Mạc
Ngôn - giải Nobel văn chương 2012
Đoàn Tử Huyến
Tác giả tiêu biểu của nền văn học Trung Quốc
đương đại. (17/02/1955 – ) Nhà văn, dịch giả Trung Quốc
Mạc Ngôn được
coi là một trong những tiểu thuyết gia lớn nhất của văn học Trung Quốc và được Hiệp
hội Nhà văn Châu Á bình chọn là một trong những nhà văn có triển vọng nhất
trong thế kỉ XXI. Sáng tác của ông là sự kết hợp giữa những thủ pháp của chủ
nghĩa Hiện đại và bút pháp truyền thống, giữa cái huyền ảo và cái hiện thực,
làm thay đổi diện mạo nền văn học đương đại Trung Hoa.
Mạc Ngôn (莫言 Mò Yán, nghĩa là “Kiệm lời”) tên thật là Quản Mạc Nghiệp (管谟业) xuất thân từ
một gia đình nông dân tại huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông. Năm 12 tuổi, gặp Cách
mạng Văn hóa (1966 – 1976), ông phải bỏ dở tiểu học và tham gia lao động nhiều
năm ở nông thôn, đi chăn dê, luôn bị đói khát và cô đơn. Thời gian này, ông tự
học và đọc sách rất nhiều, say mê tiểu thuyết Thép đã tôi thế đấy của Nikolai
Ostrovski (1) (Nga), Rừng thẳm tuyết dày của Khúc Ba, Bài ca thanh xuân của
Dương Mạt, tiếp nhận các tác phẩm văn học Khai Sáng (thế kỉ XVIII) của Phương
Tây…. Năm 1976, Quản Mạc Nghiệp nhập ngũ, nhờ tự bồi dưỡng trở thành giáo viên
trong quân đội; năm 1984, ông trúng tuyển vào khoa Văn thuộc Học viện Nghệ
thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986, rồi chuyển sang hoạt động trên
lĩnh vực báo chí và viết văn chuyên nghiệp; từ năm 1988 – 1991 làm nghiên cứu
sinh sáng tác thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn, trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh.
Tuổi thơ chịu đựng đói nghèo, trải qua những lo lắng tủi nhục về miếng cơm manh
áo trong thời kì kinh tế bần cùng, chính trị bất ổn khiến nhà văn tương lai có
cái nhìn về cuộc đời và con người một cách chân thực và sâu sắc, ảnh hưởng rõ
nét đến tính cách và sáng tác của ông.
Năm 1981: Bắt đầu sáng tác
Năm 1981, Quản
Mạc Nghiệp bắt đầu công bố các tác phẩm đầu tay, trong đó có Sông khô (枯河 – Khô hà),
Thu thủy (秋水),
Âm nhạc dân gian (民间音乐 - Dân gian âm
lạc); tiếp đó ông viết Sửu binh (丑兵 - Sửu binh, 1982), Vì con (为了孩子 - Vị liễu hài tử, 1982), Đường lớn
nhặt bông (售棉大路
- Thu miên đại lộ, 1983), Gió thổi trên đảo (岛上的风 - Đảo thượng chi phong, 1984), Sông ở
trong mưa (雨中的河-
Vũ trung đích hà, 1984)… mô tả cảnh vật nông thôn cổ xưa qua lăng kính của tuổi
thơ. Nhưng phải đến truyện dài Củ cải đỏ trong suốt (透明的红萝卜- Thâu minh đích hồng la bốc, 1985),
được đăng tải trên tạp chí Trung Quốc tác gia và in thành sách ở nhà xuất bản
Tác gia xuất bản xã ông mới gây được sự chú ý trên văn đàn. Từ đây bắt đầu xuất
hiện bút danh Mạc Ngôn do ông tách chữ Mạc 谟 trong tên ông có nghĩa là “cơ mưu” thành
hai chữ 莫
Mạc (không có) và 言
Ngôn (lời nói), ngụ ý là không nên nói nhiều, như lời cha mẹ dặn.
Năm 1986: Cao
lương đỏ
Năm 1986, Mạc
Ngôn cho ra mắt tiểu thuyết Cao lương đỏ (红高粱) gây xôn xao dư luận, được độc giả bình
chọn là “Tác phẩm tôi yêu thích nhất năm 1986”. Đây là hồi ức của người xưng
''tôi'' kể về chuyện đời oai hùng và chuyện tình kì lạ của ông bà nội mình - Từ
Chiếm Ngao và Đái Phượng Liên – trong bối cảnh của miền quê Cao Mật ở miền Nam
Trung Hoa vào những năm 1920 - 1930. Cô gái xinh đẹp Phượng Liên vừa tròn mười
sáu tuổi bị cha mẹ tham giàu gả cho con tài chủ họ Đơn bị bệnh hủi. Đoàn đưa
dâu trên đường về nhà chồng gặp bọn cướp chặn đường, anh phu kiệu Từ Chiếm
Ngao(2), vốn nguyên là thổ phỉ, đã dũng cảm chống trả; từ đó cô có cảm tình với
anh. Hai đêm tân hôn với chồng, nhờ có con dao nhọn giấu sẵn trong người, cô
vẫn giữ được mình trinh nguyên. Ba hôm sau, Từ Chiếm Ngao chặn đường bắt cóc
Phượng Liên khi cô về thăm bố mẹ, và nghe tiếng gọi của tình yêu cuồng nhiệt,
hai người ân ái giữa cánh đồng cao lương. Khi quân Nhật xâm lược kéo đến tàn
phá quê hương, Từ Chiếm Ngao tập hợp nghĩa quân chống giặc, trở thành một Tư
lệnh anh hùng của quân du kích. Phương Liên cũng trở thành du kích cùng chiến
đấu bên cạnh Từ Chiếm Ngao, và một lần bà đã đón nhận cái chết thật nhẹ nhàng,
thanh thản… Các nhân vật trong Cao lương đỏ đầy khí phách, sống ngang tàng và
lạc quan như những ngọn cao lương vút thẳng tắp lên trên bầu trời Cao Mật - một
nét điển hình sẽ lặp lại trong nhiều tác phẩm của Mạc Ngôn. Với họ, cao lương
là cuộc sống, là khí trời, là tình yêu, là tất cả. Cao lương là nơi họ trở
thành kẻ cướp, thổ phỉ, cũng là nơi họ trở thành anh hùng cứu quốc, là không
gian để họ yêu, họ chết… Cao lương đỏ là tác phẩm thuộc dòng văn học "phản
tư" của Trung Quốc, nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, nhìn lại cha ông
và nhìn lại chính mình và là cuốn sách mở đầu cho bộ tác phẩm Gia tộc Cao lương
đỏ (红高粱家族 -
Hồng cao lương gia tộc) gồm Cao lương đỏ, Rượu cao lương, Nhà quàn cao lương,
Cẩu đao, Da chó. Tác phẩm được giải
thưởng văn học Mao Thuẫn năm 1985 - 1986, giải thưởng văn học quốc tế của
Italia năm 2005. Bộ phim cùng tên do Trương Nghệ Mưu chuyển thể từ tác phẩm này
đã đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1994.
Từ năm 1987:
Giai đoạn sáng tác sung sức
Năm 1987,
truyện dài Hoan lạc (欢乐)
của Mạc Ngôn đăng tải trên tạp chí Nhân dân văn học, kể về một thanh niên rời
quê nhà ra thành phố, nơi diễn ra những niềm hoan lạc điên cuồng của thời mở
cửa và cả những suy ngẫm của thân phận con người. Tác phẩm nhận được nhiều bình
luận từ phía người đọc và nhà phê bình. Mùa thu cùng năm, tiểu thuyết Châu chấu
đỏ (红蝗 -
Hồng hoàng), một câu chuyện kì lạ và táo bạo về tính dục thể hiện một phong
cách viết dữ dội và tinh thần mãnh liệt của ngòi bút tác giả. Châu chấu đỏ cùng
với Cao lương đỏ, Củ cải đỏ trong suốt tạo thành bộ ba tác phẩm Mạc Ngôn tam
hồng làm nên “hiện tượng Mạc Ngôn”. Năm 1989, tiểu thuyết (tạm dịch) Hình chó
trắng trời thu (白狗秋千架
- Bạch cẩu thu thiên giá) của ông được giải thưởng của báo Đài Loan. Mùa xuân
năm 1991, ông sáng tác truyện vừa Hoa bông trắng (白棉花 - Bạch miên hoa) là thiên sử
thi về cây bông và số phận những con người gắn bó với cây bông trên vùng đất
quê hương nhà văn. Gặp lại chiến hữu (战友重逢 - Chiến hữu trùng phùng)(3) là tiểu
thuyết viết về số phận những người lính trong cuộc chiến tranh nơi biên giới
Trung - Việt. Năm 1893 là thời điểm ra đời một trong những tác phẩm được đánh
giá cao của Mạc Ngôn là Tửu quốc (酒国).
Năm 1995:
Phong nhũ phì đồn
Tiểu thuyết Phong
nhũ phì đồn (丰乳肥臀)(4)
ra đời vào tháng 9 năm 1995 và ngay trong năm ấy được trao giải thưởng cao nhất
về truyện, nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học ở Trung Quốc. Tác phẩm
khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa
từ đầu thế kỉ XX tới những nãm mở cửa cuối thế kỉ thông qua số phận các thế hệ
một gia đình. Lỗ Toàn Nhi là một cô gái nhà quê, 16 tuổi lấy chồng là Thượng
Quan Thọ Hỉ; mẹ chồng khát cháu trai nối dõi tông đường nhưng vì chồng bất lực
nên Lỗ Toàn Nhi lấy giống đàn ông thiên hạ sinh ra một đàn tám gái, một trai,
với đủ mọi thành phần xã hội, đủ mọi giống người. “Phong nhũ phì đồn” là chỉ sự
sinh sôi ấy; hình ảnh Lỗ thị là biểu tượng người phụ nữ Trung Quốc trong một xã
hội vừa nhiễu nhương vừa coi rẻ nữ giới. Chỉ riêng với sự “phong phì” ấy Lỗ thị
đã xứng đáng là một bà mẹ vĩ đại. Còn đám con, được sinh ra trong lúc đất nước
đang cơn biến thiên, chia rẽ, họ mỗi người chọn một con đường, một cách sống,
một cách chết, đồng lòng hoặc thù ghét nhau theo sự chọn lựa chính kiến trên
đường đời khổ ải, nhưng họ có một điểm tựa chung là người mẹ Lỗ thị. Phong nhũ
phì đồn ngợi ca thiên chức, ngợi ca cái đẹp của người phụ nữ. Hình ảnh những
bầu vú hiện ra khi đứa con trai Kim Ðồng nằm canh mộ mẹ ngước nhìn lên trời gợi
nên suy ngẫm “Báu vật trên trời là mặt trời mặt trăng và những vì sao. Báu vật
của đời là vú to mông nẩy” – có thể nói, cả lịch sử đất nước được nhà văn tóm
gọn trong bốn chữ ấy - phong nhũ phì đồn! Trong tác phẩm này, Mạc Ngôn sử dụng
thủ pháp nghệ thuật hòa quyện giữa hiện thực và hư ảo với chằng chịt những mối
quan hệ giữa các nhân vật. Trong các năm giao thời giữa hai thế kỉ, nhà văn
xuất bản thêm nhiều tiểu thuyết như Trâu (牛 – Ngưu, 1998), Cuộc thi chạy dài ba mươi
năm (三十年前的一场长跑比赛 - Tam thập
niên tiền đích nhất trường trường bào bỉ tái, 1998), Khóa ngón tay cái (拇指铐 - Mẫu chỉ khảo,
1999), Chú Bảy của chúng tôi (我们的七叔
- Ngã môn đích thất thúc), Con trai kẻ thù (儿子的敌人 - Nhi tử đích địch nhân, 1999)...
Năm 2001: Đàn
hương hình
Mạc Ngôn bắt
đầu viết tiểu thuyết Đàn hương hình (檀香刑, hình phạt bằng cọc gỗ đàn hương) vào
năm 1996, xuất bản năm 2001, năm 2003 giành được giải văn học Mao Thuẫn với
100% phiếu bầu. Toàn bộ tác phẩm gồm ba phần, 18 chương, và mỗi chương đều dùng
phương thức nhân vật tự thuật, cấu tứ bắt nguồn từ hí kịch Miêu Xoang, một loại
nhạc dân gian rất thịnh hành ở vùng Đông Bắc Cao Mật. Cuốn tiểu thuyết kể về
những sự kiện lịch sử xảy ra trên mảnh đất Cao Mật dưới thời nhà Thanh, từ sự
xâm lược của các thế lực đế quốc bên ngoài đến sự phản động của quan lại triều
đình, tất cả tập trung vào trường hợp oan gia khốc liệt giữa người đàn bà Tôn
Mi Nương, một phụ nữ đẹp nổi tiếng, tràn đầy sức sống, và bốn người đàn ông:
Tôn Bính - cha đẻ của Mi Nương, trạng nguyên của nghệ thuật hát Miêu Xoang;
Triệu Giáp - bố chồng của Mi Nương, trạng nguyên của nghề đao phủ (số đầu người
lão đã chặt còn nhiều hơn số dưa hấu trong vùng mỗi năm); Tiểu Giáp - chồng Mi
Nương, một anh thợ giết mổ chó đang tập sự để nối nghiệp đao phủ của cha; và
Tiền Đình - người tình của Mi Nương, tên quan huyện có tài nhưng bạc nhược.
Thông qua thảm kịch trớ trêu và oan nghiệt (cha đẻ của Mi Nương trở thành phạm
nhân cuối cùng dưới “nghệ thuật giết người” điêu luyện của bố chồng nàng), nhà
văn lên án sự tàn bạo, độc ác của các triều đại phong kiến đã gây nên biết bao
sự đau thương, thảm khốc cho mỗi con người và gia đình. Qua Đàn hương hình,
người đọc biết được cả lịch sử của các hình thức tra tấn tử hình ở Trung Quốc.
Những năm đầu
thế kỉ XXI
Bước sang thế
kỉ mới, Mạc Ngôn tiếp tục tạo được dư luận trong giới phê bình văn chương.
Trong cuốn tiểu thuyết Bốn mươi mốt phát đạn pháo (四十一炮 - Tứ thập nhất pháo, 2003),
bằng góc nhìn của một đứa trẻ, nhà văn thuật lại những thay đổi của nông thôn
Trung Quốc trong thập kỉ cuối của thế kỉ XX, vừa có ý nghĩa hiện thực vừa phản
ánh ảo tưởng của trẻ thơ. Tác phẩm được đánh giá nhiều sáng tạo về ngôn ngữ và
mang đậm tính thời đại. Năm 2006, ông xuất bản Sống thác đọa đày (生死疲劳 - Sinh tử
bì lao) kể về lịch sử nông thôn Trung Quốc trong suốt 50 năm cuối thế kỉ XX,
đặc biệt xoay quanh đề tài quan hệ giữa nông dân với đất đai. Người kể chuyện
trong tiểu thuyết chính là Tây Môn Náo - một địa chủ của làng Tây Môn - bị bắn
chết trong đợt cải cách ruộng đất và liên tục trải qua sáu kiếp luân hồi: Tây
Môn Lừa, Tây Môn Trâu, Tây Môn Lợn, Tây Môn Chó và Tây Môn Khỉ. Trong thân xác
loài vật, linh hồn của Tây Môn Náo đối thoại với trần gian, với những phận
người buồn bã trong bối cảnh xã hội trải dài từ thuở cải cách ruộng đất qua
cách mạng văn hóa đến năm đầu thế kỉ mới, tất cả đều lăn lóc trong sự tranh
chấp giữa tình yêu và quyền lực, danh lợi và lương tâm. Tiểu thuyết Ếch (蛙) của ông được
xuất bản vào những ngày cuối năm 2009 với cốt truyện xoay quanh cuộc đời và
công việc của nữ bác sĩ chuyên đỡ đẻ ở khắp nông thôn Cao Mật phải chuyển sang
nghề thắt ống dẫn tinh cho nam giới và nạo phá thai. Ở tác phẩm này Mạc Ngôn
lại có sự đổi mới phong cách viết và nhanh chóng thu hút đông đảo độc giả Trung
Quốc.
Nhiều tác phẩm
của ông đã được dịch sang tiếng Việt và được đón nhận nồng nhiệt.
* Một số bản
dịch tiếng Việt:
- Cao lương
đỏ, Lê Huy Tiêu dịch, tái bản nhiều lần.
- Báu vật của
đời, Trần Đình hiến dịch, tái bản nhiều lần.
- Đàn hương
hình, Trần Đình Hiếu dịch, tái bản nhiều lần.
- Rừng xanh lá
đỏ, Trần Đình Hiến dịch, NXB Văn Học, 2003.
- Truyện, Lê
Bầu dịch, NXB Văn Học, 2004.
- Bốn mươi mốt
chuyện tầm phào, Trần Đình Hiến dịch, NXB Văn Học, 2004.
- Tửu quốc,
Trần Đình Hiến dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2004
- Tạp văn Mạc
Ngôn, Võ Toán dịch, NXB Văn Học, 2005.
- Chuyện của
cậu bé hay nói khoác, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Lao động, 2005.
- Chuyện văn
và đời, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Lao động, 2005.
- Tổ tiên có
màng chân, Thanh Huệ, Bùi Việt Dương dịch, NXB Văn Học, 2006.
- Sống đọa
thác đày, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Phụ Nữ, 2007.
- Thập tam bộ,
Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2007.
- Tứ thập nhất
pháo, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2007.
- Con đường
nước mắt, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.
- Ma chiến
hữu, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.
- Bạch miên
hoa, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học, 2008.
- Hoan
lạc, Trần Trung Hỷ dịch, NXB Văn Học,
2008.
Chú thích:
(1) Nicolai Ostrovski (Николай Островский):
Nhà văn nổi tiếng Liên Xô, được xem là biểu tượng của niềm tin và nghị lực vươn
lên trong cuộc sống của nhiều thế hệ thanh niên trên thế giới, tác giả của tiểu
thuyết Thép đã tôi thế đấy được thanh
niên Việt Nam thời chống Mĩ say mê.
(2) Tên nhân vật này có dịch giả phiên là Dư
Chiêm Ngao.
(3) Cuốn sách Chiến hữu trùng phùng được dịch
sang tiếng Việt là Ma chiến hữu (Nhà xuất bản Văn Học, 2008) với cách làm bìa
và quảng cáo cẩu thả, lệch lạc đã gây phản ứng gay gắt trong dư luận bạn đọc.
(4) Phong nhũ phì đồn nghĩa là Vú to mông nẩy,
khi dịch sang tiếng Việt do yêu cầu của cơ quan quản lí văn hóa dịch giả phải
đổi thành Báu vật của đời.
(Trích từ tập
sách 108 nhà văn thế kỉ XX-XXI, Đoàn Tử Huyến biên soạn, nxb Lao Động – TT VHNN
Đông Tây, 2012)
Nguồn: Trần Nhương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét