Lược khảo về các tên gọi Viện Hàn lâm và Viện sĩ cùng những nhầm lẫn tai hại*
Lê Mạnh Chiến
MỤC LỤC
I Về
Viện hàn lâm
1. Hàn lâm viẹn ở Trung Hoa và ở Việt Nam
thời xưa
2. Về
các chữ Académie, Academy, Akademiya
3. Viện hàn lâm Pháp
4. Viên hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện hàn
lâm khoa học Nga
II Về tên gọi “viện sĩ”
Thế nào là
viện sĩ
Tên gọi “viện
sĩ” phải đi kèm v ới tên viện hàn lâm
III. Những
nhấm lẫn không nhỏ trong việc sử dụng tên gọi “viện sĩ”
Sử dụng không đúng theo thông lệ của tiếng Việt
Sai lệch quá
lớn giữa danh vị thật và danh vị dược quảng bá
cuộc tuyên
truuyền rầm rộ cho một mỹ hiệu hão huyền
IV. Vài lời cuối bài
Phần thứ nhất
I.
Về Viện Hàn lâm (hay Hàn lâm viện
trong Hán ngữ)
1.
Hàn lâm viện ở Trung Hoa và ở Việt Nam thời xưa
Theo từ điển Từ hải, chữ
hàn翰
(trong Hàn lâm viện翰
林
院)
vốn có nghĩa là một loai gà núi đẹp, gọi là cẩm kê, dịch sang tiếng Việt là “gà
gấm”. Về sau, chữ hàn 翰này còn có nghĩa là cái lông chim dài và cứng. Ngày
xưa, ở châu Á cũng như ở châu Âu, người ta dùng những chiếc lông chim dài và
cứng để làm bút viết, do đó, chữ hàn翰 lại có nghĩa là cái bút, và
còn có thêm vài nghĩa khác nữa. Trong từ hàn lâm翰林thì hàn 翰
nghĩa là bút, lâm 林nghĩa
là rừng; hàn lâm 翰
林có
nghĩa đen là rừng bút, nghĩa bóng là văn đàn, là chốn tinh hoa về học thuật.
Thời nhà Đường, năm Khai Nguyên thứ 26
(738), Đường Huyền Tông tuyển mộ các
triều thần “văn hay chữ tốt” để soạn thảo các chiếu chỉ, mệnh lệnh, từ đó
sinh ra chức quan Hàn lâm học sĩ
(gọi tắt là Hàn lâm) và Hàn lâm viện, mà ngày nay chúng
ta gọi là Viện hàn lâm. Thời Tống, quan Câu đương Hàn lâm viện (tức là chủ quản
Hàn lâm viện) còn kiêm quản thiên văn, thư nghệ, đồ họa, y dược và cả việc bếp
núc trà rượu của triều đình. Nhà Nguyên lập Hàn lâm học sĩ viện, về sau hợp với
Quốc sử viện, gọi là Hàn lâm kiêm quốc sử viện. Thời Minh, Hàn lâm viện chính
thức trở thành cơ quan ngoại vi của triều đình. Thời nhà Thanh, Hàn lâm viện
vẫn đảm nhiệm việc biên soạn quốc sử, ghi chép lời nói và việc làm của hoàng
đế, giảng kinh sử, thảo văn kiện có liên quan đến các quy định về lễ nghi.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí
(phần Quan chức chí) do Phan Huy Chú biên soạn thì ở Việt Nam, Hàn lâm viện được thành lập từ năm
1086, thời vua Lý Nhân tông, với Mac Hiển
Tích là vị Hàn lâm học sĩ đầu tiên. Nhà Trần đặt chức Hàn lâm phụng chỉ
để soạn thảo các chiếu chỉ thay nhà vua, thường do thái sư đảm nhiệm. Nhà Lê
khi mới dựng nước cũng lập ngay Hàn lâm viện, do Nguyễn Trãi làm Hàn lâm phụng chỉ.
Phan Thanh Giản (1796 – 1867), vị tiến
sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, lúc mới đỗ đạt đã từng giữ chức Hàn lâm viện biên tu rồi thăng lên chức Hàn lâm viện kiểm thảo, thời vua Minh
Mệnh
Nói tóm lại, dù là ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, Hàn lâm viện là nơi tập
trung những người có học vấn cao để thực hiện những công việc liên quan đến
sách vở, trứ tác.
Từ “Hàn lâm viện” trong Hán
ngữ được dịch sang tiếng Latin là
Academia (xuất hiện năm 1508 - theo từ
điển Robert), tương ứng với Academy,
Académie, Академия trong các thứ tiếng
Anh, Pháp và Nga (chữ Академия được phiên âm là Akademiya). Điều đó cũng
được thể hiện trong Từ điển Annam -Latin (Dictionarium Anamitic - Latinum) của
A.J.L. Taberd (in năm 1838).
2.Về các chữ Académie, Academy, Akademiya (trong
tiếng Pháp, Anh, và Nga, tương ứng
với Academia trong tiếng Latin, với
nghĩa là Viện học thuật )
Trong cuốn Pháp – Việt từ điển (ra đời năm
1936) của cụ Đào Duy Anh, ở mục từ Académie, chúng ta thấy
những lời dịch như sau:
1. Cái vườn mà Platon giảng triết học ở đó, gần thành
Athènes;
2. Quốc gia học hội, bác-học-viện,
hàn-lâm-viện, đại học hiệu, đai học khu.
3. Du kỹ trường, thể dục trường, như trường
kỵ mã, trường đấu kiếm;
4. Bức họa người cổi truồng, khỏa thân họa.
Sau đó, tác
giả nêu một số ví dụ:
- Académie française: Pháp quốc hàn lâm viện (nay ta gọi là Viện hàn lâm
Pháp)
- Académie des sciences: Khoa học viện
(nay nên gọi là Viện hàn lâm khoa học Pháp)
- Académie des inscriptions et belles-lettres:
Bi ký mỹ văn học viện ( =Viện Hàn lâm Bi ký và Mỹ văn)
- Académie des sciences morales et politiques: Luân lý chính trị học viện
- Académie des beaux-arts: Mỹ thuật viện
(có thể gọi là Viện hàn lâm nghệ thuật).
- Académie de médecine; Y khoa học viện
(có thể gọi là Viện hàn lâm Y học).
- Académie d’agriculture: Nông phố học viện
( có thể gọi là Viện hàn lâm nông học).
(Bên cạnh tên của các cơ quan này đều có
chữ Hán, chúng tôi xin phép bỏ bớt –
LMC)
Tất
cả các nghĩa 1, 2, 3, 4 đều được ghi
trong từ điển Petit Larousse – cuốn từ điển Pháp ngữ rất thông dụng của người
Pháp. Học giả Đào Duy Anh đã nêu đầy đủ và đã dịch đúng nghĩa.
Pháp
– Việt từ điển được biên soạn trước năm 1936, khi mà chữ quốc ngữ mới được
sử dụng rộng rãi trong vài chục năm nên còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cách
diễn đạt trong Hán ngữ. Trong 4 nghĩa trên đây thì nghĩa thứ hai là thông dụng
nhất, có thể dịch sang tiếng Việt hiện nay bằng các cụm từ: Hội học thuật quốc gia; Viện hàn-lâm; Viện
nghiên cứu; Học viện; Học hiệu, Trường
đại học ...
Chúng ta nhận thấy rằng, chỉ trong ví dụ
đầu tiên thì chữ Académie mới được soạn giả gọi
là Viện hàn lâm, còn trong các trường hợp khác thì được gọi là Viện hoặc
Học viện. Nghĩa là, chỉ riêng Académie
cao cấp nhất, có uy tín nhất, “danh giá” nhất thì cụ Đào Duy Anh mới gọi là
Viện hàn lâm, một tên gọi mang tính tôn nghiêm, trịnh trọng, còn các Académie khác ở cấp thấp hơn thì gọi
là viện, học viện. Nghĩa là, phải biết về hoạt động của từng Académie cụ thể để tìm cho nó một nghĩa tiếng Việt thích đáng. Người dịch phải có kiến thức và
có trách nhiệm cao thì mới cân nhắc như
thế.
Theo Từ điển Pháp – Việt của Viện khoa học
xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế chủ biên thì từ Académie được dịch sang tiếng Việt như sau: 1. viện hàn lâm; 2. hội (văn học nghệ thuật); 3. học viện. Académie militaire Học viện quân
sự; 4. khu giáo dục (Pháp): Académie de Nancy khu giáo dục Nancy; 5. (họa) hình nghiên
cứu khỏa thân. Như vậy là, ở đây thiếu hẳn nghĩa 1 và nghĩa 3 trong từ điển của Đào Duy Anh. Tuy nhiên, đó là
những nghĩa rất ít gặp.
Chữ Academy
trong tiếng Anh và chữ Akademiya trong tiếng Nga đều có các nghĩa 1, 2 và 3 như trong Từ điển của
cụ Đào Duy Anh, nhưng không thấy có
nghĩa thứ 4.
Ở Liên Xô trước đây và ở Liên bang Nga hiện nay, có khá nhiều trường đại học
được gọi là Akademiya, ví dụ, Военно-воздущая академия = Đại học Không quân,
Военно-медицинская академия = Đại học quân y; Академия общественных наук = Học
viện khoa học xã hội (chính là trường đảng của
Liên xô, nhưng các học viên người Việt cứ gọi là Viện hàn lâm khoa học
xã hội).
Mặc dầu các quyển từ điển Pháp –Việt và Anh – Việt đều nêu nhiều nghĩa cho các
chữ Académie,
Academy để giúp người dịch lựa chọn trong từng trường hợp khi dịch sang tiếng
Việt, nhưng trên sách báo ở Việt Nam từ nhiều chục năm nay, dường như tất cả
các chữ này (cùng các chữ tương ứng
trong các thứ tiếng khác) đều được dịch thành “viện hàn lâm”. Các sinh viên và
nghiên cứu sinh Việt Nam học tại các
trường của Liên Xô có tên trong các ví dụ vừa kể đều gọi các trường ấy là “viện
hàn lâm”, như Viện hàn lâm không quân, Viện hàn lâm quân y, Viện hàn lâm khoa
học xã hội. Gọi như thế là sai, vì Akademiya ở đây có nghĩa là trường học
Ở Anh, chữ Academy rất ít khi được dùng để đặt tên cho các viện nghiên cứu
hoặc các trường học. Thế nhưng ở Việt Nam hiện nay có một số trường mang tên
bằng tiếng Anh có chữ đó, ví dụ: Hanoi
Academy (không thấy tên bằng tiếng Việt, và tôi cũng chưa biết dó là trường
gì),Academy of Finance (Học viện Tài
chính), Ho Chi Minh National Academy of
Politics and Public Administration(Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh). Phải chăng, đó là sự bắt chước từ tiếng Nga?
Hiện nay, người Việt Nam vẫn
thường nói đến Viện hàn lâm. Nhưng, ở
Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Macao
thì các viện nghiên cứu lớn nhất hoặc các
Academy nổi tiếng trên thế
giới đều được dịch sang Hán ngữ là Viện,
Học viện, Viện nghiên cứu, Viện học thuật, Hội học thuật....chứ không bao
giờ gọi là Hàn lâm viện. Ví dụ, Académie française được gọi là
Pháp-lan-tây học thuật viện, tức là Viện học thuật Pháp; Russian Academy of Sciences mà ta gọi là Viện hàn lâm khoa học Nga, thì
người Trung quốc gọi là Nga-la-tư khoa
học viện, tức là Viện khoa học Nga
Chữ Academy (Académie,
Akademiya.....) được dịch sang tiếng Việt là Viện hàn lâm hay Viện, Học viện, Viện nghiên cứu, Viện học
thuật, Hội học thuật.... là do sự cân nhắc
của người dịch. Uy tín của mỗi Viện không phụ thuộc vào chữ Academy mà
là do những thành tựu của nó trong quá khứ và hiện tại tạo nên. Ở nước Anh, cơ
quan khoa học sang trọng nhất, danh tiếng vào bậc nhất thế giới, được thành lập
từ năm 1660, có tên là Royal
Society =Hội Hoàng gia, để cho rõ hơn một chút, ta có thể dịch là Học
hội Hoàng gia . Cái tên đầy đủ của
nó thì lại càng “bình dân” hơn nữa: The
Royal Society of London for Improving Natural Knowledge = Hội Hoàng gia
Luân Đôn nhằm cải tiến tri thức tự nhiên. Trong khi đó, British Academy, tưởng
như là cơ quan học thuật cao nhất lại là
một viện về khoa học xã hội và nhân văn, được thành lập năm 1902, ít danh tiếng
hơn rất nhiều. Hiện nay ở nước ta hầu như chữ Academy (Académie, Akademiya.....) được đồng nhất hóa với Viện hàn
lâm và mặc nhiên trở nên hết sức khả kính, rất ít khi người ta để ý đến thực chất của nó trong từng
trường hợp cụ thể.
3.
Viện hàn lâm Pháp
Tầng
lớp thanh niên trí thức Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20 luôn luôn giàu lòng
yêu nước và có hoài bão chống thực dân Pháp để giành độc lập cho nước nhà.
Nhưng họ luôn luôn trân trọng, thậm chí, say mê những giá trị cao đẹp của nền
văn hóa Pháp, với nhiều danh nhân có tên tuổi lẫy lừng, cống hiến rất nhiều cho
nền văn minh của nhân loại. Tôi được biết và tin điều đó từ khi còn rất nhỏ do
nghe lỏm các cuộc trò chuyện giữa cụ thân sinh và các bạn học của ông – những
người đã tốt nghiệp Cao đẳng Đông Dương(École des Hautes Études Indochinoises),
đồng môn và cùng lứa với các liệt sĩ cách mang Nguyễn Thái Học và Phó Đức
Chính.
Ở
Pháp có một tổ chức học thuật có tên là Institut
de France (Hiệp hội học thuật Pháp), được thành lập năm 1795, gồm 5 Viện (Académie) trong số 7 viện mà học giả Đào Duy Anh đã nhắc đến ở mục từ
Académie trong quyển Pháp – Việt từ điển của ông. Đó là:
Académie
française = Viện
Hàn lâm Pháp, thành lập năm 1635
Académie des sciences = Viện Khoa học (tự nhiên) Pháp, thành
lập năm 1666
Académie des inscriptions et belles-lettre = Viện Bi ký và Mỹ văn,
thành lập năm1663
Académie
des sciences morales et politiques = Viện Luân lý và Chính trị,
thành lập năm 1785
Académie
des beaux-arts = Viện Mỹ thuật, thành lập năm 1815.
Trong số 5 viện này, Académie française – Viện hàn lâm Pháp (ở Trung Quốc người ta gọi
là Viện học thuật Pháp) được
thành lập sớm nhất, quan trọng và “danh giá“ hơn hẳn các viện khác.
Do Hồng y Giáo chủ Richelieu thành lập năm 1635 dưới thời
vua Louis XIII, Viện hàn lâm Pháp được giao nhiệm vụ trước tiên là tiêu chuẩn hóa
và hoàn thiện ngôn ngữ Pháp, xây dựng những quy tắc ngữ pháp làm cho tiếng Pháp
càng thêm trong sáng và dễ hiểu. Trên tinh thần đó, Viện này bắt đầu biên soạn
một bộ từ điển có tên là Dictionnaire de l’Académie française
(Từ điển của Viện hàn lâm Pháp) xuất bản lần đầu tiên vào năm 1694, sau đó,
không ngừng được bổ sung và cải tiến. Lần xuất bản thứ 8 diễn ra trong những
năm 1933 - 1935. Hiện nay, lần xuất bản thứ 9 đã in được 3 tập, còn thiếu tập 4. Hàng năm, Viện tổ chức nhiều cuộc hội thảo giới thiệu các tác phẩm,
xét duyệt và trao tặng các giải thưởng
cho các công trình khoa học có giá trị lớn.
Viện Hàn lâm Pháp gồm 40 “ghế bành”
(fauteuil), tập hợp những nhân vật nổi tiếng trong đời sống văn học (thơ ca,
tiểu thuyết, kịch nghệ, phê bình), các nhà triết học, các nhà sử học cùng các
nhà khoa học tự nhiên. Ngoài ra, nò còn
thu hút các tướng lĩnh, các chính khách, các chức sắc tôn giáo nổi tiếng. Phải
là tác giả của những tác phẩm lớn để lại
cho đời sau thì mới được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp và được “giữ ghế” suốt đời (trừ
khi có hành vi bất chính). Họ được gọi là những người bất tử (immortels) của
nước Pháp, và đương nhiên, đều là công
dân Pháp. Mỗi khi có một viện sĩ (académicien) qua đời thì Viện sẽ bầu một viện
sĩ mới để thay vào chỗ trống. Nhà tư tưởng vĩ đại Montesquieu, các đại văn hào
Voltaire, Victor Hugo,Alexandre Dumas (con), các nhà toán học Joseph Fourier và
Jean le Rond d'Alembert, nhà bác học Louis Pasteur, v.v. là những tên tuổi sáng
ngời đã được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp.
Năm 1855, người ta đã đặt thêm chiếc “ghế bành thứ 41” (tượng trưng) dành cho
những con người đúng là “bất tử” nhưng
suốt đời không bao giờ có dịp bước vào cửa của Viện hàm lâm Pháp. Trong
số đó, cần phải kể đến những tên tuổi quen thuộc với độc giả Việt Nam như Descartes, Molière, Pascal, Rousseau, Diderot, Balzac, Dumas (cha), Stendhal, Maupassant, Baudelaire, Zola, Daudet, Proust, v.v.
Trong lịch sử của Viện Hàn lâm Pháp, đã
có những viện sĩ bị phế truất vì có hành vi
bất chính.
Viện sĩ Hàn lâm Pháp được bầu gần đây
nhất là ông Jules Alphonse Nicolas
Hoffmann (viết gọn là Jules Hoffmann), một nhà sinh vật học gốc Luxembourg,
được trao tặng giải thưởng Nobel về Sinh lý học và Y học năm 2011 cùng với Bruce
Alan Butler (Mỹ) và Ralph Marvin
Steinman (Canada). Ông sinh năm 1941, là viện sĩ của Viện HL khoa học Pháp
(Académie des sciences) từ năm 1992,
chủ tịch của Viện này trong những năm
2007 – 2008, trở thành Viện sĩ thứ
726 (trên thực tế là thứ 722 vì có 4 viện sĩ đã bị phế truất, trong đó
có Henri Philippe Pétain, vốn là anh
hùng dân tộc của Pháp trong Đại chiến I nhưng phạm tội phản quốc trong Đại
chiến II) của Viện Hàn lâm Pháp từ ngày 01/3/2012.
Trong những năm cuối thế kỷ 20, có một Viện sĩ Hàn lâm Pháp khá quen
thuộc với khán giả truyền hình ViệtNam. Đó là ông Jacques-Yves Cousteau (1910 – 1997), nhà thám hiểm hải dương học
huyền thoại, cũng là người sáng chế những bộ áo lặn và thiết bị lặn hiện đại
đắc dụng nhất, đồng thời là tác giả của
nhiều bộ phim và nhiều quyển sách kỳ thú về thế giới sinh vật dưới đáy biển.
Ông được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm
Pháp ngày 24/11/1988.
Viện Hàn lâm Pháp không phải là một cơ quan nghiên cứu khoa học,
mà là “ngôi đền” tôn vinh các nhà khoa
học, các nhà văn hóa đã đạt những thành tựu to lớn có ảnh hưởng lâu dài ở trong
và ngoài nước Pháp. Đây cũng là tổ chức
có uy tín nhất có tác dụng khuyến khích,
biểu dương kịp thời những công trình khoa học, văn học và những tài năng mới
xuất hiện, bằng những hoạt động như hội thảo, giới thiệu, xuất bản các tác
phẩm. Việc hoàn thiện văn phạm và từ điển tiếng Pháp được coi là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng và thường xuyên. Đó là một điều khiến chúng ta rất đáng suy nghĩ.
Ở Pháp, ngoài 7 cơ quan có tên là Académie...
mà học giả Đào Duy Anh đã nhắc đến, còn có một số cơ quan nữa cũng được gọi là Académie. Nếu tất cả các Académie ở Pháp không phải là trường học (mà là các viện) đều được gọi là
Viện hàn lâm thì nước Pháp có chừng một chục Viện hàn lâm, trong số đó, Viện hàn lâm Pháp, tứcAcadémie
française là lâu đời nhất, danh giá
nhất, được ngưỡng mộ nhất, ai cũng biết. Mọi người chỉ cần gọi nó là l’Académie
(nghĩa là Viện hàn lâm, không cần có chữfrançaise
nghĩa là của nước Pháp), giống như ở Việt Namngười ta nói đại hội Đảng có nghĩa là đại hội của Đảng cộng sản Việt
Nam. Nhưng khi nói đến
một Viện hàn lâm khác thì nhất thiết phải gọi đầy đủ tên của nó.
4. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện hàn
lâm khoa học Nga
Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô tồn tại
từ năm 1925 đến năm 1991, là cơ quan nghiên cứu khoa học cao nhất của Liên Xô, trực thuộc
Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, có tên theo tiếng
Nga là Академия наук СССР, tên tiếng Anh là USSR Academy of
Sciences. Tiền thân của nó là Viện hàn lâm khoa học Nga, do Pyotr Đại đế thành lập năm 1724 tại Saint
Petersburg theo khuôn mẫu của Tây Âu (gần giống như Académie des sciences của Pháp ở Paris) nhưng phụ thuộc nhà nước
nhiều hơn. Trong thời gian 1917 – 1925, có 69 viện sĩ. Sau khi
chuyển thành Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, nó được tổ chức lại theo mô hình
mới hoàn toàn và có quy mô càng ngày càng to lớn. Năm 1934, chuyển trú sở từ
Petrograd về Moskva. Lúc này, có 80 viện chuyên ngành, với khoảng 2000 nghiên
cứu viên. Đến năm 1940, các con số đó đã tăng gấp đôi. Năm 1936 có 98 viện sĩ (akademik). Năm 1985, có 330 cơ
quan khoa học, với 57 ngàn cán bộ nghiên cứu, một nửa trong số đó là tiến sĩ và phó tiến sĩ (mà ở
Việt Nam đã được nâng bậc thành tiến sĩ).
Năm 1989 có 323 viện sĩ, 586 thành viên thông tấn, 138 thành viên nước
ngoài.
Viện hàn lâm khoa học Liên Xô là viện
lớn nhất và “danh giá” nhất ở Liên Xô,
bên cạnh nó còn có một số Viện hàn lâm chuyên ngành về kiến trúc, y học, nông
nghiệp, sư phạm, nghệ thuật, v.v. Ngoài
ra mỗi nước cộng hòa xô viết đều có một
Viện hàn lâm khoa học, khiến tổng số các Viện hàn lâm ở Liên xô lên đến nhiều
chục. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
cũng thành lập các viện hàn lâm khoa học theo mô hình của Liên Xô.
Ngày 21/11/1991, Tổng thống Liên bang Nga ký sắc lệnh tái lập Viện hàn lâm khoa học Nga với tư cách
là cơ quan thừa kế hoàn toàn của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.. Cơ cấu tổ chức
từ thời Liên Xô vẫn được giữ nguyên. Hiện nay, Viện hàn lâm khoa học Nga có 3
chi nhánh (ở Siberia, ở Ural và ở Viễn đông.) và 15 trung tâm ở các vùng. Đến cuối năm 2011,
Viện hàn lâm khoa học Nga có 531 viện sĩ (akademik) và 769 thành viên thông
tấn.
Trong những năm 50 – 60 của thế kỷ trước, những người
thuộc thế hệ cha mẹ chúng tôi vẫn chưa già lắm, chỉ mới trên dưới 60 tuổi. Họ
cùng với những thanh niên học sinh thuộc lớp con cái của mình được nghe rất nhiều điều kỳ diệu về một nền khoa học đang
phát triển rực rỡ ở Liên bang Xô-viết mà
trụ cột của nó là Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Những thành tựu khoa học vĩ đại có
thật của nó, như việc chế tạo vũ khí nguyên tử, phóng vệ tinh nhân tạo và con tàu vũ trụ đã khiến cả thế giới phải khâm
phục.
Mặt khác, đã xẩy ra rất nhiều sự việc
tệ hại liên quan đến Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Điển hình nhất là sự tác
oai tác quái của Trofim Denisovich
Lysenko (1898 – 1976), kẻ khởi xướng một khuynh hướng khoa học giả
hiệu trong sinh vật học và khống chế
khoa học nông nghiệp ở Liên Xô từ khoảng năm 1935 đến 1960. Ông ta đã dùng
quyền lực chính trị để giết hại nhiều nhà bác học có ý kiến khác mình, bắt bớ
và giam cầm khiến họ bị chết trong tù, ví dụ như Nikolai Ivanovich
Vavilov (1887 – 1943), nhà di truyền học xuất sắc nhất của Liên Xô đã bị
bắt giam năm 1940 và chết trong nhà tù ở Saratov ngày 26/01/1943 vì thiếu dinh
dưỡng.
(Theo website poeples.ru bằng tiếng Nga chuyên giới
thiệu tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, tại
trang
http://www.peoples.ru/science/botany/vavilov/index.html ghi tiểu sử của N.I. Vavilov thì nhà
bác học này bị tuyên án tử hình ngày 09/7/1941 cùng với nhiều người khác nhưng
đến ngày hành quyết là 28/7/1941 thì một
mình ông đươc hoãn lại, và đến ngày 23/6/1942, được giảm mức án xuống 20 năm
tù, nhưng chỉ nửa năm sau đó thì ông qua đời.Sergei Pavlovich Korolev (.1907 – 1966), tác giả của tên lửa vũ trụ
Xô-viết cũng phải ở tù từ ngày
22/6/1938 đến ngày 27/6/1944).
Tuy
nhiên,những sự thật đen tối như vậy đã được giữ kín,chỉ những người thân của
các nạn nhân mới biết nên hầu như không ảnh hưởng đến uy tín của Viện Hàn lâm
khoa học Liên Xô.trong lòng nhân dân Việt Nam.
II. Về tên gọi “Viện sĩ”
1.
Thế nào là Viện sĩ ?
Câu hỏi này tưởng như là do một kẻ dốt đặc nêu ra, nhưng không hẳn
như thế.
Theo Từ
điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì, viện sĩ là thành viên viện
hàn lâm (thường là viện hàn lâm khoa học).
Định nghĩa như vậy, xem qua thì thấy
không có gì sai, nhưng nghĩ kỹ thì thấy còn chưa ổn.
Trong một Viện hàn lâm thì các Viện sĩ
phải là những người quyết định các vấn đề khoa học thuộc chương trình hành
động của Viện. Đành rằng, trong Viện hàn lâm cũng có ông chủ tịch và các
ông trưởng ban nọ, trưởng bộ phận kia, nhưng đó chỉ là những chức vụ về tổ chức chứ không có ý nghĩa quyết định
trong các vấn đề khoa học.Trong khoa học, ông chủ tịch Viện hàn lâm cũng là một
Viện sĩ, lá phiếu của ông ta không thể có “trọng lượng” hơn lá phiếu của các
Viện sĩ khác. Những người chỉ được tham dự
một số công việc của Viện hàn lâm
thì không thể gọi là Viện sĩ. Các viện nghiên cứu của nước ngoài mà tiếng Việt
hiện nay gọi là Viện hàn lâm đều mang các chữ Academy, Académie, và Akademiya
trong tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga. Các thành viên trụ cột của các viện nghiên cứu ấy ở Anh, Pháp và Nga được gọi là Acadenician,
Académicien, Akademik mới đích xác là viện sĩ.
Ở một số Viện hàn lâm của các nước châu Âu, nhiều khi còn có các thành
viên ở ngạch thấp hơn, không có tư cách của
viện sĩ.
Sau đây, tôi xin viện dẫn mục Члены
РАН trong bài Росси́йская акаде́мия нау́к
(Viện hàn lâm khoa học Nga) tại từ
điển Wikipedia tiếng Nga (mà mọi người sử dụng Internet đều rất dễ tìm thấy) để
diễn giải về các ngạch thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga.. Đó cũng là quy định của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô
trước kia.
Члены РАН (Nguồn
Членами
Российской академии наук являютсядействительные члены РАН (академики) и члены-корреспондентыРАН.
Главная обязанность членов Российской академии наук состоит в том, чтобы
обогащать науку новыми достижениями. Члены РАН избираются общим собранием академии.
Членами Российской академии наук избираются учёные, являющиеся гражданами
Российской Федерации. Члены Российской академии наук избираются пожизненно. Действительными
членами РАН
избираются учёные, обогатившие науку трудами первостепенного научного значения. Членами-корреспондентами
РАН избираются
учёные, обогатившие науку выдающимися научными трудами.
По состоянию
на 23 декабря 2011 года среди членов РАН были 531 академик и 769
членов-корреспондентов.
(Последнее
изменение этой страницы: 15:35, 22 сентября 2012)
Xin đổi chữ РАН (Росси́йская акаде́мия нау́к)
nghĩa là Viện hàn lâm KH Nga thành chữ
RAS (Russian Academy of Siences) và chuyển đoạn văn trên đây sang tiếng
Việt, như sau:
Các thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga
Các thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga (RAS) gồm có các thành viên
chính thức (các viện sĩ - akademiki) và các thành viên thông tấn. Trách nhiệm
chủ yếu của các thành viên RAS là phải đóng góp cho khoa học bằng những thành
tựu mới. Hội nghị toàn thể của Viện hàn lâm bầu ra các thành viên của Viện. Các nhà bác học được bầu làm thành
viên RAS phải là công dân của Liên bang Nga. Các thành viên RAS được bầu
suốt đời. Các nhà bác học đã hoàn thành những công trình có ý nghĩa khoa học hàng đầu để cống hiến cho
khoa học thì được bầu làm thành viên
chính thức (trở thành viện sĩ). Các nhà bác học đã góp những công trình khoa
học xuất sắc cống hiến cho khoa
học thì được bầu làm thành viên thông tấn.
Theo
tình trạng đến ngày 23/12/2011, trong số các thành viên của RAS đã có 531 viện
sĩ và 679 thành viên thông tấn (LMC
dịch)
(Sự thay
đổi gần đây nhất của trang này là vào hồi 15h23’ ngày 22.0.2002)
Như vậy, theo từ điển Wikipedia tiếng Nga
thì Viện hàn lâm khoa học Nga có
hai ngạch thành viên. Thứ nhất là thành
viên chính thức (действительные
член, nếu dịch thật sát nghĩa thì gọi là thành viên thực nhiệm), là akademik,
là viện sĩ. Thứ hai là thành viên
thông tấn (член-корреспондент), có tư cách thành viên thấp hơn, chưa phải
là thành viên chính thức, chưa phải là viện sĩ. Bởi vậy, nếu gọi họ là viện
sĩ thông tấn. thì sai, chữ “viện sĩ” (akademịk) phải dành cho thành viên
chính thức.
Còn một ngạch thành viên nữa nhưng không
được nhắc đến trong văn bản tiếng Nga này,
đó là thành viên nước ngoài hay thành viên ngoại tịch, tiếng Nga là иностранный член, mà ở nước ta đã có 5
người được nhận danh hiệu này, người ta vẫn gọi họ là Viện sĩ Viện hàn lâm khoa
học Nga (hoặc Liên Xô). Gọi như vậy là không đúng. Phải chăng, đây là ngạch
thành viên thứ yếu, có tính chất hình thức, lễ nghi, không quan trọng cho nên từ điển Wikipedia tiếng Nga đã
bỏ qua? Quả thật, khó mà có cách giải thích khác hơn. Tuy thế, nó vẫn được nhắc
đến trong văn bản tiếng Anh tương ứng
trên Wikipedia (dành cho đông đảo độc giả trên thế giới), như sau:
Membership
There are three types of membership in the RAS: full members (academicians),
corresponding members and foreign members. Academicians and corresponding
members must be citizens of the Russian Federation when elected.
However, some academicians and corresponding members had been elected before
the collapse of the USSR and are now citizens of other countries. Members of
RAS are elected based on their scientific contributions - election to
membership is considered very prestigious. As of 2005-2007 there are just under
500 full members in the academy and a similar number of corresponding members.
(Nguồn:
mục Membership trong bài Russian Academy of Sciences,
Wikipedia tiếng Anh)
Dịch
sang tiếng Việt:
Tư cách thành viên (của Viện hàn lâm khoa học Nga)
Có ba ngạch tư cách thành viên trong Viện
hàn lâm khoa học Nga: thành viên có tư cách đầy đủ, tức là thành viên chính
thức, là viện sĩ (academician), thành
viên thông tấn (corresponding member) và thành viên nước ngoài (foreign
member). Các viện sĩ và các thành viên thông tấn phải là công dân của Liên bang Nga khi được bầu. Tuy vậy, một số
viện sĩ và thành viên thông tấn đã được bầu trước khi Liên Xô sụp đổ, hiện
nay là công dân mới của các nước khác.
Các thành viên của RAS được bầu dựa trên những cống hiến khoa học của họ, người
được bầu làm thành viên được coi là rất
có danh giá. Trong những năm 2005 – 2007, ở Viện hàn lâm khoa học Nga có gần 500 thành viên chính thức và khoảng
ngần ấy thành viên thông tấn (LMC
dịch).
(Còn nữa)
L.M.C
* Bài còn có tiêu đề khác: Cùng luận bàn về Viện Hàn lâm và danh hiệu
viện sĩ của ông Phan Huy Lê
Nguồn:
- Tạp chí Nghiên cứu và phát triển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét