NGUYÊN KHÍ
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
13. VUA LÊ THÁI TÔNG
Đã biết cửa quyền
nhiều hiểm hóc
Cho hay đường lợi cực
quanh co.
(Ngôn chí -19 – Quốc âm thi
tập - Nguyễn Trãi )
Mùa Thu, tháng bẩy, ngày 27,
vua Lê Thái Tông đi tổng duyệt binh mã và kinh lý miền Đông.
Loan giá nhà vua khởi từ
điện Phụng Thiên ra bến Đông. Xe kiệu các quan lục tục đi theo. Dân hai bên
đường đèn nhang hương án chầu chực từ mờ
sáng để được thấy mặt rồng. Thiên hạ đồn
vua Lê Thái Tông từ khi sinh hoàng tử Lê
Tư Thành đã trở thành đấng quân vương văn võ toàn tài, bước vào tuổi 20 với bốn
lần thân chinh tiễu phạt, chưa bao giờ rạng rỡ oai phong như hôm nay. Bộ long
bào màu hoàng nguyên, cân đai nạm ngọc
lưu ly, mũ xung thiên, dận hài kỳ lân,
càng khiến nhà vua ngời ngợi anh tú. Các quan văn võ phẩm phục đại lễ, quan văn
đội mũ ô sa, quan võ mũ đâu mâu, tua lông đuôi trĩ, ngợp giữa kim qua, phủ,
việt, lọng, phướn, tinh kỳ, mao tiết, chương phiến…Từ ngày quan Đô giám Lương
Đăng thay điển nhạc, nghi trượng, phẩm phục triều đình, đây là lần đầu tiên dân
thành Thăng Long được chào đón một cảnh tượng ngoạn mục đến thế.
Người ta trầm trồ, xúyt xoa,
thán phục. Nhưng cũng có kẻ rỉ tai nhau: “Quan Đô giám Lương Đăng đang muốn
biến vua quan nước Nam
thành một tiểu triều đình Minh thuộc”.
Đoàn thuyền ngự gồm ba lâu
thuyền, hai mươi mốt chiến thuyền, cờ súy rợp trời, cơ nào đội ấy sắp hàng tề
chỉnh, xuất phát từ bến Đông, ngược sông Nhị Hà, vào sông Thiên Đức rồi xuôi về
cửa Lục Đầu.
Tiền quân là chiếc lâu
thuyền trên mũi đặt ba khẩu hỏa hổ,do Nhập nội thiếu úy Tổng quản tiền dực
thánh quân, Tham tri chính sự Lê Thụ chỉ
huy.
Đại lâu thuyền trung quân,
nơi vua ngự, có quan Hành quân Tổng quản tri xa kỵ vệ chư quân sự quản lĩnh
Thiết đột hậu dực thánh quân thái giám
ngự tiền lục quân tri ngự tiền võ sĩ ngự tiền trung quân, Thiếu úy Trịnh Khả
phò giá. Trong suốt đợt tuần du này, nhiệm vụ của Thiếu úy Trịnh Khả là không
lúc nào được rời đức vua.
Lệ thường, những chuyến tuần
du của nhà vua, chủ yếu do các võ quan tháp tùng. Riêng chuyến đi này, vua Lê Thái Tông cho theo một đám
đông văn thần, chỉ vì có cuộc viếng thăm
Ức Trai tiên sinh ở Côn Sơn. Hàng văn thần đại quan có Thừa chỉ Viện Hàn
lâm Lý Tử Tấn, Trung Thư lệnh Nguyễn
Mộng Tuân, Thị ngự sử Thị độc Viện hàn
lâm Nguyễn Thiên Tích, Nhập nội Hành khiển Trình Thuấn Du, An phủ sứ Hoan Châu Phan Phu Tiên, Trung thừa Ngự sử
đài Phan Thiên Tước, Thái bảo Bùi Quốc Hưng, Thị ngự sử Triệu Thái, Thẩm hình viện sự kiêm Lễ bộ Thượng thư Đào Công Soạn, Đồng tri môn hạ
tả ty sự Bùi Ư Đài…Đông hơn cả là đám Tiến sĩ khai khoa đầu triều vừa được tấn
phong cách đây bốn tháng, gồm Nguyễn Như Đổ, Lương Nhữ Hộc, Trần Văn Huy, Hoàng
Sằn Phu, Vũ Lãm, Phạm Cư, Trần Bá Linh, Ngô Sỹ Liên, Nguyễn Duy Tắc, Bùi Hựu,
Phạm Như Trung…danh sách tới ba mươi người. Họ là những người trẻ tuổi, kiến
văn mới mẻ, phong thái hồn nhiên, không hủ lậu và công thần, có thể làm rường
cột cho xã tắc mai sau. Đáng tiếc, cuộc đi này vắng người đỗ đầu khoa thi là
Trạng nguyên Nguyễn Trực, vì phải về quê chịu tang cha là Giám thụ Quốc Tử giám
Nguyễn Thời Trung vùa bị bệnh mất.
Lại nói về các vị Tiến sĩ
khai khoa triều Hậu Lê. Họ là những người đầu tiên được vua Lê Thái Tông lệnh
cho khắc tên vào bia đá Văn Miếu - Quốc Tử giám để ghi danh cho muôn đời .
Người có bài văn sách hay nhất luận về hiền tài, về phép trị nước của đấng quân
vương, xứng đáng được xếp đầu bảng Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhất danh,
là Trạng nguyên Nguyễn Trực. Cùng với Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ và
Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh, Thám hoa Lương Nhữ Hộc, họ hầu như
suýt soát cùng tuổi với nhà vua trẻ, cùng lớp thế hệ sinh ra từ cuộc kháng
chiến mười năm gian khổ, được hưởng thụ nền học vấn thời bình, họ không có tư
tưởng công thần mà chỉ có chí hướng dựng xây một nền thịnh trị thái bình. Đọc
văn sách của họ,biết được hoài bão, ước mơ, lý tưởng của họ, vua Lê Thái Tông
mừng lắm. Vậy là nhà vua đã có một lớp quần thần, đồng tuế, đồng chí, đồng tâm.
Họ khác hẳn lớp quyền thần cổ hủ, hãnh tiến, tham lam, mưu đồ như bọn Lê Sát,
Lê Ngân, Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bản, Trịnh Hoành Bá, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức
Dư… suốt mười năm qua áp chế, bày đặt, tiếm quyền. Chính vì thế, ngày lễ vinh
danh,nhà vua đã thân hành ban mũ áo Trạng nguyên cho Nguyễn Trực, lại ban sắc
“Quốc Tử Giám thi thư”, hàm Á liệt khanh, cho dự yến tiệc ở vườn Quỳnh, cho
cưỡi ngựa trắng đi dạo quanh kinh thành. Biệt đãi như thế, chứng tỏ đức vua
trọng kẻ hiền tài đến mức nào, chứng tỏ cho bá quan văn võ và thần dân biết từ
nay Lê Thái Tông đã là một đấng quân vương đủ nhân nghĩa trí tín để nối nghiệp
lớn của đức Tiên đế.
Chưa bao giờ kẻ sĩ nức lòng
như bây giờ. Khi được biết chuyến đi này nhà vua có nhã ý ghé thăm Côn Sơn để đón quan Thừa chỉ
Hành khiển Nguyễn Trãi về triều, thì đám
Tiến sĩ càng háo hức gấp bội. Với họ đó
là đặc ân trời biển, là dịp may ngàn năm có một. Bởi Ức Trai tiên sinh trong
mắt họ như sao Bắc đẩu, như bậc thánh
nhân không kém gì đức Khổng Phu tử của Trung nguyên.
Tiến sĩ đứng đầu bảng Đệ tam
giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Ngô Sỹ Liên, người có tuổi đời cao nhất, xấp xỉ tứ
tuần, lại từng làm thư lại trong quân doanh từ thời nghĩa quân Lam Sơn, nói với
bọn đồng liêu:
- Chúng ta phải cảm tạ ơn trời
đã được sinh ra dưới thời Nghiêu Thuấn mới. Các đệ có biết Hoàng thượng cho chúng ta tháp tùng
Người xuống Côn Sơn để làm gì không?
Bảng nhãn Khiêm Trai Nguyễn
Như Đổ, người có tuổi đời trẻ nhất, kém
cả vua Lê Thái Tông một tuổi, vội vòng tay thưa:
- Tại hạ nghĩ, chúng ta sẽ
được dự một buổi bình thơ và đàm đạo văn chương. Nghe nói từ ngày về Côn Sơn,
Ức Trai tiên sinh trước tác nhiều thơ hay, không kém gì Đỗ Phủ, Lý Bạch…
Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ
xuất thân Phạm Như Trung nói:
- Quê tại hạ và hai hiền đệ
Lê Hiền, Nguyễn Nguyên Chẩn đều ở Thanh Lâm, Nam
Sách, gần Chí Linh, nên thỉnh thoảng bọn tại hạ
vẫn được đến nghe bình văn và hầu
chuyện Ức Trai. Chuyến phò giá này Hoàng
thượng muốn chúng ta tận mắt được thấy cuộc sống thanh đạm và sức làm việc của
một bậc đại trí…
Ngô Sỹ Liên nhìn khắp lượt
các bậc đàn em, tủm tỉm cười, nét mặt đầy bí hiểm:
- Vậy là các đệ vẫn chỉ mới
hiểu được một phần, mới biết cái vỏ
ngoài mà chưa hiểu cái cốt lõi, mới chỉ biết con chim hồng hộc bay cao mà không
hiểu nó bay được là nhờ đâu.Các đệ có
nhớ lời Hưng Đạo Đại vương nói với nô tướng Yết Kiêu thế nào không? Người bảo
rằng: “Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ
vào sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường thôi”. Ức
Trai tiên sinh càng không phải là một người thường. Người đâu có chịu sống ẩn
dật thanh nhàn, suốt ngày vui thú với chim muông cây cảnh. Sống ở Côn Sơn mà
Người luôn “Bui một tấc lòng ưu ái cũ. Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”,
Người vẫn “Còn có một lòng âu việc nước. Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung”. Ngô
Sỹ Liên tôi có cơ may là đã từng được hầu Tiên đế, được làm việc dưới trướng
quan Nhập nội Hành khiển nhiều năm, nên phần nào hiểu được cốt cách của Người.
Còn nhớ ngày Vạn Thọ thánh tiết, đức vua mở yến tiệc tại vườn thượng uyển, Ức
Trai đưa phu nhân đến chúc mừng và có ý xin nhà vua về trí sỹ ở Côn Sơn. Các đệ
biết nhà vua nói với Ức Trai tiên sinh
thế nào không? Người bảo:“ Quan Thừa chỉ hãy về Côn Sơn một mình. Đây là nơi
yên tĩnh để Ức Trai có thời gian hoàn tất lại bộ Quốc luật mà Tiên đế ta đã ký
thác. Ái khanh vẫn làm quan mà không cần ở triều.”Vậy là Ức Trai tiên sinh đâu
có về Côn Sơn để dưỡng già, mà Người lánh triều đình để hoàn thành tiếp phần
hai của “Bình Ngô sách”, đảm đương một trọng trách mà bọn kẻ sĩ chúng ta đây
không thể làm nổi. Bộ “Quôc triều Hình luật”giờ đã hoàn thành. Theo ngu ý của
tại hạ, chuyến này nhà vua đưa chúng ta đến nghênh rước bộ đại bách khoa thư
phục vụ cho cuộc chấn hưng Đại Việt…
Tiến sĩ Ngô Sỹ Liên làm bọn
kẻ sĩ tân khoa muôn vàn phấn khích.
Thám hoa Lương Nhữ Hộc, tự
Tường Phủ, hiệu Hồng Châu, người phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương, ghé tai Bãng nhãn
Nguyễn Như Đổ mà rằng:
- Tại hạ sẽ xin nhận phần
khắc in bộ sách quí này. Đây sẽ là công
trình bất hủ truyền lại muôn đời.(1)
***
Bấy giờ thành Chí Linh vừa
mới tu bổ và mở rộng xong.
Số là từ hồi Ngô Vương đóng
cọc trên sông, dụ con vua Nam Hán là Lưu Hoằng Tháo vào cửa Bạch Đằng rồi giết
đi, tiếp đến thời Lê Hoàn lại dùng kế đó đánh quân Tống, dải đất miền Đông trở
thành cửa ngõ xung yếu, các triều Lý,
Trần luôn coi là yết hầu của Đại Việt trước họa xâm lăng phương Bắc. Thời các
vua nhà Lý, đã lập các thủy trại từ Lục
Đầu Giang ra tới Vân Đồn. Đến thời nhà
Trần lại đặt các trạm tiền tiêu từ của Đại Than đến Kiếp Bạc, từ Lục Đầu
đến của An Bang. Nhờ thế, phòng tuyến miền Đông trở thành tử địa của giặc
Nguyên Mông, với các trận đánh lẫy lừng trên sông Bạch Đằng của Hưng Đạo đại
vương Trần Quốc Tuấn, trên cửa bể Vân Đồn của
Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư…
Hai mươi năm dưới ách giặc
Minh, thương cảng Vân Đồn trở thành bình
địa. Vùng gốm sứ Chu Trang tan hoang. Các lăng tẩm của tám đời vua Trần ở An Sinh, các chùa tháp nổi tiếng vùng Yên Tử,
nơi phát khởi dòng Trúc Lâm tam tổ, nơi đặt xá lỵ của Phật hoàng Trần Nhân Tông… bị đào bới
khai quật. Thành Chí Linh bị san bằng…
Khi đức Lê Thái Tổ đại định
thiên hạ, An Bang được tách riêng thành đạo.
“Dư địa chí” của Nguyễn Trãi viết: “Yên Bang là nơi hiểm ác, gọi là viễn châu”.
Công việc tu tạo lại thành
Chí Linh bắt đầu từ trước khi vua Lê Thái Tổ băng. Khu vực thành cũ bên tả sông
Lục Đầu, gọi là Cổ Thành, được xây dựng
lại. Đến thời vua Lê Nguyên Long, thành
Chí Linh được mở rộng sang vùng đất xưa là thủy trại của phó tướng Trần Khánh
Dư thời nhà Trần, bốn bề bao bọc bởi sông Kinh Thầy và sông Thái Bình.
Trần Khánh Dư, quê Chí Linh,
là con của Nhân Huệ hầu Trần Phó Duyệt,
thượng tướng triều Trần. Khánh Dư tuổi trẻ trí cao, văn võ toàn tài, có công
lao trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Thát lần thứ nhất (1258), nên vua
Trần Thánh Tông yêu mến, nhận là Thiên tử nghĩa nam, được phong tước Nhân Huệ
Vương. Nhưng rồi Trần Khánh Dư mắc tội thông dâm với công chúa Thiên Thụy, vợ
của Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con dâu Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.Theo
luật triều đình, tội này phải đánh một trăm roi cho tới chết. Vì quá yêu người
tình, công chúa Thiên Thụy đến khóc lóc van nài vua cha tha mạng sống cho chàng. Vua Thánh Tông xuôi
lòng, vả lại vua cũng quá yêu và mến tài chàng Phiêu kỵ tướng quân hào hoa.
Nhưng phép nước bất vị thân. Vẫn phải đánh trăm roi. Nhà vua bèn nghĩ kế, ngầm
xui bọn quân gia khi đánh thì chúc đầu roi xuống để không chết. Thế là Trần Khánh Dư được toàn
tính mạng, nhưng bị phế truất binh
quyền, tịch thu gia sản, bị đuổi về quê
Chí Linh làm nghề bán than.
Năm Nhâm ngọ (1282), mùa
đông, giặc Mông Thát lại nhăm nhe xâm phạm bờ cõi. Vua Trần họp vương hầu và
trăm quan ở Bình Than bàn kế sách đánh giặc. Bấy giờ vua bỗng trông thấy một
thuyền chở than đi qua, người lái thuyền
đội nón lá, mặc áo ngắn, giống như Nhân
Huệ vương. Vua cho người gọi vào, đúng là Trần Khánh Dư, bèn tha hết tội, lại ban cho áo ngự, cho ngồi hàng
dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn việc nước. Không ngờ Trần Khánh Dư
có kế sách hay, vua khen, cho phục chức, cử làm Phó tướng giữ cửa An Bang và
trấn Vân Đồn.
Năm Đinh Hợi,(1287), tháng
12, mùa đông, giặc Nguyên Mông lại hùng hổ chia ba ngả thủy bộ xâm lược nước ta. Bấy giờ Nhân Huệ vương đang
trấn cửa Vân Đồn. Do thế giặc quá mạnh, không cản được, để cho tướng giặc Ô Mã
Nhi lọt qua sông Mang, tràn vào cửa An Bang. Vua Trần cả giận, sai trung sứ đến
bắt Trần Khánh Dư về trị tội. Khánh Dư nói với trung sứ xin khất ba ngày
để mưu lập công rồi về chịu tội sau. Quả
nhiên, khi biết đại quân lương do Trương Văn Hổ chỉ huy còn chưa tới, Khánh Dư
bèn lập mưu đưa toàn bộ thuyền vận tải của giặc vào vòng vây, rồi đánh một trận
quỷ khốc thần sầu, thu được quân lương khí giới nhiều không kể xiết. Vì chiến
công này, vua Trần tha tội cho Khánh Dư, lại thưởng công lớn sau ngày toàn
thắng.
Nơi thủy trại ở cuối Lục Đầu
giang trở thành đại bản doanh của Nhân
Huệ vương Trần Khánh Dư. Cái tên Nhân Huệ sau thành tên trang ấp, truyền mãi
đến đời sau(2). Từ đây tới Kiếp Bạc, nơi có đại bản doanh và thang
ấp của Hưng Đạo Đại vương, không xa. Vì thế những năm ở Kiếp Bạc, khi Quốc Công
Tiết Chế viết “Vạn Kiếp tông bí truyền
thư” để truyền cho tướng lĩnh, binh sĩ những kế sách, mẹo luật, kỹ thuật chiến
đấu chống ngoại xâm, thì người hằng ngày được tham góp, rồi nhuận sắc và viết
lời đề tựa cho tập sách lại chính là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư.
Mở đầu lời tựa viết rằng:
“Người giỏi cầm quân thì
không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi
đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết…”(3)
Xem thế đủ biết kiến văn và
binh pháp của Nhân Huệ vương tầm cỡ thế nào.
“Vạn Kiếp tông bí truyền
thư” trở thành báu vật đặc biệt của nước Nam, bị giặc Minh truy tìm gắt gao
để mang về Kim Lăng. Ai có sách ấy mà không nộp đều bị tội chém. Đến ngay cả Ức
Trai, sau khi đưa cha lên ải Nam Quan, trở về, muốn có một cuốn trong tay để
viết “Bình Ngô sách” cũng không có được.
Trong ba trước tác bất hủ
của Trần Hưng Đạo: “Dụ chư tỳ tướng hịch văn”( Hịch tướng sỹ); “Binh gia diệu
lý yếu lược”(Binh thư yếu lược);“ Vạn Kiếp tông bí truyền thư”( Sách bí truyền
của tông phái Vạn Kiếp), thì đến nay, cuốn thứ ba đã hoàn toàn thất lạc.
Nhưng trời không nỡ phụ nước
Nam
ta. Đến khi quan Thiếu úy Trịnh khả về
nhận chức Tổng quản vệ Nam Sách hạ, thì bỗng có một ngư phủ tìm gặp dâng sách quí. Hỏi ra mới biết đó
là hậu duệ của Yết Kiêu, gia tướng của Hưng Đạo Đại vương. Trịnh Khả lập tức
mang“Vạn Kiếp tông bí truyền thư” tìm gặp Ức Trai tiên sinh, chỉ để bàn về
những uyên thâm, bí ẩn của tiền nhân. Thế rồi khi được phong chức Hành quân Tổng quản, Thiếu bảo Tham tri chính
sự quản lĩnh quân thiết đột, Trịnh Khả liền làm tờ biểu khởi tấu với nhà vua cho tổng duyệt binh
mã ở thành Chí Linh. Để chuẩn bị cho
cuộc diễn tập hùng tráng này, từ hai năm trước, Trịnh Khả đã cùng phó tướng Trịnh Khắc Phục và các tiểu
tướng con ông là Trịnh Bá Quát, Trịnh Công Lộ, Trịnh Công Đán… và Đô úy Trịnh Bá Nhai, con trai Tư khấu Trịnh
Khắc Phục, đã dựa vào những sáng chế về binh khí mới của Hồ Nguyên Trừng thời
nhà Hồ, để cho chế tạo các loại súng hỏa
hổ, hỏa tiễn lắp trên chiến thuyền và dùng đánh trên bộ, lại dựa vào binh pháp
của Hưng Đạo đại vương trong “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” dựng các thế trận
đồ thủy chiến và thủy bộ kỵ tượng liên
hợp, tạo dựng một tầm vóc mới, một hào khí thời đại Lam Sơn cho hùng binh Đại
Việt.
***
Mùa Thu, tháng bẩy, ngày 29,
vua Lê Thái Tông tổng duyệt đại quân ở thành Chí Linh.
Chưa bao giờ nhà vua được
trải qua những ngày kỳ vĩ như thế.
Cuộc tổng diễn tập với sự
tham gia của bộ binh, kỵ binh, tượng
binh và thủy binh của các đạo, các vệ,
cùng quân long tiệp, quân thánh dực…là
một cuộc đại biểu dương khí thế ba quân. Sáu nghìn quân bản bộ bốn đạo,
sáu vệ; hơn năm trăm chiến thuyền của các đạo Hải Bắc, Hải Đông, Hải Tây đậu san sát trên sông Lục Đầu.
Hai mươi tư thớt voi của quân tiền vệ thiết đột. Bốn thớt voi và đội tượng binh
của vua Ai Lao gửi tặng. Số là, bọn phản nghịch người Man họ Cầm và tên Nghiễm
ở châu Phục Lễ, châu Thuận Mỗi làm loạn, lại được vua Ai Lao cho đại tướng là
Đạo Mông mang quân sang giúp chúng. Ba lần vua Thái Tông thân chinh mang quân
đi đánh dẹp. Lần cuối cùng mới tiêu diệt được bọn Cầm, Nghiễm và bắt sống Đạo
Mông ở Động La. Vua Ai Lao hối hận, sai tể tướng mang lễ vật xin tha cho Đạo
Mông, lại xin tặng bốn thớt voi và đội tượng binh đi kèm. Vua cho voi chiến Ai
Lao tham dự cuộc tập trận này.
Lần đầu tiên những binh khí
mới của quân Đại Việt được sáng chế và
mang thử tại thực địa khiến khí thế quan
quân ngất trời. Súng hỏa công với đủ loại cỡ đạn đá từ năm tấc tới mười tấc,
lại có cả loại đạn sắt có thể bắn xa tới
hơn trăm trượng. Dàn hỏa hổ đặt trên chiến thuyền có thể đánh đắm và làm cháy thuyền giặc ở cự ly gần ba trăm trượng. Hầu hết các loại phi
tiễn, giáo mác,côn, kích, khiên, thuẫn …đều được cải tiến tăng tính ứng dụng và
độ sát thương. Đặc biệt có một sỗ vũ khí mới được chế tạo theo sách “Vạn Kiếp
tông bí truyền thư” như chất cay làm từ bột ớt, tro bếp, lưu huỳnh; bộ dây
văng, móc xích của các chiến thuyền cùng các loại lưới quăng dùng cho thủy quân
trong các trận chiến giáp lá cà, các loại cọc gỗ bịt sắt, các loại thuyền nhỏ
có thể bay trên mặt nước… sẽ được trình diễn và áp dụng ngay vào cuộc tập trận
trên cửa Bạch Đằng sắp tới.
Đứng trước ba quân, dưới lá cờ súy như cánh buồm bay phần phật và tinh kỳ, khí giới
như rừng, vua Lê Thái Tông, trong bộ giáp
trụ lẫm liệt, đội mũ xung thiên dát vàng, nạm ngọc lưu ly, khoác chiến
bào màu hoàng yến, kiếm báu Thuận Thiên bên mình, có Hành quân Tổng quản Thiếu
úy Trịnh Khả bên tả, Tham tri chính sự, Nhập nội Thiếu úy Lê Thụ bên hữu, cùng
chúng tướng uy nghi hùng dũng, đã cất tiếng dõng dạc:
- Hỡi tướng sĩ ba quân, hỡi
thần dân Đại Việt! Từ khi thác mệnh Tiên đế, trẫm hằng mơ ước đến ngày hôm nay.
Một non sông Đại Việt gấm vóc nhường này, không phải tự nhiên mà có. Đúng như
“Bình Ngô đại cáo” của Tiên đế đã viết:“Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng
nước. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc
khác nhau. Song hào kiệt không bao giờ thiếu…” Đến triều Lê ta, Đức Thái Tổ
“Phát tích chốn Lam Sơn. Nương mình nơi hoang dã. Ngẫm thế thù há đội trời
chung. Thề nghịch tặc khó cùng tồn tại…” Cho nên, cùng chúng tướng, thần dân
nếm mật nằm gai, “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn. Lấy chí nhân thay cường bạo”,
mười năm mới làm nên nghiệp lớn, để “Trời đất bĩ rồi lại thái. Nhật nguyệt mờ
rồi lại trong. Để mở nền thái bình muôn thuở. Để rửa mối sỉ nhục ngàn thu…”
Công lao các bậc tiền nhân, công lao đức Tiên đế Lê Thái Tổ ta như trời biển.
Để hôm nay, trên vùng sông nước Lục Đầu giang này, nơi hào khí Đông A còn chất
ngất, trẫm và tướng sỹ ba quân tổng duyệt binh mã, rèn đúc tinh binh, mài sắc ý
chí, bảo vệ non sông gấm vóc Đại Việt, sáng nghiệp tổ tông…
Hỡi tướng sỹ ba quân, trong
ngày trọng đại này, trẫm lại nhớ lời dạy của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại
vương trong “Hịch tướng sỹ”: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột
đau như cắt, nước mắt đầm đìa…” Trẫm thấy mình có tội với tiền nhân.Càng nghĩ
càng tự trách mình. Tuổi trẻ của trẫm ỷ lại vào công đức và đại nghiệp của Tiên
đế, đã có những tháng ngày dong chơi uổng phí, sao nhãng việc học hành, tu thân
tích đức, phó mặc sơn hà xã tắc cho bọn lộng thần… Tội ấy, nay trẫm đã thấm…
Trẫm tự răn mình, phải lấy lại lòng tin của trăm họ, phải trở thành một đấng
quân vương chấn hưng đại nghiệp Lam Sơn. Trẫm đang là một con người khác. Các
chư tướng và ba quân có tin không?
Hàng nghìn cánh tay giơ lên.
Tiếng hô “Vạn tuế” rền vang.
Vua Lê Thái Tông nói tiếp:
- Từ nay sẽ là một kỷ nguyên
mới của Đại Việt. Trẫm thề sẽ nối gót
tiền nhân, sáng danh Tiên đế, cùng các chư tướng, văn võ bá quan, thần dân trăm họ sửa sang vương
nghiệp, xây dựng sơn hà xã tắc…
- Đức vua vạn tuế… vạn vạn
tuế…
- Thánh thượng vạn vạn tuế…
Tiếng tung hô dậy đất. Võ
trường sôi lên như chảo lửa.
***
Sau cuộc diễn tập bộ binh,
kỵ binh và tượng binh tại thành Chí Linh, là cuộc diễn tập thủy binh tại cửa
sông Bạch Đằng. Cuộc diễn tập do đích thân Hành quân Tổng quản, Thiếu úy Trịnh
Khả chỉ huy.
Từ nửa đêm, khi con nước
cường sắp lên, dân binh, quan quân đã rầm rập khuân vác, chuyên chở những cọc gỗ lim dài hơn trượng vừa được bọc
đầu sắt nhọn từ những lò rèn trong những rừng lim bên sông ra nơi tập kết. Hàng
nghìn cọc gỗ lim, nhiều cọc mới được đẵn từ
rừng hôm qua, nhiều cọc được dùng lại từ những bãi cọc Yên Giang, Vạn
Muối, Má Ngựa…của những cuộc đánh Hán, bình Tống, đuổi giặc Nguyên Mông thời trước. Cây cọc già nhất đã hơn năm trăm
tuổi. Cây cọc gần nhất thời Hưng Đạo Đại vương cũng đã hơn một trăm năm mươi
năm.
Khi nước triều lên ăm ắp các
bờ, thì trời vừa tảng. Cũng là lúc các bãi cọc đã được đóng xong, im lìm dưới mặt nước.
Bỗng từ phía biển, hàng trăm
“thuyền giặc” lừng lững tiến vào theo
hai cửa sông Chanh và sông Rừng. Đó là đội chiến thuyền do Tư khấu Trịnh Khắc
Phục chỉ huy, đóng giả quân giặc phương Bắc tiến vào xâm lược nước ta. Thuyền
sơn hắc ín đen kịt. Cờ súy màu đen có
chữ Hắc màu trắng. Tướng “giặc” và quân
“giặc” cũng đều vận đồ đen, nẹp áo, tua
mũ màu trắng như những đội ma vương thủy
quái.
Vua Lê Thái Tông cùng các
mưu sĩ đứng trên một chòi cao, dưới gốc cây Giêng cổ thụ bên sông. Ngay cạnh
ngài là Thiếu úy Trịnh Khả nai nịt trong bộ võ phục sáng lóa. Mọi người căng
mắt theo dõi thuyền “giặc” đang tiến vào các bãi cọc.
Vua bỗng quay hỏi tân khoa Tiến sĩ Ngô Sỹ Liên:
- Nơi ta đứng đây có phải là
đài chỉ huy của Quốc Công Tiết Chế Hưng
Đạo Đại vương năm xưa?
Ngô Sỹ Liên thưa:
- Dạ thưa Hoàng thượng, đây
chính là nơi Đức Thánh Trần đã phát hỏa
hiệu lệnh cho trận tiêu diệt quân Nguyên Mông ngày mồng 8 tháng ba năm Mậu Tý(
1288). Bệ hạ đang đứng dưới bóng cây Giêng cổ thụ. Thời Hưng Đạo Đại vương, cây
Giêng này cũng đã to lắm rồi, bây giờ chắc cũng vài ba trăm tuổi.
Vua Lê Thái Tông bỗng cất
giọng:
- “ Thủng thẳng chiều hôm
dắt tay. Trông thế giới phút chim bay”. Trẫm bỗng nhớ câu thơ của Ức Trai mà
quan Lễ nghi Học sĩ mới đọc cho nghe. Ức Trai quả có mắt nhìn xuyên vũ trụ. Mới
ngày nào Hưng Đạo Đại vương đứng ở chỗ này, mà nay trẫm đến đã vèo qua một trăm năm mươi năm - Nhà
vua chợt quay tìm Nguyễn Như Đổ - Này Khiêm Trai, ngươi có biết ai đã mách bảo
cho Quốc Công Tiết Chế biết thời khắc lên xuống của con nước triều ở cửa sông
Bạch Đằng này không?
Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ chột
dạ. Đức vua đang kiểm tra sức học và kiến văn của các tân khoa đây. Rất may là
chàng đã đọc “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, lại nhớ như in cả ba trận thủy chiến Bạch Đằng, nên chàng vội
thưa:
- Bẩm Hoàng thượng, xuôi bên
tả, có một cây Quếch cũng cao vượt lên không kém gì cây Giêng này, đó chính là
bến đò Rừng, nơi ngày xưa có một quán nước của một bà cụ già. Chính bà cụ đã
mách bảo cho Quốc Công Tiết Chế thời khắc lên xuống của con nước triều và địa
thế lòng sông Bạch Đằng để Hưng Đạo Đại vương cho bố trí các trận địa cọc. Sau
chiến thắng, Quốc Công Tiết Chế đã tâu vua Trần cho tôn vinh bà hàng nước là
Vua Bà và lập miếu thờ…
Vua Thái Tông nói:
- Vua Bà, đó là thần sông
núi hiển linh giúp Hưng Đạo Đại Vương đánh giặc. Sau chuyến này về triều ta sẽ
có sắc phong mới …
Quan Ngự sử đài và hai giám
quan Đinh Thắng, Đinh Phúc vội ghi lời vua phán.
Cũng là lúc nước cường đã
lên tới đỉnh. Hành quân Tổng quản Thiếu úy Trịnh Khả tâu:
- Bẩm Hoàng thượng, chiến
thuyền “giặc” đang tiến vào trận địa cọc
của ta. Xin Hoàng thượng tuyên lệnh phát hỏa.
Vua Lê Thái Tông đưa mắt về
hai phía tả hữu sông, rồi đưa tay về
phía những chiến thuyền của “giặc”đang hùng hổ tiến vào, giọng trầm vang át hẳn
tiếng sóng gió:
- Giặc đã vào cửa An Bang.
Quân dân Đại Việt quyết không để tên giặc nào chạy thoát. Sát Thát!
Ba tiếng súng lớn gầm vang.
Rồi ba phát hỏa hổ vạch những đường lửa
vút lên trời. Khắp tứ bề, tiếng chiêng tiếng trống, tiếng tù và dậy đất, tiếng“Sát”vang dậy mặt sông. Từ hai bên
bờ, trong những lùm cây, những đụn cỏ ngụy trang, hàng trăm thuyền nhỏ tinh kỳ
đỏ chói thêu chữ vàng “Đại Việt”xông ra khiêu
chiến, rồi giả vờ thua quay mũi, nhử
quân giặc lọt vào bãi cọc.
Khắp mặt sông mờ mịt sóng
nước, đen kín thuyền ta và thuyền “giặc”.
Nước triều bắt đầu rút.
Lại ba phát hỏa hiệu vút
lên. Thuyền quân ta quay mũi, hướng vào thuyền “giặc”. Từ các cửa lạch, các khe
núi, đại quân ta trên những chiến thuyền lừng lững xông ra. Đi đầu là các
chiến thuyền của các tiểu tướng dòng dõi
họ Trịnh, họ Đinh, họ Lê, họ Trần, họ Nguyễn… Từ phía cửa sông hai gọng kìm khóa hậu từ đâu đó
lao vun vút ra. Hỏa hổ đỏ lừ mặt sông. Khói lửa mù mịt. Tên bay như mưa. Toàn
mặt trận phản kích. Thuyền “giặc”quay đầu chạy. Những bãi cọc tua tủa, như
những thủy quái nhe răng nuốt, xé thuyền
“giặc” thành trăm mảnh.
***
Vua Lê Thái Tông khao quân
và hạ trại, ngự qua đêm ngay dưới cây
Giêng và rừng lim cổ thụ. Sau một ngày chỉ huy tập trận, đặt lưng xuống chiếc
long sàng giã chiến, nhà vua đã ngáy vang như
sấm.
Nửa đêm, ngài mơ màng thấy
có người đến bên, khẽ bẩm tấu:
- Bẩm Hoàng thượng. Tiệp dư
Ngô Thị Ngọc Dao và Hoàng tử Lê Tư Thành đến bái yết Người.
Ta đang mơ hay thực? Nhà vua
bàng hoàng ngồi dậy. Loang loáng trong ánh bạch lạp thấy gương mặt của Hành
quân Tổng quản Trịnh Khả cùng anh em quan nội giám Đinh Thắng, Đinh Phúc. Xa
chút vòng ngoài là đội vệ binh gươm giáo tuốt trần, đứng ken dày đến một con
thỏ cũng không chạy thoát.
Một hương thơm sực nức khiến
nhà vua như lạc vào chốn bồng lai. Rồi vua Lê Thái Tông thấy gương mặt đoan
diễm với đôi mắt nhung huyền của Ngọc Dao rất gần.
Ái khanh của ta! Nhà vua
muốn thốt lên. Lâu lắm rồi không được gặp Tiệp dư, nhưng trẫm không nguôi nhớ
nàng. Nhớ nhất là đôi mắt nhung huyền dịu dàng và hiền thục. Nàng khác hẳn
Hoàng hậu. Hoàng hậu càng sắc sảo, dào dạt bao nhiêu, thì Tiệp dư lại đoan trang
e ấp bấy nhiêu.
- Bẩm Thánh thượng, thần
thiếp biết nhà vua kinh lý miền Đông, nên đã mạo muội đem hoàng nhi Tư Thành
đến bái yết Người. Xin Người mở lượng hải hà bao dung con trẻ.
Một tiếng o oe , rồi một
khuôn mặt trẻ thơ với đôi môi chúm chím
như nụ hồng được bao bọc bởi một vầng hào quang chung quanh, bỗng làm trái tim
nhà vua xao xuyến. Người đưa hai tay đón lấy
hoàng nhi và chợt nhận ra một vết son mờ như dấu chiếc hốt ngọc của Ngọc
Hoàng thượng đế trên trán Hoàng tử. Con của ta! Niềm kiêu hãnh của ta! Bậc đế
vương, niềm kỳ vọng của giang sơn xã tắc đây rồi! Sau chuyến này về triều ta sẽ
…
Những tiếng âm thầm ấy cứ
dội lên trong trí não nhà vua. Người
nâng Ấu vương lên, áp cả bộ râu măng tơ vào má Hoàng tử.
Nhưng rồi vua Thái Tông vội
ngước nhìn lên. Hình như có đôi mắt sắc
như dao của Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh đang rọi vào ngài. Ngài giật thót, lỏng
hai bàn tay, đến nỗi Tiệp dư Ngọc Dao sợ Hoàng tử bị rơi, vội nhoài đỡ lấy.
Vua Thái Tông định thần.
Ngài đã lầm. Ánh mắt vừa nhìn ngài là của Nội quan Tạ Thanh.
Như kẻ vụng trộm bị bắt quả
tang, Tạ Thanh vội cụp mắt xuống và lẩn nhanh vào bóng đêm.
***
Lại nói về quan Thừa chỉ
Hành khiển và quan Lễ nghi Học sĩ.
Ở Côn Sơn, nhưng hai quan
vẫn dõi theo từng bước đi, lời nói của vua Thái Tông. Cả hai người, tuy không
ai dám nói ra,nhưng họ đều có chung tâm trạng của một người cha, người mẹ, lo
cho đứa con bước vào tuổi trưởng thành. Lời hịch trước các tướng sỹ ở thành Chí
Linh cho thấy Hoàng đế Lê Nguyên Long xứng đáng là một đấng minh quân văn võ
song toàn, nối gót Lê Thái Tổ hưng thịnh nước Đại Việt không kém gì triều Lý,
triều Trần.
Ức Trai nói với quan Lễ nghi
Học sĩ:
- Ta rất mừng vì đức vua.
Người thay đổi quá nhiều. Không còn nhận
ra một ông vua trẻ con chỉ biết nghịch
dại với voi với dê trong vườn thượng uyển và suốt ngày bày trò với đám thị nữ
ngỗ nghịch…Ta nói điều này chỉ riêng với nàng thôi, hở ra là cả hai ta cùng
phải chém đầu…
- Tướng công định nói điều
gì?- Bà Lộ nhìn Ức Trai chờ đợi.
Ức Trai nhìn quanh, rồi ghé
tai phu nhân :
- Nàng có nhớ câu: Công
dưỡng dục, đức cù lao không?Với Nguyên
Long, nàng có công dưỡng dục rất lớn. Không chỉ công lao ngày Nguyên Long còn
bé, mà cả mấy năm vừa rồi. Thời gian
nàng được giữ chức Lễ nghi Học sĩ, vào
cung giảng kinh sách cho Nguyên Long chính là bước khai hoá vĩ đại. Nàng đã cảm
hoá một thiếu quân hung hăng, chơi bời lêu lổng, một đứa trẻ suýt bị voi dẵm
chết trong vườn thượng uyển, thành một anh quân khoan hoà, nho nhã, biết nhìn
xa trông rộng…
Bà Lộ nói:
- Công lao này chính là của
Tướng công. Tướng công đã một lòng chú mục đến điều “nhân”…Chỉ có Tướng công mới dám tuỳ thời phá chấp, bất
chấp mọi lời thị phi, dám đưa thiếp vào cung để cảm hoá nhà vua…Tướng công đã khích
lệ thiếp dám cả gan bảo vệ Tiệp dư Ngọc Dao và Hoàng tử Lê Tư Thành, dám mua
thù chuốc oán với Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và phe cánh của bà ta…
Ức Trai nói:
- Ta có tội lớn với đức Tiên
đế, nếu không giúp giập Nguyên Long gây dựng đại nghiệp, cởi bỏ nỗi thống khổ
của muôn dân…Trung quân mà không ái quốc thì chỉ là kẻ sĩ cận thần, suốt ngày
bợ đỡ, xun xoe để hứng chờ bổng lộc. Bọn giẻ rách, giá áo túi cơm ấy, thật
không xứng đứng trong trời đất. Kẻ sĩ theo đúng nghĩa, thời nào cũng thuộc về
nhân quần, luôn đứng về chúng sinh nghèo khổ. Nhưng kẻ sỹ mà không gặp minh
quân, thì cũng chỉ là đồ bỏ đi. Bi kịch nhất của người quân tử là gặp phải tiểu
nhân, bạo chúa…
- Tướng công và thiếp đã sắp
qua kỳ bĩ cực rồi – Bà Lộ nói – Như thiếp đã thưa với Tướng công ngay
hôm về Côn Sơn. Từ sau ngày lễ Vạn
Thọ thánh tiết, nhất là sau bốn cuộc tảo phạt châu Phục Lễ và huyện Thu Vật, Nguyên Long rất khác. Ngày
mai, nếu Hoàng thượng có chỉ dụ thì Tướng công nên hồi trào …
- Ta biết ngày mai Hoàng
thượng sẽ chỉ dụ. Thậm chí Hoàng thượng ra lệnh bắt ta phải hồi trào. Ta đang
nghĩ cách thoái thác. Bởi ta già rồi. Các bạn ta cũng già nua cả rồi. Họ chưa
muốn về vườn, chỉ vì còn lo đến mối lợi, đến bổng lộc. Người đời sẽ cho ta là
kẻ tham lam hủ lậu, đã cáo quan rồi mà còn tiếc cái dải mũ, còn ham hố, bon
chen. Họ đâu biết ta chỉ lo cho Hoàng thượng, cho giang sơn xã tắc. Vua sáng
không thể không có kẻ hiền tài. Bọn kẻ sĩ mọi thời đều là những hiền tài, không
có họ, bất thành quốc gia. Họ như cái râu của con ốc sên, không có râu, con ốc
sên không thể biết con mồi ở đâu, đi hướng nào. Họ như những chiếc gai trên da
con cóc, con cóc ngồi đáy giếng, những khi ngứa da, nó phải kêu. Thế là Trời
biết mà đổ mưa. Bi kịch của kẻ sĩ là không có quyền lực. Họ phải sống bám vào
quyền lực. Suy cho cùng, họ chỉ là con bài trong tay người quyền thế. Ngũ Tử Tư
trung quân tài trí là thế, nhưng Ngô Phù Sai nghi kỵ không dùng thì cũng chỉ
như một que củi trong tay gã nhóm lò. Phạm Lãi cúc cung với Việt vương Câu Tiễn
đến thế mà cuối đời phải tính kế thoát thân. Đến như nghĩa đệ Trần Nguyên Hãn
của ta…
Ức Trai không nói hết câu,
buông một tiếng thở dài…Ông nhìn lên trời và tin những gì Nguyên Phong đã nói.
Trần Nguyên Hãn vẫn còn sống và đang khoác áo một Đào Công ở núi rừng miền tây
Nghệ An. Sau đợt này, ông sẽ bí mật đi tìm Trần Võ đệ của ông. Con người như
thế không thể chết, và chẳng việc gì phải chết…
Như có thần giao cách cảm,
quan Lễ nghi Học sĩ cũng chợt nghĩ tới Trần Nguyên Hãn. Bà an ủi chồng:
- Hồi ấy đức Tiên đế luôn sợ
bóng sợ gió các tôn thất nhà Trần. Tướng công và Nguyên Hãn được tin dùng vì
Tiên đế biết là hiền tài, vả lại hai người từng theo các bậc phụ huynh ra làm
quan với nhà Hồ. Nhưng sau ngày đại định, gặp bả phú quý vinh hoa rồi thì bọn
Lê Sát, Lê Ngân lại nổi máu tiểu nhân, bè đảng, suốt ngày thì thọt, bám lấy Tiên
đế, nịnh nọt, gièm pha… Bây giờ bọn Sát bọn Ngân đã chết rồi, đức vua đã khác…
- Nàng vẫn cạn nghĩ - Ức
Trai khoát tay – Một trăm bọn như Sát, Ngân cũng không bằng Hoàng hậu Nguyễn
Thị Anh bây giờ. Lại có bọn Nguyễn Phù
Lỗ, Tạ Thanh, Lương Đăng và cả Lam Sơn hội làm vây cánh, sức mạnh của phe Thị
Anh khiến ta vừa nghĩ đến đã thấy rùng mình. Nàng không nghe Nguyên Phong vừa
từ sông Rừng về nói gì sao?
Quan Lễ nghi Học sĩ ngẩn
người. Bà chợt nghĩ đến cái tin khẩn báo mà Nguyên Phong và Tiểu Mai mang về từ bến đò Rừng. Cặp
uyên ương này suốt mấy ngày nay đóng vai
hai thám tử thăm dò từng động tĩnh của phe cánh Thị Anh và không bỏ sót một chi tiết khả nghi nào không
thông báo kịp thời cho Tướng công.
Ức Trai nói tiếp:
- Nếu Hoàng thượng muốn gặp
Hoàng tử thì đó là mệnh trời…Còn nếu đó là ý định của quan Thiếu úy Trịnh Khả
thì quả là vội vàng. Chủ quan khinh suất
như thế thật là bất lợi. Việc đưa Tiệp
dư và Hoàng tử đến bái yết nhà vua ngay nơi tập trận là một
tối sách muôn phần nguy hiểm, sẽ gây hậu
quả khôn lường. Trong “Vạn Kiếp tông bí
truyền thư”, Hưng Đạo Đại vương gọi đó là “thế lộ hầu”. Quan Thiếu úy
thừa biết rằng tai mắt của Hoàng hậu rình rập khắp nơi. Từ mấy ngày nay, Thị
Anh đã giăng thiên la địa võng khắp vùng Hải Đông này. Ngay ở quanh ta, cả bên
chùa Hun nữa, đều có người của Thị Anh cài cắm, rình mò. Vậy mà quan Thiếu uý
dám để cho Tiệp dư và Hoàng tử lộ diện… Ta mừng vì Nguyên Long trưởng thành bao
nhiêu thì lại lo cho Hoàng thượng và mẹ con Tiệp dư bấy nhiêu.
Bà Lộ cảm thấy hoang mang.
- Nguyên Phong và Tiểu Mai
cũng vừa cho thiếp biết: Ngay sau khi Tạ Thanh thấy Hoàng thượng gặp Tiệp
dư và Hoàng tử ở bến sông Rừng, ông ta
đã cho tay chân cưỡi ngựa lưu tinh về cấp báo với Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh.
Ức Trai quay vào thư phòng,
đem ra một lá thư, đưa cho bà Lộ:
- Nàng xem đi. Đây là mật
thư của Đinh Thắng, Đinh Phúc vừa gửi cho ta. Hai ông giám quan cùng khuyên ta
hãy thuyết phục nàng không nên theo vua về triều đợt này. Nàng hãy ở lại Côn Sơn ít ngày, ta
cũng muốn như vậy…
Quan Lễ nghi Học sĩ hơ lá
thư trên đĩa dầu lạc, đọc xong, tái mặt.
Bà nói:
- Thì ra những bài đồng dao
mà bọn trẻ con Kẻ Mui, Kẻ Bưởi hát, lại
chính là thơ của nàng Lương Minh Nguyệt,
vợ yêu của quan Nhập nội Tư mã Đinh Liệt?
Ức Trai cầm lại lá thư, đưa
lên đĩa đèn dầu. Ngọn lửa xanh bắt cháy.
- Theo ý tứ hai giám quan
viết trong thư, thì sau đợt vua Nguyên
Long đi kinh lý miền Đông về, quan Nhập nội Tư mã, người theo di mệnh của
Tiên đế có nhiệm vụ bảo vệ vương triều,
sẽ tâu chuyện Băng Cơ với Hoàng thượng.
Hai Giám quan Đinh Thắng, Đinh Phúc sẵn sàng đối chứng. “Băng Cơ hà hữu Tống
Thai tinh. Lục nguyệt khai hoa quái dị hình…” Thơ của Minh Nguyệt phu nhân,
nhưng chứng cứ là của hai ông quan hoạn. Các ông có sổ sách ghi chép rõ ràng.
Cả nàng và ta nên nghe theo lời khuyên của các ông ấy. Hãy khoan về triều. Sẽ
có một cuộc phế truất như đã từng xảy ra với mẹ con Dương Thị Bí và Nghi Dân.
Không. Có thể quyết liệt và tàn khốc hơn. Sẽ có một cuộc biến kinh thiên động
địa.…Ta thấy lo cho Hoàng thượng quá…
Hai người chưa dứt câu
chuyện thì có quan Trung sứ đến báo giờ Thìn ngày mai, sau khi vua Lê Thái Tông làm lễ tạ ơn Đức thánh Trần Hưng
Đạo tại đền Kiếp Bạc xong, sẽ ghé thăm quan Nhập nội Hành khiển Nguyễn Trãi.
Trong, ngoài tư dinh lập tức
náo nức, nhộn nhịp. Các bếp lò đều nổi lửa. Bộ phận phục dịch từ mấy hôm nay lo
chuẩn bị một bữa ngự thiện đậm hương vị
miền Hải Đông, giờ đang cuống lên để
hoàn tất. Người chủ trò không ai khác là
ông Cả Khuê, lại có thêm nàng Phạm Thị Mẫn, Nguyên Phong, Tiểu Mai và vợ chồng tượng nhân Bùi Thị Hý, Đặng Sỹ từ Chu Trang sang giúp sức. Riêng món trà
mai, và trà sen phải đích thân quan Lễ
nghi Học sĩ đảm nhận.
Ông Nguyễn Khuê bẩm với Ức
Trai:
- Thưa cha. Trên quê vừa cho người đem xuống mấy tráp bánh dày và
giò lụa loại thượng hạng. Thầy có cho phép con đưa vào mâm ngự thiện?
Ức Trai nói:
- Bánh dày Quán Gánh quê ta
từng nức tiếng xưa nay. Chẳng tết nào dì con không tự tay mình làm vài chục
bánh để ta dâng vua. Con cứ hỏi dì Lộ. Mâm ngự thiện hôm nay do dì Lộ đảm
trách, chắc sẽ làm đức vua hài lòng...
***
Mùa Thu, tháng tám, ngày
mồng 4, giờ thìn, vua Lê Thái Tông đến
thăm quan Thừa chỉ Hành khiển Nguyễn Trãi ở Côn Sơn.
Đoàn quan quân theo hầu vua
chỉ gọn nhẹ chừng hơn trăm người, hộ tống là quan Hành quân Tổng quản Thiếu úy
Trịnh Khả và đội vệ binh thị vệ, phò giá là bọn nội quan, giám quan, các văn
thần đầu triều và các tân khoa Tiến sĩ vừa được vinh danh.
Từ giữa giờ mão,quan Thừa
chỉ Hành khiển và quan Lễ nghi Học sĩ, trong bộ phẩm phục triều đình, đã dẫn
đoàn gia quyến ra tận Bến Đá nghênh giá.
Nàng Phạm Thị Mẫn xấu hổ vì mang thai,
xin ở nhà trông coi bộ phận bếp núc và lễ tân. Một hương án thịnh soạn tại bến
đò được Cả Khuê và Nguyên Phong, Tiểu Mai và các học trò của Ức Trai chuẩn bị
từ giờ Dần. Vợ chồng Đặng Sỹ và Bùi Thị Hý mang đến một loại hương trầm cực
ngát làm từ loại gió bầu thượng hạng của xứ Champa. Các nhà sư chùa Hun và thần
dân trong vùng từ tờ mờ sáng đã bày biện hương đăng ngũ quả dọc đường và quanh
bến đò. Lính thị vệ túc trực từ nửa đêm. Không một động tĩnh khả nghi nào lọt
qua mắt họ.
Vua Lê Thái Tông sau những
ngày duyệt quân và tập trận, có vẻ mệt
mỏi, nhưng vừa gặp Ức Trai và bà Lộ, mặt
rồng bỗng tươi sáng rạng ngời. Như không có sự cách bức vua tôi. Như người thân lâu ngày gặp lại, vua cầm tay Ức
Trai đi về phía đại sảnh, theo sau là
quan Lễ nghi Học sĩ cùng các quần thần văn võ.
Sau khi chủ khách đã phân
chia ngôi vị an toạ, Nguyễn Trãi quỳ tâu:
- Bẩm Hoàng thượng anh minh.
Chốn thâm sơn cùng cốc này, vốn chỉ có mây trời gió núi, không ngờ lại có ngày nhuần chiếu ánh thái dương.
Kẻ hèn mọn già nua là Trãi này dẫu tim
óc lầy đất cũng không báo đáp được ơn
mưa móc mà Hoàng thượng đã ban tặng…
Vua Nguyên Long vội đỡ Ức
Trai dậy:
- Khanh hãy bình thân. Trẫm
có lỗi lớn là đã không sớm đến thăm quan Thừa chỉ Hành khiển. Càng có lỗi hơn
khi thấy khanh sống ở nơi thâm u cô tịch thế này. Vị trí của khanh phải là nơi
đầu triều để hằng ngày trẫm được chăm
sóc, được khanh chỉ giáo những kế sách
quốc gia đại sự. Chưa bao giờ trẫm thấy cần khanh và quan Lễ nghi Học sĩ như
bây giờ…Cho nên việc trẫm đến thăm khanh hôm nay không phải chỉ là một cuộc thăm viếng đơn thuần. Chắc khanh
nhớ chuyện “tam cố thảo lư”, Lưu Huyền Đức ba lần đến cầu Gia Cát Khổng
Minh? Hôm nay trẫm đến đây là để thỉnh Ức Trai tiên sinh về triều…
Những lời nhà vua nói ra là
từ gan ruột hay chỉ là sự đãi bôi? Lần đầu tiên
Ức Trai thấy khẩu khí Nguyên Long như vậy, một khẩu khí của bậc quân
vương, vừa có tính giao đãi của một người đã nhuần nhuyễn trên đỉnh cao quyền
lực, vừa hé mở một tầm nhìn xa rộng, lại vừa hàm ý chân thành, cầu thị. Là một
người duy cảm, Ức Trai thấy trái tim mình bỗng thổn thức một niềm biết ơn,
giống như ngày nào khi ông còn trong quân ngũ Lam Sơn, được Bình Định vương khích
lệ, tin dùng.
Có những ánh mắt ở đâu đó,
thấp thoáng trong đám cận thần bỗng làm Ức Trai giật mình. Ánh mắt từ phía Nội
quan Tạ Thanh, giám quan Lương Dật, từ Hữu Hình viện đại phu Trần Phong, hay từ
trong đám võ quan Nhập nội Thiếu uý Tham tri chính sự Lê Thụ, Điện tiền đô
hiệu điểm Lê Ê…Bằng trải nghiệm những
năm tháng quan trường, và nhất là ba năm lại đây, Ức Trai biết rằng con đường
trở về triều của mình đầy những chông gai cạm bẫy.
- Bẩm Hoàng thượng - Nguyễn
Trãi vòng tay cung kính - Hạ thần xét
thấy mình tài hèn sức mọn, lại già nua, hằng ngày leo lên Thanh Hư động, lần
tới Thạch Bàn đã thấy chân mỏi, tay run,
biết là không báo đáp được lòng tin yêu của Hoàng thượng. May nhờ phúc dày của
Tiên đế, trong thời gian lui về Côn Sơn thần đã hoàn tất được công trình mà đức
Tiên đế đã phó thác. Nay xin dâng Hoàng thượng ngự lãm và xin cho được ở lại
Côn Sơn dưỡng tấm thân già. Khi nào có việc, Hoàng thượng gọi, Trãi này xin lại
vào triều yết.
Nguyễn Trãi nói rồi sai con
trai cả là Nguyễn Khuê đội một khay sơn son thếp vàng, trên đó là năm cuốn sách
đóng bìa da dê. Đó là bộ “Quốc triều
Hình luật”mà ông vừa biên soạn xong.
Giám quan Đinh Phúc dâng
sách lên vua. Nhà vua cầm xem, mặt rồng rạng rỡ, truyền bảo các văn thần và các
tân khoa Tiến sĩ rằng:
- Trẫm biết hôm nay là một
ngày đại cát. Bộ Bách khoa thư này Tiên
đế đã ký thác cho Ức Trai từ ngày Người còn ở bản doanh Bồ Đề. Đây là phần hai
của “Bình Ngô sách” mà Ức Trai tiên sinh
đã nung nấu từ khi tìm vào Lam Sơn bái
yết phụ vương trẫm. Đây là chìa khoá để
mở cửa chấn hưng Đại Việt. Trẫm đưa các
khanh xuống đây là để tiếp nhận kim thư. Trẫm giao cho các quan kinh diên, tham nghị, đài quan, hàn
lâm, trung thư…, mà nòng cốt là các văn thần có mặt hôm nay, cùng các tân khoa
Tiến sĩ. Các khanh hãy phối hợp với các Bộ, các Đạo thẩm định, chỉnh lý lại rồi trình trẫm để ban
bố trong thiên hạ. Sông phải có nguồn,
nhà phải có nóc, quốc gia phải có rường
cột. Bộ đạo luật này là phép tắc căn bản để trị quốc, an dân…
Các quan tung hô lạy mừng.
Tiếp đến là lễ dâng quà tặng
và báu vật.
Vua Lê Thái Tông vô cùng
kinh ngạc và thích thú khi nhìn thấy những đồ gốm sứ Chu Đậu dâng lên.Và thật
bất ngờ, khi vợ chồng tượng nhân Bùi Thị Hý, Đặng Sỹ, chủ nhân của những kiệt
tác gốm sứ, vừa xuất hiện, thì trong đám tân khoa Tiến sĩ bỗng có những tiếng
reo khẽ:
- Giám sinh Bùi Văn!
Thám hoa Lương Nhữ Hộc ghé
tai Tiến sĩ Lê Hiền:
- Đúng là hiền đệ Bùi Văn
của chúng ta rồi. Kẻ giả trai đi thi không ngờ lại là nữ tượng nhân Bùi Thị Hý, cháu nội quan Thái bảo
Bùi Quốc Hưng.
Khi thấy cô cháu gái của
mình được nhà vua chú ý, quan Thái bảo Bùi Quốc Hưng vội thưa:
- Bẩm Hoàng thượng. Hạ thần
xin khấu đầu nhận tội vì bấy lâu đã giấu bệ hạ.
Đây là con của tiểu tướng Bùi Quốc Nghĩa, đứa cháu gái yêu của hạ thần.
Vì quá ham học chữ và muốn được sánh cùng nam nhi nên đã đổi lốt, giả trai, lấy tên là Bùi Văn, xin
được ứng thí khoa thi Tiến sĩ vừa rồi. Sau khi bị truất khỏi trường thi, đã trở
về đúng chức phận nữ nhi, xuất giá lấy
chồng là Đặng Sỹ, tượng nhân làng gốm
Chu Đậu.Những sản phẩm gốm này do vợ chồng cháu tự làm ra để dâng lên thánh
thượng.
Hai vợ chồng Bùi nương và
Đặng Sỹ cúi đầu bái yết.
Bây giờ thì vua Thái Tông đã
nhận ra chàng thư sinh Bùi Văn có gương mặt con gái mà mình đã truất
quyền ứng thí khi vào tới vòng thi Đình. Nhà vua ngắm nhìn bộ độc bình âm
dương, tấm tắc hồi lâu, rồi ban ngự tửu
cho Đặng Sỹ cùng
Bùi Thị Hý. Vua Thái Tông nói:
- Trẫm khá khen cho nữ nhi
dũng lược. Trẫm có lỗi đã để lỡ một Tiến
sĩ. Nhưng bù lại trẫm rất vui là có một
tượng nhân kỳ tài. Đây sẽ là kỳ vọng của
sản nghiệp Đại Việt. Nước ta đã có làng gốm sứ Bát Tràng, hằng năm triều đình
đều mang sản vật Bát Tràng làm cống vật cho Bắc triều và quà tặng cho các nước
lân bang. Nay có thêm gốm sứ Chu Đậu thì thật
là đại phúc cho nước. Chu Đậu tức là bến
thuyền, là nơi hội tụ giao lưu sông nước. Những sản vật gốm sứ Chu Đậu sẽ là quốc bảo của triều đình. Rồi đây, trẫm sẽ có chỉ dụ cho quan An phủ sứ Nam
Sách và An Bang cấp thuyền cho vợ chồng tượng nhân Bùi Thị Hý để mang các sản
vật gốm sứ Chu Đậu bán sang các nước Đại Minh, Cao Ly, Nhật Bản, Trảo Oa, Chiêm
Thành… để khuếch trương thanh thế Đại Việt – Nhà vua dừng lại hồi lâu, ngắm
nhìn nữ tượng nhân đầy cảm mến, rồi nói tiếp - Nhân đây trẫm muốn giao cho các
khanh một việc.
Bùi Nương và Đặng Sỹ quỳ
xuống.
- Muôn tâu bệ hạ, chúng thần
không dám trái lệnh.
Vua Thái Tông đưa hai tay
chỉ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ:
- Các khanh nhìn ngắm kỹ hai
quan trọng thần của trẫm. Ức Trai tiên sinh là đại hiền tài, là nguyên khí,
tinh hoa của nước Việt. Những trước tác của
Ức Trai vượt trên mọi thời. Chỉ riêng áng văn “Bình Ngô đại cáo” mà Ức Trai soạn cho đức
Tiên đế ta tuyên đọc bố cáo toàn thiên hạ, đã thấy tầm vóc hùng vĩ xa rộng
nhường nào. Áng thiên cổ hùng văn ấy có thể
sánh với “Bài thơ Thần” của Thái uý
Lý Thường Kiệt đời Lý, “Hịch tướng sỹ” của Hưng Đạo Đại vương thời Trần.
Và kia, phu nhân của Ức Trai, quan Lễ nghi Học sĩ, ta không quá lời khi gọi Người là Mẫu nghi thiên hạ, một
nữ lưu tài sắc vẹn toàn thông kim bác
cổ. Trẫm muốn các khanh hãy hoạ hình hai quan Thừa chỉ Hành khiển và Lễ nghi
Học sĩ trên những chiếc độc bình lớn kia. Đây là hai sư biểu và ân nhân của
trẫm. Ức Trai Tiên sinh và Lễ nghi Học sĩ
rất xứng đáng được lưu tên tuổi
hình ảnh lại cho muôn đời…
Tất cả bỗng lặng đi vì ý
tưởng bất ngờ của nhà vua. Rồi quần thần, chúng tướng đều khoanh tay hô lớn:
- Đức vua vạn tuế… vạn vạn
tuế!
- Hoàng thượng anh minh
vạn…vạn tuế
***
Hỡi ôi, đó là những lời tung
hô cuối cùng đối với bậc anh quân mà cuộc đời và vương nghiệp mới vừa hé lộ.
Sau khi tạm biệt Côn Sơn,
vua Lê Thái Tông hẹn gặp Ức Trai tiên
sinh tại Đông Kinh vào kỵ nhật đức Tiên đế Lê Thái Tổ, ngày 22 tháng tám,
rồi cùng các quan và Lễ nghi Học sĩ
Nguyễn Thị Lộ hồi triều.
“Đại Việt sử ký toàn thư”
(Phần do Triều liệt Đại phu Quốc Tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan tu soạn thần
Ngô Sỹ Liên biên soạn) chép:
“ Tháng 8, ngày mồng 4, vua
về đến vườn vải huyện Gia Định, bỗng bị bạo bệnh rồi băng.
Trước đây, vua thích vợ của
Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người rất đẹp, văn chương rất hay, gọi
vào cung phong làm Lễ nghi Học sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh. Đến khi đi tuần miền
đông, xa giá về tới vườn vải, xã Đại Lại, ven sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm
với Nguyễn Thị Lộ, rồi băng, các quan bí mật đưa về.
Ngày mồng 6 về tới kinh, nửa
đêm đem vào cung rồi mới phát tang. Mọi người nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua.”
Chú thích:
(1)Thám
hoa Lương Nhữ Hộc sau này đã đưa nghề khắc bản in từ Trung Quốc về quê. Ông trở
thành Tổ nghề khắc in làng Liễu Tràng, Hải Dương.
(2) Địa danh Nhân Huệ nay vẫn là tên của một
xã cù lao, kẹp giữa sông Kinh Thầy và
sông Thái Bình, thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương.
(3)
Đại Việt sử ký toàn thư.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét