều nhất Việt Nam.
Tôi không
thích đọc những bài viết về giải thưởng văn học trong cũng như ngoài nước.
Nhưng hôm rồi lục tìm tài liệu về thân thế của Bảo Ninh, thấy có một bài viết
của Đông La. Anh cho rằng, Bảo Ninh đã chôm một đoạn văn này, của cuốn sách
nước ngoài(Bông Hồng Vàng) đưa vào Nỗi Buồn Chiến Tranh: “…Nếu Elêna nói với
Anđexen: “Anh hãy chạy đi… Đừng nghĩ gì đến em. Nhưng nếu một ngày kia, tuổi
già, nghèo nàn và bệnh tật có làm anh đau khổ thì chỉ cần anh nhắn cho em một
lời, em sẽ… tới an ủi anh”, thì cô Lan cũng nói với Kiên: “Đừng bận về em. Đời
anh rộng mở, hãy đi vào hãy sống cho thỏa… Còn nói ví dụ… một ngày nào anh gặp
cảnh ngộ không hay, thấy đã hết ngả để đi tiếp thì xin anh hãy nhớ ngay rằng,
dù sao cũng còn có một nơi, cũng còn một người… một chốn anh về“(bài của Đông
La)
Tôi nghĩ, anh
Đông La đã lầm lẫn, hai đoạn văn trên hoàn cảnh, ngữ cảnh và những câu thoại
hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, đoạn trích của Đông La là những câu ghép lại
bằng những dấu ba chấm để so sánh. Lắp ghép kiểu này, dường như không được
chính nhân cho lắm. Cũng chẳng cần phải phân tích đúng sai, nói cho nhanh, nếu
đoạn văn trên là chôm chỉa thật, chẳng cần anh Đông La phải mất công đào bới,
mấy ông bản quyền ở Âu- Mỹ, đã lôi cổ Bảo Ninh ra tòa lâu rồi. Có một điều, có
lẽ anh Đông La không biết, luật bản quyền ở châu Âu chặt chẽ xuống từng đầu
người, từng chiếc Radio, từng cái Ôtô. Ai cũng phải trả tiền bản quyền nghe
nhạc. Sử dụng nhạc trong cửa hàng kinh doanh, càng phải trả nhiều tiền hơn,
tính mét vuông nhân lên số tiền. Tiện đây cũng nhắc luôn nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo và các nhạc sỹ có bài hát, hay được(bị) sử dụng ở nước ngoài. Trước kia,
các nhà hàng của người Việt ta, thường khai với công ty quản lý sử dụng nhạc
trong kinh doanh(GEMA) chỉ sử dụng nhạc Việt, nên không phải trả tiền. Mấy năm
gần đây, sử dụng nhạc Việt cũng phải nộp tiền cho công ty này. Họ bảo, nhạc
Việt cũng được bảo hộ, tiền sẽ trả cho tác giả. Không biết công ty bản quyền và
nhạc sỹ ở Việt Nam có được nhận hay không? Không những Đức mà còn nhiều các
nước khác, châu lục khác. Tôi nghĩ, đó là khoản tiền không nhỏ.
Cũng như nhạc,
ngoài ra bản quyền sách báo còn chặt chẽ hơn. Sách của Bảo Ninh có đoạn chôm
chỉa, tôi bảo đảm không nhà sách nào dám in, chứ đừng nói mấy chục năm nay nó
nằm chình ình ở các hiệu sách, thư viện Âu- Mỹ như vậy.
Đông La còn đánh giá, nếu như Bảo Ninh nhận
được giải Nobel về văn học, thì mang mầu sắc chính trị, chứ không phải về học
thuật. Tôi nghĩ, văn học Việt Nam đang như cái chợ chiều thế này, thế hệ nhà
văn Bảo Ninh không có hy vọng nhận được giải ấy. Nếu như Việt Nam nuôi hy vọng
nhận được giải Nobel, ngay bây giờ nên có những công trình nghiên cứu, giải
quyết những câu hỏi. Tại sao Nỗi Buồn Chiến Tranh tràn đầy sức sống và sống dai
đến như vậy? Không những nó ghim vào lòng độc giả trong nước mà cả đến độc giả
các nước Âu-Mỹ. Điều này không phải tôi nói, trước đây đã nhiều người nói rồi.
Cái này, từ ông viện trưởng viện văn học đến ông chủ tịch Hội nhà văn chắc chắn
cũng thừa biết. Nhưng các bác không làm, vì có lẽ làm cũng chẳng ăn cái dải rút
gì. Nên các bác để thời gian, cùng nhau lên đồng, cùng nhau tụng ca những thứ,
thơ chẳng ra thơ, vè chẳng ra vè của những ông linh hồn bệnh hoạn như Hoàng
Quang Thuận… Với những suy nghĩ còn tiểu nông như vậy, văn chương bao giờ mới
lớn lên được.
Không biết
Đông La đã đọc kỹ Nỗi Buồn Chiến Tranh hay chưa? Cuốn sách này, tôi chẳng thấy
đồng chí chính trị viên hay bác tâm lý chiến nào ở trong đó cả. Cũng chẳng thấy
bóng dáng, những ông Kissinger, Nixon, Johnson hay bác Nguyễn Khoa Điềm... Đinh
Thế Huynh đâu. Chỉ thấy, thuần một ông Bảo Ninh đang lên cơn điên, với những
nỗi ám ảnh chém nát linh hồn. Từ đó bật lên sự thật trần trụi, tàn nhẫn của
chiến tranh cũng như thân phận bi quan không lối thoát của con người sau cuộc
chiến, chẳng có chút chính trị chính em nào ở trong này cả. Cuốn Nỗi Buồn Chiến
Tranh, nếu như được trao giải, thì chẳng có lợi cho phe phái chính trị nào. Và
Bảo Ninh cũng không phải là cái tầm cỡ to lớn như hai bác, thay mặt cho hai
phe, xua quân đánh nhau, rồi bắt tay đình chiến, cùng được kêu tên nhận giải
Nobel khi xưa, để người ta đáng phải làm như vậy. Đông La suy diễn quả thật
không có cơ sở, dù sự việc chỉ là giả thiết.
Đến bây giờ
tôi vẫn nghĩ, Nỗi Buồn Chiến tranh nếu được viết, xuất bản ở môi trường xã hội
khác, có lẽ Bảo Ninh sẽ viết theo thể truyện ký, hay tự truyện. Dùng đại từ
nhân xưng (tôi) ngôi thứ nhất, thay cho ngôi thứ ba (Kiên), gần gũi, truyền cảm
xúc nhanh nhất từ người viết đến người đọc. Nó cho người đọc cảm giác thật và
có sức lan tỏa mạnh hơn nữa. Nhưng nó có mặt hạn chế bó buộc, không được vung
tay mạnh, như viết tiểu thuyết. Bản thân
tôi khi đọc, tiếp cận Nỗi Buồn Chiến Tranh, bằng mạch văn tự truyện, hay truyện
ký, chứ không coi nó là tiểu thuyết.
Xuyên suốt Nỗi
Buồn Chiến Tranh là sự hồi tưởng trong
trạng thái ám ảnh của người lính chiến tên Kiên (tức là Bảo Ninh). Theo lời ông
bạn, chuyên gia thần kinh học, thì ám ảnh cũng là một căn bệnh do bị tổn thương
thần kinh. Những lúc bị ám ảnh, mỗi người bệnh có hành vi khác nhau. Có người
đập phá, người hát hò nhảy múa hoặc tìm sử dụng chất ngây nghiện …Nhưng có
những người lại trầm lặng làm những công việc đặc biệt, hoặc sinh ra những cá
tính cá biệt. Có lý, như ông bác Đặng Trác, họ bên mẹ tôi là tướng tá gì đó, tư
lệnh quân khu 9 từ thời đánh nhau với ông Pháp. Vợ ông ngày xưa có lẽ cũng tham
gia đánh trận, nên bị ám ảnh, rất sợ bẩn. Có lần vợ chồng bác đến thăm ông trẻ,
em bà ngoại tôi, chú Đặng Xuân Đỉnh(em ruột TBT Trường Chinh) cũng ở đó, đưa
mời vợ bác Trác ly nước, bà vội rút khăn ra lót vào ly, rồi mới dám cầm. Bác
Trác xin lỗi, và giải thích căn bệnh của bà…
Như vậy, rất
may Kiên rơi vào dạng thứ hai này. Mỗi lần ám ảnh, thần kinh kích động cao độ,
ông ngồi vào bàn viết, làm công việc duy nhất độc thoại về Phương về Can về
Quảng, về Hòa...trong nội tâm và được chuyển tải trên từng trang giấy. Lúc này
tâm hồn ông thoát, tách rời và khỏi thế giới xung quanh và không bị tác động
bởi nó, ký ức hiện lên trang viết của ông là chân thật rõ nét nhất. Trong tâm
trạng không bình thường, với nỗi ám ảnh chập chờn như bóng ma hiện về. Những ký
ức bị xé vụn, đan xen chằng chịt, với lối kể nhanh, hoạt làm cho người đọc rờn
rợn, nhưng vẫn đuổi theo hành động của nhân vật. Phải nói đây là cách dẫn
chuyện mới lạ với người Việt, gần với tâm lý độc giả phương Tây hơn.
Có một nhà phê
bình tên tuổi, khi đánh giá về Nỗi Buồn Chiến Tranh viết (quanh quẩn một hồi,
rồi có câu kết): Bảo Ninh đã xây dựng thành công nhân vật người lính. Vâng! Tôi
hiểu sự úp mở để che đậy cái suy nghĩ thật mà ông không dám nói, dám viết. Xây
dựng của ông là nghệ thuật xây dựng của con chữ, chứ dứt khoát không phải xây
dựng thành công người lính ĐIỂN HÌNH trong tập thể điển hình như những Dấu Chân
Người Lính của Nguyễn Minh Châu, Đêm Trường Sơn Nhớ Bác của Nguyễn Trung Thu…
Bảo Ninh có
cái nhìn khác về chiến tranh, thông qua cái mâu thuẫn nội tâm cũng như hành
động cá thể của người lính. Tôi cho rằng, đó là cái nhìn biện chứng, khách
quan, đúng với qui luật của cuộc sống cũng như tâm lý con người, dù là cái nhìn
cá nhân. Đêm Trường Sơn, một thoáng lặng yên, trước nhất người lính phải nhớ về
mẹ, về người yêu, người thân, chứ không thể nghĩ về người nào khác, dù người đó
có là thánh nhân, (hoặc là ai đi chăng nữa).
Đọc lại đoạn
thoại này, ta thấy được diễn biến tâm lý người lính rất thật, rất đau chứ không
phải ấn vào mồm họ, những lý tưởng, từ ngữ phơi phới, đao to búa lớn:
“…Can từ từ đứng dậy, đối diện, nhìn thẳng mắt
Kiên.
- Cả đời đi
đánh nhau, thú nhật, tôi chả thấy cái trò này là có gì vinh. Nhưng do hy vọng
nên vẫn còn chịu đựng. Về quê, càng khốn nạn, tôi biết. Người ta chẳng để cho
sống đâu. Nhưng mấy đêm vừa rồi tôi toàn mê thấy mẹ tôi gọi tôi... Có nhẽ anh
tôi đã chết mà mẹ tôi thì khổ não lâm bệnh rồi chăng. Không thể nấn ná, vì suất
học sĩ quan là của anh... Tôi phải lần về quê. Chỉ mong anh em trong trung đội
thương tình, thông cảm. Sẽ chẳng ai tóm nổi tôi lại nếu như chính anh em trinh
sát không truy đuổi. Nhất là anh, Kiên ạ, anh thả cho tôi đi thì tôi sẽ đi
được... Tôi đành mang tội lỗi với anh em... Quê tôi thì anh biết rồi đấy... Hà
Nam, Bình Lục... mai sau mà có dịp…“(NBCT)
Thay cho những
buổi học chính trị sáo mòn ta thắng địch thua, người lính lao vào những cuộc
sát phạt đỏ đen hay hút xách, nhằm quên đi cái tàn khốc của chiến tranh, mỏng
manh của thân phận. Cỗ bài này, ngày mai ai sẽ là người khuyết chân?
“…Thường là cứ
chập tối cơm xong bắt đầu ngả chiếu bạc. Trong bầu không khí ẩm rượt, nồng ngạt
mùi mồ hôi và khét lẹt khói xông muỗi, các con bạc châu quanh cỗ bài, tơi bời
đỏ đen.
Tiền đặt cửa
thường là những tàu thuốc "đồng bào" hôi mù, cay cú hơn thì thuốc
lào, đá lửa hoặc sợi hồng ma một thứ tiền ma túy - hoặc là lương khô và ảnh
nữa, ảnh con gái các loại, bất kể gái tây hay gái ta, xấu hay đẹp, người yêu
hay người dưng, dùng tuốt, dốc hết ra mà sát phạt. Chẳng còn gì ăn thua nữa thì
quệt muội đèn, chơi trò bôi râu. Người đánh kẻ chầu rìa, vui vẻ, om sòm nhiều
hôm thâu đêm…
Chơi tà tà
nhé, - Kiên đề nghị - nếu dở ván thì trời để cho cả bốn thằng sống qua trận
này, để còn chơi tiếp…“ (NBCT)
Vậy là, cỗ bài
này chỉ còn lại một chân. Mình Kiên sống sót. Cái chết tuy đã được báo trước,
nhưng trước cái chết quằn quại của những người lính trẻ từ cả hai phía Bắc
–Nam, làm cho người đọc không khỏi bàng hoàng, đau xót. Và hình ảnh người lính
bắn nhầm vào con xà niêng, cạo lông làm thịt một cách rùng rợn, cho ta thấy sự
điển hình tàn nhẫn dã man của chiến tranh: “khi ngả ra, cạo sạch bộ lông thì
hóa ra: con vật hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sần lở, nửa xám,
nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược... Cả trung đội thất kinh, rú lên ù té, quẳng
tiệt nồi niêu, dao kéo...”
Phải nói, trí
tưởng tượng, sự liên tưởng phong phú và tài năng kết nối sự việc là những yếu
tố chính làm nên sự thành công của Nỗi Buồn Chiến Tranh. Chẳng có hương thơm
nào có thể rửa hết mùi tử khí trong tâm hồn người lính chiến. Một cánh quạt
trần quay cũng làm ông giật mình kinh hãi.
“…Nhiều hôm
không đâu giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi
hám pha tạp của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng
mình đang đi qua đồi "Xáo Thịt" la liệt người chết sau trận xáp lá cà
tắm máu cuối tháng Chạp 72.
Tử khí xộc lên
từ vỉa hè nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt mũi như kẻ hóa rồ trước
mắt người qua đường. Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa
thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường
tôi nín thở đợi một
trái hỏa tiễn
từ tàu rà phụt xuống. "Chéo-éo-éo ... Đoành!..."
Đọc Nỗi Buồn
Chiến Tranh, tôi mới vỡ ra một điều, cái sự tưởng tượng của trang văn nó cần
tính khái quát và cụ thể hơn so với thơ. Ở đây chỉ có một hình ảnh nhỏ “..luôn
luôn nhìn xuống như sợ giẫm phải cái bóng của mình…“ người đọc đã liên tưởng,
thấy được toàn bộ con người cũng như gia cảnh của người hàng xóm, tang thương
vật vờ một cách sâu sắc hơn. Cái quan sát tỉ mỉ, lối miêu tả đầy hình ảnh này,
chỉ nhà văn tài năng mới có được:
“…Có hôm ông
bước xuống cầu thang vào sau bữa cơm trưa, xách trên tay chiếc cặp lồng đựng
bữa tối. Ông không cao gì lắm nhưng vì quá gầy nên trông lênh khênh. Cổ lộ hầu,
vai hẹp, lưng lòng khòng, luôn nhìn xuống như sợ giẫm phải bóng của mình. Ba
người con của ông đều nằm lại trong chiến tranh. Anh con thứ là Toàn. Hy sinh
gần như trước mắt Kiên. ông Huynh không biết chuyện đó. Vợ ông bị liệt khi báo
tử đến người con cuối cùng. Vợ chồng ông sống nghèo khổ, câm nín, trống rỗng
suốt bao năm trời. ông Huynh vẫn ngày ngày đi lái tàu điện…“(NBCT)
Đôi lúc, ta
thấy dường Bảo Ninh đã cởi chiếc áo lính ra, đứng từ góc cạnh khác để nhìn vào cuộc chiến. Đã giúp ông nhìn khách
quan hơn. Và từ cái nhìn khách quan ấy, đã cho ông hiểu rõ hơn về bản chất của
cuộc chiến. Từ đó, lòng nhân đạo là mạch nối giữa ông và người đọc thông qua
trang viết:
“…Tên tuổi anh
ta tôi không biết, chỉ biết anh ta là lính của liên đoàn 6 biệt động quân;
Người Nam hay Bắc hay Trung cũng chả biết vì anh ta chỉ rên, rên thì dân xứ nào
cũng một giọng như nhau…”
Câu nói, cũng
như lời ước đầy tính nhân đạo, khi kết thúc chiến tranh: "Giá mà vào giờ
phút giải phóng, tất cả những người lính đều được phục sinh". Nhưng đó là
những người lính nào? Vâng! Chính là những người lính chung của cả hai miền
chiến tuyến. Đấy là tư tưởng Bảo Ninh trong toàn bộ tác phẩm này.
Thân phận của
người lính sau chiến tranh, nằm trong cái bế tắc chung của toàn xã hội. Với
những chính sách diệt tư sản tư nhân, cấm chợ ngăn sông, giá-lương-tiền, lạm
phát phi nước đại, có những gia đình miền núi phía Bắc phải chết đói. Sự dối
trá làm băng hoại đạo đức xã hội. Nhưng từ trên xuống dưới, các bác vẫn say sưa
trong niềm vui chiến thắng. Phấn khởi lạc quan đến mức, bác Tố Hữu Phó chủ tịch
hội đồng bộ trưởng(Phó thủ tướng) sau khi đi Pháp về, ví nếu trái đất là một
chiếc nón, thì chúng ta đang ở trên đỉnh chóp cái nón đó. Làm cho người lành
như nhà thơ Trần Đăng Khoa, cũng phải sửng sốt trước mặt bác Phó chủ tịch:
Không biết chiếc nó đó đang úp hay ngửa?
Trong cái sấp,
ngửa đó, Bảo Ninh nhận đã ra cái bi đát từ chính mình, đồng đội mình và trong
gia đình, xã hội. Sau cuộc chiến súng đạn, là chiến tranh (trong) lòng người,
còn ghê sợ hơn thế. Làm cho ông hoàn toàn thất vọng và kinh tởm những khuôn mặt
giả dối ấy:
" - Hừ! Hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng
qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại có chút xương.
Mà những người được phân công nằm lại góc rừng le là những người đáng sống
nhất…- Nền hòa bình này… Hừ tôi thấy hình như các mặt nạ người ta đeo trong
những năm trước rơi hết. Mặt thật bày ra gớm chết…“(NBCT)
Một gia đình
người hàng xóm có ba con liệt sỹ đói nghèo với cuộc sống vật vờ. Một đứa em gái
người bạn chết trận là gái làm tiền. Người yêu đã là gái bao, Kiên cũng như bao
đồng đội khác, lạc lõng, không thể hòa nhập vào cuộc sống, sau chiến tranh.
Cuộc sống của họ chìm mình vào những cơn say và nôn ọe. Hình ảnh người lính
hùng dũng lái xe chiến trường năm xưa, nay chỉ còn lái trong những lúc ám ảnh
của linh hồn.
“…Xóc mạnh ổ
gà, ổ trâu, chồm nẩy lên thì còn chịu được - Vượng kể - chứ mà những đoạn nhún
nhảy, êm êm, mềm mềm, nhũn nhũn là tớ ọe liền, nôn chóng mặt đến buông cả tay
lái. Đêm về không ngủ được. Ngủ lại gào lên như bị cắt tiết. Thế là tửu. Mà tửu
vào thì còn lái chó gì được nữa…“(NBCT)
Có lẽ đồng đội
của Bảo Ninh đều là những người ra đi từ miền quê, những nông dân chân lấm tay
bùn, nên hầu như ông sử dụng từ ngữ địa phương của nông thôn miền Bắc trong
cuốn sách, như một lời chi ân, tưởng nhớ chăng?
Vâng! Đúng như
vậy, từ đầu đến cuối cuốn sách này, hình như chúng ta không hề tìm thấy động từ
xem- nhìn- nó được thay bằng động từ nom, nông dân đồng bằng sông Hồng hay sử
dụng“…Kiên nom thấy trong quầy …vẻ mặt hắn lúc này, nom phải đặt biệt nhà quê…“
Hay cụm từ dưới đây là một minh chứng rõ ràng “Xin để mắt quan tâm…“
Tôi nghĩ, việc
sử dụng tiếng địa phương đúng với văn cảnh, hoàn cảnh, sẽ làm cho câu chuyện,
lời văn sẽ sinh động và thật hơn. Đoạn trích dưới đây, với những lời nói, từ
ngữ địa phương, miền quê ấy, làm tăng thêm cái trớ trêu của người ăn xin với
người (có thể là) đồng đội cũ, sau chiến tranh:
“…Kiên bước
qua đường. Dưới cột đèn trước cửa một hiệu ăn anh thấy một người ăn mày
đang đứng co
ro, tay giấu trong nách, rạp xuống ngẩng lên vái người qua đường và cất giọng
ống bơ rỉ kêu van một cách tự tin:
"Xin hãy
để mắt quan tâm đến tình cảnh người khác một phút đồng chí ơi! Xin hãy nhớ tới
những miền đang lụt lội, đồng chí".
- Ăn mày mà
lập trường gang thép gớm chưa? Mẹ kiếp, cái dân An Nam nhà mình chỉ giỏi chống
ngoại xâm chứ đến ăn xin cũng chẳng biết đường - một ông bệ vệ diện bành tô
quắp một ả áo lông đi từ trong quán ra, lên giọng - ê, hạ lập trường xuống, thì
cho.
Ả áo lông cười
rú lên như bị cù. Kể cũng buồn cười thật. Một lúc nào đó mình sẽ dùng đến cảnh
này, tự nhiên Kiên nghĩ thế. Có thể sẽ viết rằng thằng cha bệ vệ kia và người
ăn xin là bạn cũ của nhau. Thậm chí là đồng đội. Mà cũng có thể... Nhưng, vớ
vẩn chưa kìa…“.
Bảo Ninh đã
viết khá nhiều về trang viết về sinh hoạt văn chương của những năm sau chiến
tranh. Thời văn học nghệ thuật phuc vụ, minh họa cho đường lối lãnh đạo của
đảng. Thời kỳ văn chương không có cái tôi ở trong đó.
Đọc những
trang viết này của Bảo Ninh, làm tôi sực nhớ đến bác Đặng Quốc Bảo, họ hàng bên
mẹ tôi, nguyên bí thư trung ương đoàn. Cuối những năm 1979 đầu năm 1980, bác
thường hay đến các trường đại học để nói chuyện về văn hóa nghệ thuật, lý tưởng
thanh niên …Thời kỳ đó, trước cửa trường đại học, hay nơi sinh viên thường tụ
tập, luôn có đội cờ đỏ cầm chai, cầm kéo kiểm tra. Ống quần, không đút cái vỏ
chai vào được, gọi là ống típ, ống bó cắt xẻ ngược lên tới đầu gối. Quần ống
rộng ống loe cắt, áo bó áo chẽn cắt. Người ta cắt xé tất cả những gì cho là văn
hóa của Mỹ Ngụy, để lại. Cứ nhè lúc bác Bảo diễn về văn hóa trên bục, thì ở
vòng ngoài bọn cờ đỏ đè mấy thằng sinh viên ra thiến. Quần áo người ngợm thằng
nào cũng te tua như vừa đánh trận về.
Một lần tôi
đến nhà bác ở phố Phan Đình Phùng, con đường đẹp và yên tĩnh bậc nhất của Hà
Nội. Phải nói bên ngoại tôi, toàn những ông làm to, nhưng với con cháu, thân
mật tình cảm nhất là bác Đặng Quốc Bảo. Sau khi thăm hỏi mẹ, bà tôi, là đến là
chương trình lý tưởng thanh niên. Rồi ví dụ, những ngày đầu cách mạng, bác phải
cà răng căng tai để làm công việc dân vận ở Tây Nguyên. Và nhiều công việc đại
loại như nhà văn, người lính địa phương quân Trung Trung Đỉnh đã viết…Bài học
của bác vừa kết thúc, không hiểu sao lúc đó, tôi buột miệng hỏi: Lúc bác đang
nói về văn hóa với thanh niên, bọn cờ đỏ đè sinh viên ra cắt quần áo, một việc
làm giết văn hóa như vậy, bác có biết không?
Bác cũng bất ngờ câu hỏi của tôi. Có lẽ một câu hỏi bác không bao giờ
nghĩ đến. Cũng may, lúc đó ca sỹ Mạnh Hà đến, nhận nhiệm vụ sang Liên Xô, dự
Festivan hay gì đó. Tôi đứng dậy, xin phép bác về. Mạnh Hà bắt tay tôi, nhìn áo
chẽn quần loe của anh, tôi định nói, ông anh ăn mặc thế này, vào cổng trường
đại học, thế quái nào cũng bị chúng nó làm thịt.
Cũng đến 34
năm tôi không gặp lại bác Đặng Quốc Bảo. Nhưng gần đây được đọc những bài viết
của bác, tôi thấy tư tưởng suy nghĩ hoàn toàn khác, không giống những bài giảng
của bác trước đây. Tôi rất thích đọc những bài viết này, kể cả bài về chính
trị, dù tôi không thích chính trị và những bài viết về nó. Khi nào về Việt Nam,
nhất định tôi sẽ đến thăm bác, và xin được nghe bác giảng bài mới này. Dẫu
biết, bác đã già lắm rồi và tôi cũng không còn trẻ nữa.
Trong bối cảnh
xã hội đang cùng nhau lên đồng, cùng nhau cắt tiết văn hóa, Bảo Ninh viết trần
trụi, trắng hếu ra như vậy, cha con người lính tên Kiên phải xé tranh, đốt bản
thảo là phải. Có người cho rằng, hành động đốt bản thảo của Kiên là tiêu cực.
Nhưng tôi lại nghĩ khác. Sự đốt bản thảo của của Kiên là hành động phản kháng
tích cực, một cách tự nhiên tâm lý con người. Bởi nhà văn cũng là con người
bình thường, không nên thần thánh hóa và ấn cho anh ta cái lý tưởng phơi phới
không có thật nào đó. Nếu nhà văn Kiên
không đốt bản thảo, bọn cờ đỏ gác cổng kia, không trước thì sau chúng nó cũng
thiến mất thôi. Thôi thì, xé hết quần loe áo bó, hoa hoét màu mè, cứ mặc quần
nâu áo gụ, đến trường cho nó lành.
Đằng sau sự
đốt tranh, đốt bản thảo ấy, có hiệu quả báo động, lên án, cảnh tỉnh quá đi ấy
chứ, không thì làm sao Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phải kêu lên, hãy cởi trói
cho các văn nghệ sỹ. Không có sự đốt tranh, đốt bản thảo của cha con người lính
Kiên, thì sẽ không có cuốn sách Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh ra lò, đến
tay chúng ta và bạn bè năm châu như hôm nay. Vâng! Sự tàn khốc của kiểm duyệt
trong giai đoạn đó là thế. Vậy thì phải cảm ơn sự đốt lửa của nhà văn Kiên lắm
lắm…Tôi lại nghĩ, ngày còn sống, đọc đến đoạn văn này, Phùng Quán, Trần Dần, Lê
Đạt, Hoàng Cầm…chẳng vỗ đùi đen đét khen Bảo Ninh.
Dường như Bảo
Ninh dành những từ, những câu văn hay và đẹp nhất viết về Phương. Là người có
tính cách mạnh mẽ, có khát vọng tự do, nên lúc nào Phương cũng cảm thấy bị tù
túng bức bối, muốn phá tan đi tất cả. Là
người “vì sợ mà chẳng sợ gì nữa“, nên Phương luôn hành động được coi dị thường
trong giai đoạn đó. Bước vào đời Phương đã cú sốc nặng, con đường bước vào gái
bao là tất yếu, trong khung cảnh tối tăm như vậy. Cũng như Chí Phèo, ai cho
Phương làm người lương thiện, khi xung quanh toàn là Bá Kiến.
Khi đọc đến
đoạn, Phương chủ động hơi chồm lên, vòng tay ôm lấy cổ Kiên kéo xuống, tôi lại
nghĩ đến hành động, dám phá tan những ràng buộc của lễ giáo phong kiến của Thúy
Kiều. Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình đến với Kim Trọng, khi ông bà Vương
Viên Ngoại vắng nhà. Đó là hình ảnh đẹp. Một hình ảnh cho chúng ta thấy một
điều, quyền lực, chế độ xã hội, tiền bạc qua năm tháng rồi sẽ biến đổi, chỉ còn
lại khát vọng tình yêu là vĩnh cửu:
“Nhưng Phương
không mệt à? - Kiên thấy giọng mình như lạc đi - Không lạnh à?
- Có - Phương
đáp và hơi nhổm người lên, vòng tay ôm lấy cổ Kiên kéo xuống. Thoạt tiên, một
cảm giác nhức nhối làm Kiên gai hết người, run lên, gân cốt chùng xuống nhưng
rồi sự chấp nhận biến thành sức cuốn mãnh liệt lập tức ghì riết anh, nuốt chặt
anh vào thân hình mềm mại, thơm mát và nóng hổi, chân thành và mù quáng, đầy
cuồng bách của Phương. Đó là một cái gì không thể ngờ được, như thể tiếng sét,
và hơn cả đau đớn, như thể đột ngột cất lên một tiếng kêu tự đáy lòng. Và không
phải là cái hôn đầu tiên nhưng là nỗi da diết đầu tiên được khám phá ra bên bờ
hồ... Song, tất cả diễn ra chỉ trong khoảnh khắc. Đột nhiên một ý chí sầm tối
và cứng rắn đánh thức nhói lên nói rằng anh không được, anh không thể, rằng...
ráng hết sức bình sinh Kiên tự giằng mình ra, thả buông vòng tay đang dằn xiết
Phương, ngồi chồm dậy. Sự buông hẫng ấy làm Phương lặng đi. Mọi cảm giác choáng
loạn tản bay nhường chỗ cho sợ hãi và xấu hổ. Cô lăn tránh sang bên, gài nhanh
hàng cúc áo sơ mi che kín ngực rồi nhè nhẹ ngồi lên. Sóng hồ dập dềnh, ì oạp vỗ
vào bờ cỏ. Xa xa, từ chỗ pháo đội cao xạ chất nổi trên đám bè neo sâu trong hồ
một hồi kẻng khuya chậm rãi dõng lên. Vị thần bảo hộ cứu tinh cho sự trong
trắng và trong sạch của đôi bạn, chẳng là ai khác ngoài chính họ.
Gió thở dài.
Im lặng lan xa. Hai người như thể vừa từ đáy nước nổi bồng lên để rồi mỗi người
bị cuốn dạt ra mỗi ngả. Kiên đưa tay ra, run run nắm lấy cổ tay Phương như muốn
níu giữ cô.
- Kiên sợ phải
không? - Phương dịch lại gần - Sợ phải không? Phương cũng sợ. . . Nhưng vì sợ
mà chẳng sợ gì nữa. . .“(NBCT)
Tôi rất thích
đọc những đoạn văn tả cảnh, tả tình của Bảo Ninh vì rất khoáng đạt, từ ngữ đơn
giản nhưng vẫn toát lên sự sang trọng. Nó lung linh sương khói mờ ảo như một
bài thơ tình vậy. Đây là một trong những trang văn hay và đẹp nhất mà tôi đã
được đọc:
“…Đêm hè mát
rượi, mà trán và lưng anh ướt mồ hôi. Tràn ngập nỗi sợ hãi và lòng thương mến,
anh xiết chặt eo Phương. Anh cảm thấy yếu đuối, mờ mịt. Tình yêu. Sự tôn thờ
quy phục. Anh không sợ. Nhưng anh không thể. Anh không dám.
Phương khẽ nằm
xuống kéo Kiên ngả xuống theo. Cỏ mát rượi, hơi sương, nhưng nền đất vẫn còn
đọng hơi ấm buổi chiều. Kiên gối đầu lên tay Phương, áp chặt vào mình cô. Như
một cậu bé. Đúng là Phương không điên mà cô như là một người chị, một người mẹ
trẻ, cô lùa tay vào tóc anh vuốt nhè nhẹ và thì thầm kể chuyện về người cha của
anh. Mái tóc hồi đó Phương để rất dài, xỏa rộng phủ lên mình Kiên, ấm và thơm
lạ lùng. Hé mắt nhìn qua làn tóc, Kiên nhận thấy trăng hạ tuần đã lộ. Vừng
trăng mỏng và cong hiện ra rất nhanh ở rìa một khối mây đùn cao trên đỉnh hồ.
Rồi lập tức bị che khuất. Anh nhìn thấy ánh lửa đập dờn như lửa ma trơi trên
sân thượng. Cha và Phương. Những bức tranh màu lá úa và màu vàng như rơm. Những
linh hồn được phóng thích ra khỏi mặt vải. Giọng Phương đều đều, ngái ngủ hệt
như giọng một người mẹ kể chuyện cổ tích trong màn. Kiên không nhận thấy là
mình đã bật mở hết cúc áo của Phương cho tới khi hai bầu vú trắng phau bật ra.
Vành trăng lướt thoáng một dải sáng lên mặt hồ và bãi cỏ. Phương nằm yên, không
trở mình, có lẽ đã ngủ say. Kiên không nhận thấy là miệng mình đã ngậm chặt lấy
đầu vú của Phương còn thành thạo hơn một chú bé con. Anh mút nhè nhẹ thoạt tiên
là như thế, như thuở mới ra đời người ta bú. Nhưng rồi kế đó là một nỗi khát
khao kỳ quái thôi thúc, anh dùng cả sức mạnh của hai bàn tay, cho đến lúc cảm
nhận trong miệng cái vị ươn ướt ngòn ngọt thoáng cả nỗi đau đớn mơ hồ như thể
vị ngọt từ giấc mơ của Phương thấm truyền sang...“(NBCT)
Góp vào sự
thành công Nỗi Buồn Chiến Tranh có nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quan trọng nhất
làm nên nó là SỰ THẬT TÀN NHẪN CỦA CHIẾN TRANH. Sự thật đó đã chạm được vào nỗi
đau tận cùng của con người. Nó như một bức thông điệp sáng giá đưa văn học Việt
Nam đến gần với văn học chung thế giới. Và Nỗi Buồn Chiến Tranh- Bảo Ninh góp
phần không nhỏ cùng với những Chuyện Ba Người của Tô Hoài, Mảnh Đất lắm Người
Nhiều Ma- Nguyễn Khắc Trường, Ly Thân- Trần Mạnh Hảo…. chứng minh sức sống của
văn học hiện thực không xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên,
trong một tác phẩm văn học nào cũng vậy, ngoài những yếu tố thành công, dứt
khoát còn có mặt hạn chế, Nỗi Buồn Chiến Tranh cũng không ngoại lệ. Trong phạm
vi bài viết này, tôi chưa thể đề cập đến.
Có một điều
thú vị, khi đọc truyện ngắn của Bảo Ninh, tôi nghiệm ra, trong văn chương không
có đề tài nào lớn hoặc nhỏ. Lớn, nhỏ do tài năng người viết. Có những cái rất
nhỏ, tưởng chừng viết dăm ba câu là đủ, nhưng ông đã mở ra những điều rất lớn,
rất đáng suy nghĩ ở trong đó. Câu chữ trong truyện ngắn của Bảo Ninh thô ráp,
nhưng sau nó là cái tinh tế mượt mà. Giống như cô gái hiện đại thời nay sống
trong ngôi nhà cổ cũ kỹ vậy.
Nhất định tôi
sẽ trở lại với đề tài truyện ngắn của ông.
Leipzig ngày
6-7-2013
Đ.T
Nguồn: Tác giả gửi trực tiếp từ CHLB Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét