Lược khảo về các tên gọi Viện Hàn lâm và Viện sĩ cùng những nhầm lẫn tai hại*(Tiếp theo)
Lê Mạnh Chiến
Tuy website
chính thức của Viện hàn lâm khoa học Nga
không nhắc đến ngạch thành viên nươc ngoài, coi như nó không tồn
tại, nhưng, bài viết về Viện hàn lâm khoa học Nga trong từ điển Wikipedia tiếng Ạnh thì có nhắc đến
một chút. Điều đó chứng tỏ rằng, đối với Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên
Xô), thành viên nước ngoài (иностранный член, foreign member) chỉ là thành
viên hình thức, có ý nghĩa hết sức phù phiếm, mờ nhạt, đương nhiên không thể là viện sĩ. Chưa cần xét đến thành
tích và uy tín trong khoa học, chỉ riêng vấn đề quốc tịch đã không cho phép
người nước ngoài trở thành viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên
xô). Thành viên thông tấn (члены-корреспондент,
corresponding member) của Viện hàn lâm
khoa học Liên Xô (hoặc Nga) có tư cách
thành viên thấp hơn viện sĩ, đương nhiên, không phải là viênhj sĩ nhưng có thể
coi như “viện sĩ dự bị”.
Viện hàn lâm Pháp (Académie franÕaise)
vốn là ”ngôi đền” để tôn vinh các vĩ nhân của nước Pháp cho nên chỉ có ngạch
thành viên chính thức tức là các viện sĩ chứ không có các ngạch thấp hơn. Nhưng ở các Viện hàn lâm khác thì
thường vẫn có vài ngạch thành viên, trong đó, ngạch cao nhất là thành viên
chính thức, tiếng Pháp gọi là membre
titulaire (nhưng người ta thường viết
là membre mà không cần có chữ titulaire) mới là viện sĩ (tức là
académicien).
Hai tiếng “viện sĩ” hiện nay nghe rất
quen tai nhưng hình như cũng mới xuất hiện ở Việt Nam chừng nửa thế kỷ. Trong
quyển Hán- Việt từ điển của Đào Duy Anh không có từ này. Giở quyển Pháp – Việt
từ điển, xem chữ Académicien, thấy cụ Đào viết:
Académicien: 1. Nhà triết học về phái Platon; 2. Hội viên của Quốc gia học hội; hội viên tòa Hàn lâm
nước Pháp. Lại xem tiếp các quyển từ điển Pháp – Việt và
Việt – Pháp của Đào Văn Tập hay của
Đào Đăng Vĩ in ở Sài Gòn hồi
những năm 50 – 60 của thế kỷ trước, cũng không thể tìm thấy chữ “viện sĩ”.
Giở mấy
quyển từ điển của Trung Quốc hiện có trên giá sách của tôi như Cổ kim
Hán ngữ từ điển, Cổ kim Hán ngữ thực
dụng từ điển hay Tân hiện đại Hán ngữ
từ điển (kiêm tác Anh-Hán từ điển)
thì thấy quyển nào cũng có từ “viện sĩ”, với lời diễn giải giống nhau. Quyển Tân
hiện đại...viết: 院士 (viện sĩ):
academician; nhân viên nghiên cứu cao cấp
nhất của các bộ phận thuộc viện khoa học ở một số quốc gia. Tôi cho rằng,
định nghĩa như vậy là chính xác.
Tiếp tục tìm hiểu thêm thì biết rằng, ở
Trung Quốc lâu nay không hề sử dụng tên gọi “viện hàn lâm” để chỉ các viện khoa
học, nhưng họ vẫn có các viện sĩ. Hiện
tại, ở nước này có hai loại viện sĩ có uy vọng ngang nhau, đó là: Viện sĩ
Viện khoa học Trung Quốc (Chinese Academy of Sciences, CAS)và Viện sĩ Viện công trình Trung Quốc
(Chinese Academy of Engineering, CAE), gọi tắt là Viện sĩ Trung khoa viện và
Viện sĩ Trung công viện. Người Trung Hoa bắt đầu có
viện sĩ từ năm 1948.
2. Tên gọi “Viện sĩ” phải đi kèm với tên
của Viện hàn lâm (hay Viện nghiên cứu)
Như quý vị độc
giả đã thấy, nước Pháp có chừng một chục viện học thuật được gọi là Académie..., tức là có chừng một chục
viện hàn lâm khác nhau, không thể lẫn lộn. Do đó, không thể có một ngạch viện sĩ chung chung, mà phải
phân biệt viện sĩ của Viện hàn lâm X hay của
Viện hàm lâm Y. Ở Pháp, Académie franÕaise (mà ta gọi là Viện
hàn lâm Pháp).là Académie nổi tiếng
nhất, chỉ cần nói đến l’Académie là
người ta nghĩ ngay đến Académie
franÕaise, cũng như ở Việt Nam hay ở Liên xô trước đây, hễ nói đến đảng thì có nghĩa là nói đên đảng Cộng sản.Do đó, từ Académicien
(hoặc Membre de l’Académie) nghĩa là viện sĩ của một viện hàn lâm, nhưng khi nó được sử dụng một mình thì có nghĩa là
viện sĩ Viện hàn lâm Pháp (đúng như cụ Đào Duy Anh đã giảng), cũng như ở nước
ta, khi nói “ông A là đảng viên” thì đã
có nghĩa rằng, ông ấy là đảng viên của
đảng Cộng sản Việt Nam, ngay cả khi đảng Dân chủ và đãng Xã hội đang tồn
tại cũng vậy. Nhưng ta không thể nói bà
Hillary Clinton là đảng viên, mà phải nói rằng, bà Hillary Clinton là đảng viên
của đảng Dân chủ ở Mỹ.
Ở Trung
Quốc, cả Trung khoa viện (Viện khoa học Trung Quốc) và Trung công viện
(Viện công trình Trung Quốc) đều chưa có cái nào nổi trội hơn hẳn, cho nên
không thể nói đến viện sĩ A hay viện sĩ
B, mà phải phân biệt viện sĩ Trung
khoa viện với viện sĩ Trung công
viện.
Trong tiếng Nga, chữ aкадемик
(akademik, tương đương với académicien trong tiếng Pháp và academician
trong tiếng Anh) có nghĩa là thành viên chính thức của một Академия.
Cũng tương tự như ở Pháp, ở Liên Xô (và ở Nga hiện nay) có rất nhiều Академия, tức là rất nhiều Viện hàn
lầm, nhưng vì Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (nay là Viện hàn lâm khoa học Nga)
quá nổi tiếng và quen thuộc với mọi
người trên đất nước ấy, cho nên, chữ akademik mà không kèm theo định ngữ
nào nữa thì có nghĩa là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên
Xô, tương tự như từ “đảng viên” ở Việt Nam hiện nay có nghĩa là đảng viên đảng
Cộng sản Việt Nam. Viện sĩ của các viện hàn lâm khác thì phài ghi rõ là
akademik của viện nào, nếu nhận là akademik mà không có định ngữ kèm theo
(khiến mọi người hiểu là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Liên xô) thì điều đó
được coi là một sự gian dối.
Sở dĩ phải nhấn mạnh mấy chữ thành viên
chính thức là vì, ở Liên Xô trước đây và ở Nga ngày nay cũng như ở các nước
khác còn có các ngạch thành viên không chính thức của viện hàn lâm, không phải
là viện sĩ, như chúng tôi đã nói ở trên.
III. Những nhầm lẫn tai hại trong việc sử
dụng tên gọi “viện sĩ”
1.
Sử dụng không đúng theo thông lệ của tiếng Việt
Như chúng tôi đã nói ở trên, Viện hàn lâm
nào cũng có tên rõ ràng và viện sĩ của
các Viện ấy được phân biệt với nhau theo tên của từng Viện. Vị thế của một
người mang danh hiệu viện sĩ luôn luôn gắn liền với hình ảnh quá khứ và hiện
tại của Viện mà ông ta được bầu làm viện sĩ. Bởi vậy, khi nói đến một viện sĩ
thì phải nêu rõ là viện sĩ của viện nào, ở nước nào. Ví dụ, nhà bác học Pháp Jules Hoffmann trong những năm 1992 –
2011 là Membre de l’Académie des sciences
(viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Pháp), cũng đã quá sang trọng, nhưng từ ngày
01/3/2012, ông trở thành Membre de
l’Académie (mất các chữ des sciences,
nghĩa là các khoa học) tức là viện sĩ
Viện hàn lâm Pháp, đứng vào hàng “bất tử” của nước Pháp. Bây giờ, nếu ai đó không chịu bỏ bớt các chữ des
sciencescho ông thì có nghĩa là đã hạ thấp địa vị của ông. Ngược lại, giả sử
trước tháng 3/2012, nếu ông Jules Hoffmann để cho anh thư ký “bỏ quên” các chữ des sciences thì điều đó đồng nghĩa với sự dối trá.
Hàng ngày chúng ta thấy báo chí
và tivi nhắc đến viện sĩ Nguyễn, viện sĩ Trần, viện sĩ Phan, các viện sĩ
X, Y, Z, v.v. Cái danh hiệu viện sĩ ấy không xuất phát từ Việt Nam (vì nhà nước
Việt Nam chưa phong tặng danh hiệu viện sĩ cho các nghiên cứu viên cao cấp nhất
của một viện nào cả), mà là do họ mang
từ nước ngoài về, từ nhiều nước khác nhau. Vậy mà họ đều được gọi bằng cùng một
cái tên là viện sĩ. Như thế thật là không ổn. Thử hình dung một tình huống như
sau.. Có 5 ông là Phan A, Trần B, Nguyễn C, và X, Y, mỗi ông đi đến một nước.
Ông Nguyễn C sang Nga rồi gia nhập đảng Nước Nga thống nhất, ông
Trần B sang Nhật rồi vào đảng Dân chủ - Tự do (LDP), ông Phan A sang Pháp rồi
gia nhập đảng Cộng sản Pháp, các ông X và Y thì sang Mỹ, vào đảng Cộng hòa và
đảng Dân chủ. Nói tóm lại là ông nào cũng trở thành đảng viên của một đảng nào
đó ở mỗi nước. Khi về Việt Nam, tất cả các ông ấy có thể tự xưng là đảng viên hay không?. Tuy mỗi ông
đều là đảng viên của một đảng nào đó nhưng tiếng Việt không thể chấp nhận cách xưng hô như vậy. Các ông ấy nhất thiết
phải ghi rõ: Phan A - đảng viên đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn C – đảng viên
đảng nước Nga thống nhất, v.v.
Đối với danh hiệu viện sĩ cũng tương tự
như vậy. Nếu quả thật các GS Phan A, GS Trần B, GS Nguyễn C ,
v.v. đã trở thành viện sĩ của các Viện
nào đó ở các nước kể trên thì họ cũng phải ghi danh vị của mình giống như mẫu
kê khai đảng tịch vừa kể. Đương nhiên là hai chữ viện sĩ không thể đứng trước
họ-tên của các ông. Chỉ khi nào ở Việt Nam có một Viện hàn lâm, hoặc một Viện
nào đó rất nổi tiếng mà toàn dân đều biết như đảng Cộng sản Việt Nam vậy, rồi
nhà nước Việt Nam ra quyết nghị phong
tặng danh hiệu viện sĩ cho họ, khi dó,
các GS kia mới đĩnh đạc ghi danh của mình
là VS Phan A, Viện sĩ Trần B, VS
Nguyễn C, v.v. Cũng xin nhắc rằng, lúc ấy các ông nên vứt cái chữ GS đi, bởi vì VS sang trọng
hơn rất nhiều. Ai cũng biết rằng, những người có chức vụ cao hoặc tước vị cao,
người nào mà chẳng trải qua những chức
vụ, những tước vị thấp hơn, lẽ nào cứ phải ghi hết hoặc gần hết các chức vị
ấy.. Các vị akademik ở Nga chẳng bao giờ ghi thêm danh hiệu giáo sư cả, bởi vì
ở đó có hàng vạn giáo sư,
nhưng số akademik (viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô) lúc cao nhất
chỉ hơn 300 người.
2. Sai lệch quá lớn giữa danh vị thật và
danh vị được quảng bá.
Báo chí và đài phát thanh, truyền hinh
ở nước ta đã từng đưa tin và nhiều lần nhắc đến việc các giáo sư A, B, C nào đó
được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên xô (hoặc Nga). Cùng một ông, có
nơi ghi là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (hoặc Nga), có nơi
lại ghi là viện sĩ nước ngoài
của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (hoặc
Nga). Hiên tượng đó chứng tỏ rằng, những người đưa tin (hay cả những người được
tặng danh hiệu?) chưa hiểu quy chế về ngạch bậc đối với các thành viên của Viện
hàn lâm khoa học này. Họ tưởng rằng, thành viên của Viện hàn lâm thì ắt là viện
sĩ. Nhưng sự thực thì không phải như vậy. Chúng tôi đã nói khá kỹ về điều này ở
tiểu mục 1. của phần II trên kia.
Tra cứu trong danh sách viện sĩ Viện
hàn lâm khoa học Liên xô và Viện hàn lâm khoa học Nga, chúng ta không thể tìm
thấy tên một người Việt Nam nào cả. Thực ra, sự tra cứu ấy là một việc không cần làm, vì yêu cầu
về quốc tịch đã quy định không thể có
người nước ngoài trở thành viện sĩ của Viện hàn lâm này. Nhưng trong danh sách các thành viên nước ngoài của Viện hàn
lâm khoa học Nga (gồm cả từ thời Liên Xô) thì có tên 5 người Việt Nam Hiển nhiên, họ không phải là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Nga
(hoặc Liên Xô) như lâu nay chúng ta đã gọi nhầm, hiểu lầm. Họ là thành viên
nước ngoài của Viện hàn lâm ấy. Đối với người Nga, hình ảnh
của các thành viên này hết sức mờ nhạt, chỉ có tính chất hình thức,
ngoại giao, đến nỗi từ điển Wikipedia tiếng Nga không hề nhắc đến họ, coi như họ không
tồn tại. Lâu nay, ở nước ta, họ vẫn tự xưng hoặc được mọi người xưng tụng là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học
Liên Xô (hoặc Nga). Bất cứ nơi nào có tên của
họ, bao giờ cũng có các chữ VS
hoặc viện sĩ đứng ở phía trước, víí dụ:
VS Nguyễn C..hoặc Viện sĩ Trần B. Viết như vậy là đã phạm hai lỗi. Thứ nhất là
lỗi về tiếng Việt, vì ở nước ta., từ “viện sĩ” chưa có nghĩa cụ thể như từ
“đảng viên”, cho nên, viết như thế thì không ai biết là viện sĩ gì.. Thứ hai
là, ông Nguyễn C hay ông Trần B ấy không
phải là viện sĩ Viên hàn lâm khoa học nào cả. Để không phạm phải hai lỗi ấy thì phải viết như sau: Nguyễn Văn
X, thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học Nga.
Trong thời kỳ mà Liên Xô còn tồn tại,
hầu hết các nước XHCN ở Đông Âu cũng đều có Viện hàn lâm khoa học sao chép theo
mẫu của Liên Xô. Bởi vậy, nếu có người Việt Nam nào đó đã từng được báo chí
trong nước gọi là viện sĩ của nước này nước nọ thì cũng giống như trường hợp
ở Liên Xô vậy..
Phần thứ hai
3. Cuộc tuyên truyền rầm rộ cho một mỹ hiệu
hão huyền
Đầu
tháng 7/2011, hàng loạt báo chí nước ta rầm rộ đưa tin GS Phan Huy Lê được vinh danh là viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Bản tin
của Nhà xuất bản Tri thức (ngày 11/7/20110) có tiêu đề GS Phan Huy Lê trở thành viện sĩ Viện hàn
lâm Pháp. Trong các cuộc hội nghị và các cuộc liên hoan, ăn mừng, chúc
tụng, mọi người đều khẳng định rằng từ
nay GS Phan Huy Lê đã trở
thành viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Lúc đó, tôi thấy nét mặt ông thật hồn
nhiên đầy vẻ đắc thắng, mãn nguyện, rạng rỡ tươi cười đón nhận mỹ hiệu cao quý
ấy. Mọi người hết sức cung kính và thán
phục, cảm thấy tự hào khi đứng trước một viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ngót năm
thế kỷ vừa qua, chỉ những đại trí thức kiệt xuất nhất của nước Pháp may ra mới
được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp (Membre de l’Académie franÕaise), và họ
được gọi là những người “bất tử” (Immortels) của nước Pháp, được dân chúng nước
Pháp tôn thờ muôn đời. Thế mà từ nay, một người Việt Nam quê ở xứ Nghệ được vinh dự đứng trong hàng ngũ ấy. Thật là
một niềm hãnh diện ngút trời đến với mọi người dân đất Việt.
Người viết bài này phải nén nỗi bàng hoàng, cố
đọc kỹ các bản tin để cho rõ.sự tình.
Không tìm thấy một bản tin tiếng Pháp nào đưa tin về sự kiện này. Nhưng, báo điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam 16//07/2011 đã đưa tin như sau:
Giáo
sư Phan Huy Lê - Niềm tự hào của nền sử
học nước nhà
(ĐCSVN) - Lần đầu tiên có một người của ngành Khoa
học xã hội Việt Nam trở thành Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Vinh dự này thuộc về
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê khi ông vừa được Viện Hàn lâm Văn khắc
và Mỹ văn (thuộc Học viện Pháp quốc) bầu là Viện sĩ Thông tấn. Điều này không
những khẳng định những đóng góp to lớn, tài năng và uy tín của GS Phan Huy Lê
mà còn là niềm vinh dự lớn lao của giới sử học nước nhà, khẳng định vị thế của
khoa học lịch sử Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
Niềm tự hào của giới sử học
Đầu tháng
7-2011, tên tuổi của GS Phan Huy Lê một lần nữa trở thành niềm tự hào của học
trò, đồng nghiệp trong nước và quốc tế, bởi ông là người đầu tiên của ngành
Khoa học xã hội Việt Nam có được vinh dự trở thành Viện sĩ hàn lâm Pháp.
Điều này không những khẳng định những đóng góp to lớn, tài năng và uy tín của
GS Phan Huy Lê mà còn là sự tôn vinh nền sử học Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập. GS, Nhà giáo Nhân dân Đinh Xuân Lâm- Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam, người đồng hương, đồng môn và đồng nghiệp của GS. Phan Huy Lê khẳng
định: Đây là một tin rất vui, tin mừng vì
đây không chỉ là tôn vinh cá nhân mà là tôn vinh cả nền sử học của nước ta
trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Theo tôi, với việc GS Phan Huy Lê
được bầu vào Viện hàn lâm Pháp như
vậy tạo điều kiện cho giới khoa học- xã hội VN nói chung và giới sử học nói
riêng có điều kiện thuận lợi, có cơ hội để đặt quan hệ rộng rãi với sử học thế
giới và trên cơ sở đó chúng ta đi vào thời kỳ hội nhập và phát triển thuận lợi
hơn..
Bản tin này in đậm dòng chữ - Lần
đầu tiên có một người của ngành Khoa học xã hội Việt Nam trở thành Viện sĩ Viện
hàn lâm Pháp – một Viện hàn lâm có uy tín hàng đầu trên thế giới, tiếng Pháp
gọi là L’Académie franÕaise. Nhưng,
tiếp đó, lại viết rằng, GS Phan
Huy Lê là viện sĩ thông tấn nước ngoài
của Viện Hàn lâm văn khắc và mỹ văn (tiếng Pháp là Académie des Inscriptions et Belles-Letres mà cụ Đào Duy Anh dịch
là Viện Bi ký và Mỹ văn). Tiếp
theo, bản tin lại khẳng định rằng ông
là người đầu tiên của ngành Khoa học xã hội Việt Nam có được vinh dự trở thành Viện sĩ hàn lâm Pháp, rồi GS Đinh Xuân
Lâm cũng nhắc lại rằng, GS Phan Huy Lê
được bầu vào Viện hàn lâm Pháp. Cứ xem danh sách đầy đủ các viện sĩ Viện hàn lâm Pháp từ khi thành lập đến năm
2012 thì biết rằng, đã xẩy ra một sự nhầm lẫn nghiêm trọng và kéo dài. Dẫu tụt
xuống thành viện sĩ thông tấn của Viện Bi ký
và Mỹ văn, tôi vẫn cứ băn khoăn,
bởi vì, tôi nhớ rằng, không ở đâu có chức danh viện sĩ thông tấn nước
ngoài, mà chỉ có thành viên thông tấn
(члены-корреспонденты)
ở Nga mang quốc tịch Nga.. Để kiểm tra lại trí nhớ của mình, tôi tìm đọc bài viết về Académie des Inscriptions et Belles-Letres
trong Wikipedia tiếng Pháp. Văn bản này được chỉnh lý lần cuối cùng vào ngày
02/9/2012, trong đó không có một chữ nào nói đến membre-correspondant hoặc
correspondant của Viện này. Tôi lại tìm đọc Liste des membres de l'Académie
des inscriptions et belles-lettres de l'Institut de France.tức
là Danh sách các thành viện của Viện
Bi ký và Mỹ văn ở Pháp, nơi mà các báo đưa tin là GS Phan Huy Lê được bầu
làm viện sĩ thông tấn nước ngoài.
Theo danh sách này, từ khi thành lập
(năm 1663) đến ngày 02/9/2012, cả
thảy có 670 vị là thành viên người Pháp (viện sĩ), trong đó
có ghi rõ chức vụ, nghề nghiệp, lĩnh vực nghiên cứu, năm sinh, năm mất, năm
được bầu làm viện sĩ. Năm 2011, Viện đã bầu 3 viện sĩ là FranÕois Déroche (sinh năm 1954), Jean Guilaine (sinh năm 1936) và Véroniquee Schiltz (sinh năm 1942). Năm 2012, Viện cũng bầu 3 viện sĩ là Pierre Gros (sinh năm 1939),
Jehan Desanges (sinh năm 1929) và Jacques
Verger (sinh năm 1943).
Bên cạnh danh sách này, còn kèm theo
danh sách Associés(chúng tôi tạm
dịch là các cộng sự viên, hay thành viên cộng sự),Associés libres (cộng sự viên tự do) và Associés étrangers (cộng sự
viên nước ngoài).Tất cả các danh sách này
đều không có tên GS Phan Huy Lê.
Trong danh sách Associés étrangers, chúng tôi thấy có tên ông Norodom Sihamoni, đương kim Quốc
vương Căm-pu-chia (sinh năm 1953, được
bầu chọn từ năm 2008).
Cần nhớ rằng, từ năm 1663 đến nay, Viện
này đã 4 lân thay đổi tên và 5 lần thay đổi quy chế về thành viên, trước đây có
khi gồm vài ngạch viện sĩ và vài ngạch cộng sự viên. Hiện nay, có một ngạch
viện sĩ người Pháp và một ngạch thành
viên cộng sự, người nước ngoài.
Như vây, GS Phan Huy Lê không có tên
trong danh sách các viện sĩ và các cộng sự viên (associés) của Académie
des Inscriptions et Belles –Lettres. Vì không có ngạch thành viên thông tấn
nên không có gì bám víu để từ đó có thể
cố ý dịch sai, biến ông thành viện sĩ thông tấn. rồi nhích dần lên viện sĩ.
Để tìm cho rõ danh vị của GS Phan Huy
Lê trong Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn,
tôi phải tìm website chính thức
(Official website) của viện này tại
địa chí: http://www.aibl.fr/?lang=fr), Tìm đến trang chủ của Website này, click vào mục
MEMBRES (hoặc tìm trực tiếp tại địa chỉ: http://www.aibl.fr/membres/?lang=fr thì sẽ thấy một trang nói
rõ về các ngạch thành viên, như sau:
Membres L’Académie des Inscriptions et
Belles-Lettres se compose de cinquante-cinq
académiciens
de nationalité française et de quarante associés étrangers. Elle
comprend également cinquante correspondants français et cinquante correspondants étrangers.
L’Académie des Inscriptions et
Belles-Lettres réunit en son sein des personnalités de qualification
exceptionnelle, hautement représentatives. Les académiciens sont des savants
élus à vie par leurs pairs en raison de la qualité de leurs travaux dans les
disciplines relevant de la compétence de l’Académie (archéologie, histoire,
philologie et leurs multiples branches et spécialités), de leur puissance de
travail ainsi que de leur renommée internationaleLorsqu’un fauteuil
d’académicien est déclaré vacant par suite de décès, l’Académie décide, à la
majorité des suffrages exprimés, de l’opportunité de pourvoir à son
remplacement ; si tel est le cas, le Bureau propose une date pour
l’élection du
nouveau membre, sinon, une nouvelle délibération a lieu sur la question après
un délai de six mois. Contrairement à une règle généralement de mise dans le
monde académique, il n’y a pas d’appel à candidature à l’Académie des
Inscriptions et Belles-Lettres, chaque académicien ayant la liberté de proposer
un candidat dont il fait distribuer les titres et travaux. L’élection a lieu au
scrutin secret et à la majorité absolue des académiciens présents.
Les associés étrangers, élus selon le
même principe et souvent membres des Académies les plus prestigieuses de leur
pays, sont choisis parmi les maîtres les plus éminents à travers le monde.
Quant aux correspondants, ils assurent un rôle de relais de l’information
scientifique auprès de l’Académie et participent à sa vie et à ses travaux ;
choisis par les académiciens, ils constituent un vivier de personnalités de
premier plan parmi lesquelles l’Académie a pris l’habitude de recruter souvent
ses nouveaux membres.
(Nguồn: http://www.aibl.fr/membres/?lang=fr)
Dịch sang tiếng Việt::
Các thành viên (của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn)
Viện HL Bi ký và Mỹ văn gồm có 55 viện sĩ
(académiciens) có quốc tịch Pháp và 40 cộng sự viên nước ngoài. Nó còn bao gồm
50 thông tín viên (corresondants) người Pháp và 50 thông tín viên nước ngoài.
Viện HL Bi ký và Mỹ văn tập hợp các nhân
vật đạt trình độ nghiệp vụ ngoại hạng có
tính đại diên cao. Các viện sĩ là những nhà bác học được những người đồng đẳng
bầu suốt đời do phẩm chất của những công trình của họ trong các bộ môn thuộc
thẩm quyền của Viện (khảo cổ học, lịch
sử, ngữ văn học, cùng nhiều ngành và
nhiều chuyên khoa của chúng), do năng lực làm việc và thanh danh quốc tế của họ.
Khi một chiếc ghế bành (fauteuil) viện sĩ được tuyên bố là khuyết vì chủ nhân đã qua
đời, Viện sẽ theo đa số những ý kiến
được bày tỏ để quyết định cơ hội bổ nhiệm người thay thế; trong trường hợp đó,
Văn phòng sẽ đề nghị một ngày để bầu thành viên mới, nếu không, thì phải có một
cuộc thảo luận về vấn đề này sau thời hạn sáu tháng. Khác với quy tắc thường
được áp dụng trong giời học thuật, không có việc kêu gọi ứng cử vào Viện Bi ký
và Mỹ văn, mỗi viện sĩ được tự do đề cử một ứng cử viên, giới thiệu các chức vị
và các công trình của người ấy. Việc bầu
chọn được thực hiện bằng cách bỏ phiểu kín và theo đa số tuyệt đối của các viện
sĩ có mặt.
Các cộng sự viên nước ngoài, được bầu
theo đúng nguyên tắc như vậy, và thường là viện sĩ của các Viện có uy tín nhất
ở nước họ, được chọn trong số những bậc thầy nổi tiếng nhất trên thế giới. Còn
về các thông tín viên (correspondant), họ giữ vai trò trạm thông tin khoa
học bên cạnh Viện HL Bi ký và Mỹ
văn và tham gia sinh hoạt cùng các công
việc của Viện; họ được các viện sĩ bầu
chọn, họ hợp thành một nhóm nhân vật quen thuộc hàng đầu để từ đó,
Viện tuyển chọn các thành viên mới, theo
thói quen thường có.
(LMC dịch)
Qua đoạn văn trên đây, chúng ta biết
rằng, các cộng sự viên nước ngoài (Associés étrangers) là những nhà bác
học lớn có tầm cỡ ngang hàng với các viện sĩ người Pháp, nhưng họ không có danh
hiệu viện sĩ vì họ không mang quốc tịch Pháp. Nếu gọi họ là “viện sĩ nước
ngoài” thì chưa đúng về ngôn từ, vì
người Pháp không gọi họ như vậy, nhưng đúng về thực chất. Còn các
correspondant, phâỉ dịch chính xác là thông tín viên, hay người truyền
tin vì họ được xác định là các trạm thông tin khoa học bên cạnh Viện HL
Bi ký và Mỹ văn. So với viện sĩ, họ có cương vị thấp hơn rất nhiều, họ cũng
không được bầu suốt đời (thông tín viên Francisco Rico, người Tây Ban
Nha mà GS Phan đã thay thế, sinh năm 1942, vẫn đang sống). Họ cũng không phải
là những ứng cử viên sẵn có để chờ khi có viện sĩ qua đời thì sẽ được chọn lựa.
GS Phan Huy Lê được chọn làm người
truyền tin nước ngoài ngày 27/5/2011
cùng với 7 người khác. Trước đó một năm rưỡi, ngày 06/11/2009, Viện này
cũng đã thay 8 người truyền tin nước
ngoài và 8 người truyền tin trong nước.
Mời quý vị độc giả xem văn bản của Viện Hàn lâm Bi ký và Mỹ văn về việc chỉ định GS Phan Huy Lê làm
thông tín viên nước ngoài (correspondant étranger)
Dịch sang tiếng Việt:
PHAN HUY Lê
Hiệp sĩ Lá cọ
hàn lâm (Nghĩa là “Người được tặng huân
chương Văn hóa – Giáo dục hạng 3,
hạng thấp nhất, tặng cho giảng viên có trên 15 tuổi nghề - LMC ), Sinh tại Thạch –Châu (Việt Nam), 23 tháng hai 1934, Nhà Đông phương học, chuyên
gia về lịch sử nông thôn, lịch sử văn hóa và
lịch sử, quân sự
của Việt Nam, Chủ tịch Hội sử học Việt Nam.
Được chỉ
định làm thông tín viên nước ngoài (correspondant étranger) từ ngày 27 tháng
5 năm 2011 để thay cho Francisco Rico.
(còn nữa)
L.M.C
* Bài còn có tiêu đề khác: Cùng luận bàn về Viện Hàn lâm và danh hiệu
viện sĩ của ông Phan Huy Lê
Nguồn:
- Tạp chí Nghiên cứu và phát triển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét