Ký ức làng Cùa
Tiểu thuyết của Đặng Văn
Sinh
PHẦN THỨ HAI
Chương mười một
3
Một hôm Lê Văn Khải bảo mẹ:
- Có khi con phải đi tìm
việc làm, cứ tình trạng này thì chết đói mất.
Khúc Thị Hài thương con
nhưng xem ra cũng không còn cách nào khác đành miễn cưỡng gật đầu :
- Thế cũng được, ở nhà còn
có em Nghiên, đến chỗ làm nhớ viết thư về.
Bà Hai lắc đầu:
- Không có giấy thông hành
sao đi được hở cháu? Nhà mình bây giờ
chẳng khác gì tù giam lỏng, ra khỏi làng không trình báo là bị rầy rà.
Lê Văn Nghiên vốn nóng tính,
ngang tai trái mắt không chịu được, thủng thẳng bảo:
- Có xuống Uỷ ban xin giấy
họ cũng không cấp đâu. Anh cứ đi trước đến chỗ lò gạch cũ ở Phú Đa ấy xem thế
nào, nếu làm ăn được em cũng đi.
Khúc Hài bảo :
- Một đứa đi thôi, còn thằng
Nghiên phải ở nhà. Chúng mày không thương bà hay sao?
Bà Hai hiểu rõ tâm tính hai
thằng cháu từ bé, xem ra khó mà giữ chân chúng được đành chép miệng bảo:
- Cả hai anh em đi được càng
tốt không phải lo cho bà. Tao còn khoẻ chán. Chúng mày mà còn ở làng Cùa thì
suốt đời không ngẩng đầu lên được.
Sáng hôm sau hai anh em vác
lưới ra sông Lăng. Thuyền xuôi xuống mãi bến Đoan mới sang cồn Vành. Khải khoác khăn gói lên bờ còn Nghiên bắt đầu thả
lưới đánh cá. Cồn Vành mùa này toàn cỏ, có nơi cao quá đầu gối xanh tít tắp,
rộng mênh mông như một thảo nguyên hoang dã. Hiếm hoi lắm mới nhìn thấy vài vạt
ngô thấp lè tè còi cọc chen lẫn giữa những bạt cỏ lác, cỏ ống, cỏ tai voi. Chim
ngói, chim xanh, chào mào, liếu điếu từ khắp nơi bay về kiếm ăn. Cánh thợ săn
vác lưới đặt bẫy suốt ngày nhưng bắt được chúng không phải dễ.
Hầu hết các làng vùng tả ngạn Khải đi qua đều
có một nét giống nhau là lắm cờ, nhiều khẩu hiệu. Thỉnh thoảng lại gặp một đoàn
khất thực lầm lũi bước trên đường quan. Họ khoác trên người những thứ quần áo
vá chằng vá đụp, vật vờ như đám cô hồn lúc mặt trời gác bóng, rủ nhau vào tá
túc trong những gian điếm dột nát, nhịn đói, uống nước lã cầm hơi để đến sáng
mai lại tiếp tục cuộc hành trình vô vọng. Sang đến ngày thứ tư, Khải đến Phú Đa.
Anh ta tìm được dãy lều trại của những người thợ phơ nhưng không gặp ai. Khu lò
gạch đã trở thành hoang phế. Khải vào làng gặp ông Tước, một thợ đốt lò nổi
tiếng khắp vùng Cao Thượng. Ông này bị đau dạ dày, đang ôm bụng nhăn nhó, thấy
khách đến hỏi bà Cảnh liền ngồi dậy bảo:
- Cậu có phải là cậu Khải?
- Vâng, cháu đây.
- Chuyện thế này, sau khi
cậu đi mấy hôm, ông Cảnh mang cô Kiều Trâm về thành phố, nghe đâu đã lấy thầy
Ký kia. Cuối tháng tám ở đây phát động Cải cách ruộng đất. Bà chủ kinh doanh lò
gạch bị quy là thành phần tư sản, lãnh án mười lăm năm. Toàn bộ số gạch còn
lại, Đội trưng thu chia cho bần cố nông, tôi cũng được hơn hai trăm viên xếp
ngoài vườn kia.
Ông Tước không có con, từ khi vợ chết vì cảm
thương hàn vẫn sống độc thân, mời Lê Văn khải ở lại nghỉ qua đêm. Tối hôm ấy,
hai bác cháu uống rượu với cua rang lá chanh và bánh đa vừng. Sáng hôm sau, lúc
Khải khoác khăn gói lên vai, ông bảo:
- Ra thành phố mà kiếm sống,
ngoài ấy nghe nói dễ làm ăn. Mà này, hình như cái cô Kiều Trâm phải lòng cậu đúng không?
Khải chỉ cười không nói gì, sáng hôm sau từ
biệt ông thợ đất lò.
Trái với lời khuyên của ông, anh ta không về
thành phố mà ngược lên phía bắc. Nơi ấy là rừng núi. Từ nhỏ đến giờ Khải mới
chỉ có khái niệm rất mơ hồ về rừng xanh núi đỏ qua những lần chặt tre bương ở
miễu Đài Sơn, nhưng trong tiềm thức anh ta luôn nghĩ rằng cuộc đời mình sau này
sẽ gắn với rừng. Tiếng gọi của thành phố dù có hấp dẫn bao nhiêu cũng không
bằng tiếng gọi của định mệnh. Đường hình như cứ mỗi ngày một dài ra mà rừng mỗi
lúc một âm u. Con đường hẹp trải thứ đất sỏi đỏ sẫm chạy chênh chếch dưới chân
một quả đồi mọc toàn loại giẻ dầu lủng lẳng từng chùm quả non nhưng gai đâm tua
tủa. Lũ khỉ đỏ đít, lông vàng cháy như vằn hổ, chuyền từ cành này sang cành
khác, mắt láo liêng, thỉnh thoảng lại trêu đám khỉ cái bằng những tiếng choéc choéc nghe rất là phóng đãng. Mấy
chàng vượn đen hầu như chẳng để ý đến những chùm vả chín mọng đang chảy mật mà
chỉ mải mê đánh đu như say rượu trên ngọn cây đằng đằng với hàng loạt cú nhào
lộn chóng mặt. Vài ả vượn cái cõng con sau lưng ngồi trên chạc cây báng, nhe
răng trắng nhởn cười khèng khẹc cổ vũ cho đám mày râu. Một lão khổng tước cánh
đen, ức trắng chẳng biết từ phương nào bay về, đậu ngay trên ngọn cây kiền kiền
chênh vênh sườn dốc cất giọng gù gù gần giống tiếng ngỗng trời lạc đàn khi bay
về miền nam tránh rét.
Khải ngồi xuống một rễ cây bên đường, mở nắp
quả bầu khô, nhấp ngụm nước và lắng nghe tiếng rừng lao xao. Hôm nay đã là ngày
thứ ba, anh ta chưa có hạt cơm nào vào bụng ngoài những quả dâu da, vả hoặc
bưởi đào kiếm được ở chân đồi. Bầu trời xanh biếc lọt qua kẽ lá. Những tia nắng
sớm nhảy nhót trên cành giẻ gai. Mùi hăng hắc của hoa long não thoang thoảng
đâu đây.Tất cả đều kích thích trí tưởng tượng làm cho chàng trai họ Lê cảm thấy
mình như đang trong trạng thái bồng bềnh, vô thức.
Sợ nhất là trong người không
một mảnh giấy tuỳ thân. Con trai một tên phản động Quốc dân đảng như Khải lúc
này, dù là người có học và lương thiện đến mấy cũng không ai dám đứng ra đảm
bảo tư cách công dân. Đất nước mới độc lập, miền Nam còn đang dưới sự kiểm soát
của gia đình họ Ngô, gián điệp, biệt kích như rươi, luôn tìm cách phá hoại
thành quả kháng chiến, mọi người đi làm ăn xa bắt buộc phải có giấy thông hành
để công an dễ bề quản lý, giám sát. Tất nhiên là Khải không đào đâu ra cái thứ
tưởng như rất bình thường ấy. Thế là bị bắt. Lần thứ nhất ở Tân Phong. Lúc ấy
đã lặn mặt trời. Lang thang ban đêm, theo cái lý của nhà chức trách, chỉ có bọn
đầu trộm đuôi cướp hoặc gián điệp, thổ phỉ. Khải bị ông Xã đội trưởng tống vào gian chuồng trâu được cải tạo
thành buồng giam từ ngày Cải cách. Đêm ấy anh ta ngủ khá ngon lành mặc dù mùi
nước đái vẫn còn nồng nặc từ nền đất ẩm thấp bốc lên. Sáng ra, Xã đội trưởng bàn giao “phạm nhân” cho Trưởng công
an. Ông Trưởng công an lưng hơi gù, giọng nhát gừng, hỏi:
- Anh cho xem giấy tờ.
Lê Văn Khải bắt buộc phải
nói dối:
- Tôi lên Bắc Thoòng làm ăn,
qua chợ Sàn bị kẻ cắp lấy mất hành lý.
- Quê quán ở đâu?
- Mai Sơn, Thanh Đa.
- Thành phần gia đình?
- Bần nông.
- Lấy gì làm bằng chứng để
tin là anh nói thật?
- Tôi đang đói lắm, mấy ngày
nay không được hạt cơm, ông có thể cho tôi xin tạm một bát.
Ở vùng bán sơn địa này có nhiều sắn, Uỷ ban xã không
thể để cho Lê Văn Khải chết đói. Nhưng mà ngày hai bữa cứ phải mang cơm vào
chuồng trâu cho một gã vô công rồi nghề làm ông Trưởng công an phát cáu:
- Hôm nay tôi bận họp, người
nhà còn phải đi làm. Đây có ít gạo với mấy củ sắn anh tự nấu lấy mà ăn.
- Vậy thì tốt quá nhưng ông
phải cho tôi mượn cái nồi.
- Tất cả đều ở trong góc
nhà, đun khéo không cháy bếp.
- Tôi có chuyện này muốn nói
với ông.
- Lại còn chuyện gì nữa? -
Ông công an bảo. - Thôi được, nói đi, xem ra anh cũng không phải là người xấu.
- Hay là ông cứ cho tôi ...
ở tạm đây một thời gian. Trong túi tôi giờ chẳng còn đồng nào mà đường lên Bắc
Thoòng còn khá xa.
Ông Trưởng công an phì cười
:
- Anh nói như trò trẻ con
ấy, giữ anh ở đây ngày nào là thêm phức tạp ngày ấy.
- Sao mấy hôm trước ông Xã
đội bảo dẫn tôi về huyện?
- Cái lão Phưởng chỉ nói lấy
được. Từ đây đến huyện, cuốc bộ lằng nhằng những mấy chục cây số, cả đi lẫn về
ba ngày đường có mà nằm liệt giường. Tôi đã bảo các bố ấy rồi, dân nhà quê dưới
đồng bằng lên mạn ngược tìm việc làm ngày nào chẳng đi hàng đoàn, cơm gạo đâu
mà giữ lại.
- Bác nói thế
là chủ quan đấy. - Khải làm ra vẻ thành thực bảo. - Phải nâng cao tinh thần
cảnh giác cách mạng chứ.
Ông Trưởng công an văng tục:
- Cảnh giác cái con khỉ.
Thôi anh đi đi!
- Vậy là bác thả?
- Ừ, cầm luôn cả ống gạo với
mấy củ sắn dọc đường vào nhà dân nấu nhờ mà ăn.
Chín ngày sau Khải lại bị
một trận hết hồn. Lần này thì anh ta mong có người đến bắt mình. Xế chiều hôm
ấy, bụng đói lắm rồi, Khải vẫn còn cố vượt qua một sườn núi, vì có sang bên kia
mới tìm được nhà trọ. Sườn núi không dốc lắm mà cây cối rậm rạp. Cách đấy không
xa có con suối khá rộng, hai bờ mọc toàn dâu da đất với quýt dại rất nhiều quả
chín nhưng chua gắt, ăn thử một múi ghê cả răng. Vào lúc mặt trời gác bóng,
Khải đã đến đỉnh đèo. Anh ta ngồi nghỉ nhấm nháp quả dâu da chợt thấy mấy con
khỉ bạc má trên ngọn cây bứa kêu chí choé có vẻ rất hoảng hốt. Chàng họ Lê
ngoái lại phía sau, bỗng dựng tóc gáy. Một con hổ vằn nằm phục cạnh gò đất cách
đấy chừng bảy tám mét. Cặp mắt nó như có phép thôi miên làm anh ta bủn rủn cả
chân tay. Thời gian như bị đông cứng lại. Sự sợ hãi đã lên đến đỉnh điểm. Lúc
này chỉ cần có một động tác bất cẩn là cái chết sẽ đến trong nháy mắt. Khải run
bắn nhưng vẫn chằm chằm nhìn vào mắt con mãnh thú. Nó khẽ ve vẩy đuôi, cặp chân
sau hơi nhổm lên lấy đà sắp sửa ra đòn thì anh ta ước lượng khoảng cách an
toàn, nhao sang bên phải, cắt ngang cú nhẩy của con hổ rồi bám vào một cành gõ
trắng leo lên chạc ba. Từ mặt đất lên đến chạc ba có khi phải đến hơn ba mét,
vậy mà không biết làm thế nào Lê Văn Khải leo nhanh đến thế. Con cọp vồ hụt, cứ
chạy vòng quanh cây gõ gầm thét. Trên đời này, không có gì kinh khủng hơn tiếng
hổ gầm, nghe chẳng khác gì tiếng ma quỷ phụ đồng gọi hồn người chết. Xuýt nữa
thì Khải tuột tay rơi xuống.
Suốt đêm hôm ấy, Lê Văn Khải
cứ ôm chặt lấy cành cây không dám chợp mắt. Con mãnh thú tiếc mồi chắc chỉ
quanh quẩn đâu đó chờ anh ta ngủ gật rơi xuống là xé xác. Phải đến gần trưa hôm
sau mới có mấy người lên núi. Bọn họ khoác súng quân dụng và súng săn tự tạo.
Khải từ trên cây gọi to, thấy họ đến gần mới dám tụt xuống.
Những người mang súng đều ở
xã Cao Long. Con hổ xám từ rừng Tân Lập về núi Nứa đã mấy tháng nay. Dân các
bản quanh vùng muốn đi chợ Đồng Vài đều vòng sang bản Puộc xa hơn mấy con dao
quăng nhưng đỡ phải làm mồi cho chúa sơn lâm. Chính con cọp này, năm năm hai đã
đón lõng ở hẻm núi Vòi vồ mất chín người vừa dân công vừa bộ đội. Dân bản Thó
bảo nó ăn thịt người nhiều đã thành tinh chẳng biết sợ là gì. Có lần đoàn bộ
đội đang hành quân giữa ban ngày, thế mà đến sạt một cái, nó vọt ra như ánh chớp, quắp luôn anh cấp dưỡng quàng
ba lô gạo sau lưng. Trung đoàn 274 thành lập hẳn một đội đặc nhiệm rình bắn con
cọp nhưng nó có tài xuất quỷ nhập thần,
luôn biết cách thoát khỏi các loại bẫy và đặc biệt giỏi tránh đạn. Ba chiến sĩ
bị nó tát chết, một bị bóc hẳn mảng lưng và một rách tai là kết quả đáng buồn
sau hai tháng luồn rừng theo dấu chân con mãnh thú của đội đặc nhiệm. Đầu năm
năm ba, con hổ chuyển địa bàn về Lũng Vài hoạt động. Cứ tầm lặn mặt trời, nó
lại đến đầu xóm Còng, trèo lên chạc cây sung gầm thét hàng giờ rồi mò vào vác
bò, lợn, dê. Tiếng hổ gầm làm dân làng chết lặng, đóng chặt cửa, cắm nứa nhọn,
rắc rào gai quanh nhà. Hôm sau, mặt trời lên bằng con sào mới dám ra đồng. Khắp
các ngõ ngách chỗ nào cũng có vết chân cọp. Chưa đầy một tháng nó đã vồ mất ba
nhân mạng.
Ông Quản Tháp người Châu Khê
mới tản cư về xóm Còng mấy tháng có khẩu súng kíp nòng dài trông như gậy cời
bếp than rủ anh Khừm người Mán ra rình ở miếu Chùa. Con hổ biết có kẻ muốn hại
mình, nó không vào làng gầm thét nữa mà tìm cách vồ ông Tháp. Một tối, ông ta
vừa ra đến gốc cây si thì bất chợt con mãnh thú từ trong miếu phi ra. Nó dựng
hai chân sau, gầm lên một tiếng như sấm dậy làm ông thợ săn luống cuống đánh
rơi cả súng. Cũng may anh Khừm có khẩu trường mas vừa kịp xuất hiện, nhằm con
cọp bắn hú họa một phát. Sáng hôm sau mọi người mới biết nó trúng thương vì có
vết máu để lại. Từ đấy không thấy con hổ xuất hiện nữa. Mấy tháng sau có anh bộ
đội qua xóm Còng cho biết, con hổ xám bờm vàng dính đạn bàn chân trái phía sau,
bị thọt nên rất hung dữ. Lúc ấy nó đang luẩn quẩn vùng núi Nứa. Vậy là số Lê
Văn Khải còn cao.
Sau trận chết hụt vì hổ, dân quân xã Cao
Long đưa Khải về trụ sở. Ông Chủ tịch thương tình cấp cho anh ta tờ giấy thông
hành tạm thời. Từ đây lên Bắc Thoòng cũng gần. Ở đấy anh ta có bà dì họ lưu lạc
từ năm Kỷ Tỵ, nếu còn sống bây giờ cũng đã sáu mốt sáu hai.
Xã
BắcThoòng nằm ở một vùng bán sơn địa đất rộng người thưa, khắp nơi, chỗ nào
cũng thấy trồng chè với sắn. Chè búp ở đây nổi tiếng chẳng kém gì chè Tuyết ở
Chapa và Suối Giàng, Nghĩa Lộ. Cách đây hơn ba mươi năm, bà Hai có người em họ
tên là Thấm lấy một nhân viên kiểm lâm, được hơn một năm ông ta phải đổi lên
trạm Bắc Thoòng, bà Thấm theo chồng và từ ngày ấy không về làng. Thực ra chuyến
đi này Lê Văn Khải không mấy hy vọng. Ba mươi năm rồi, biết bao vật đổi sao
dời, làm sao tìm được một người anh ta chưa từng biết mặt với một cái địa chỉ
rất vu vơ. Tìm người chỉ là thứ yếu, cái chính là anh ta không thể chịu được sự
o ép bởi không khí ngột ngạt đầy bất trắc ở làng Cùa. Ở lại Ba Tổng, những
người như Lê Văn Khải có thể bị tống
giam bất cứ lúc nào chỉ cần chót thốt ra một lời không vừa tai các nhà chức
trách. Anh em họ Lê, trước mắt Bùi Quốc Tầm như một thứ tội phạm bị quản thúc
tại gia, hoàn toàn mất quyền công dân, lúc nào cũng phải chịu sự giám sát và
giáo dục của chính quyền nhân dân.
Gần nửa tháng, Lê Văn Khải đi khắp vùng Bắc
Thoòng nhưng không một ai biết vợ chồng ông cựu kiểm lâm. Chỉ còn xóm Cầu Gỗ có
hơn chục nóc nhà là chưa đến. Trời mưa bụi, đường mới mở toàn đất đá lổn nhổn.
Khải đang chật vật lên sườn dốc bỗng người lạnh toát vì một con trăn hoa thò
hẳn cái đầu mốc thếch từ lùm cây ngái xuống. Nó há cái miệng đỏ lòm phun phè
phè làm anh ta co rúm, lùi dần, lùi dần cho đến khi hẫng chân lăn xuống vực.
Bờ vực vừa
dốc vừa sâu, tận cùng là một con suối. Lê Văn Khải chẳng biết mình lăn bao
nhiêu vòng, mới đầu còn ý thức được, nhưng sau một vài cú va đập với đá tảng,
cành cây và các loại bụi gai thì anh ta thật sự bất tỉnh. Gần trưa, một cô bé
gánh củi ngang qua, nhìn thấy chiếc khăn gói vướng vào cành cây, đoán là có
người ngã xuống vực liền chạy về gọi ông. Hai ông cháu phải khó khăn lắm mới
đưa được Lê Văn Khải lên. Trên người anh ta hầu như chỗ nào cũng có vết xây
xát, không đá nhọn đâm thủng thì gai cào rách toạc. Một bàn chân trật khớp sưng
tấy lên, còn sống mũi bị dập rát như phải bỏng. Ông già nắn khớp chân xong, xoa
rượu mật gấu rồi bảo cô cháu gái rửa sạch các vết thương trên người Khải bằng
nước muối sau đó vào rừng lấy lá thuốc giã nhỏ đắp lên. Khi Lê Văn Khải ngồi dậy
được, ông già bảo:
- Dốc lên
xóm Cầu Gỗ thường ít người qua lại, may mà cái Thảo nhìn thấy khăn gói của anh
nếu không thì chẳng ai biết mà tìm.
Cho đến lúc
này Khải vẫn còn run bắn khi nghĩ đến con trăn :
- Cháu thấy
nó há mồn ra, phun phì phì nên mới bị ngã.
- Vùng này
lắm trăn mắt võng, thỉnh thoảng có cả trăn gió nữa. Loại to bằng khúc gỗ là nuốt được cả người đấy. Mà này,
anh lên tận xóm Cầu Gỗ làm gì?
- Cháu tìm
bà dì nghe nói hơn ba chục năm trước đã ở vùng này.
- Tên bà ấy
là gì?
- Là Thấm,
em bà Hai Thoả ở tổng Kim Đôi.
- Bà Hai
Thoả với anh là thế nào ?
- Là bà
Ngoại.
- Thế thì
tôi là Quyển chồng bà Thấm đây.
Khải ngập
ngừng:
- Còn …. bà
Thấm ?
- Bà ấy
cùng với bố mẹ con Thảo đã chết trong trận Tây càn Bắc Thoòng tháng bảy năm năm
hai. - Ông Quyển thở dài bảo - Chỉ còn hai ông cháu nên tôi cũng chẳng về quê
nữa mà ở đây để tiện chăm sóc phần mộ cho người đã khuất.
- Sao bảo
hồi ấy ông làm kiểm lâm cho Pháp cơ mà?
- Phải,
nhưng chuyện dài lắm để tôi kể cho anh nghe. - Ông già ngắm nghía Khải một lúc
rồi mới hỏi - Bây giờ anh định thế nào ?
- Cháu cũng
chưa biết được nhưng chắc chắn không thể về làng. Họ truy bức ghê lắm vì bố
cháu là Chủ tịch huyện bị Toà án đặc biệt của Đoàn ủy Cải cách xử tử do có kẻ
tố giác liên quan đến Quốc dân đảng.
Ông Quyển gật
đầu:
- Vậy thì
cứ ở đây, chịu khó làm không chết đói đâu mà lo.
Tối hôm sau
ông Quyển lại hỏi:
- Ở nhà có
được học hành tí nào không ?
- Cháu đã
tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp.
- Ạ chà,
thế là trình độ cao đấy. - Ông cựu nhân viên kiểm lâm tỏ ý thán phục -Mấy hôm
nữa cháu phải dạy em Thảo. Nó có được học mấy buổi i tờ nhưng hễ cứ đi lấy củi
là quên sạch.
Ông Quyển
là người Mạc Điền, thời trẻ đi mộ phu Nam Kỳ, khi sắp xuống tàu vào Nam, ông ký
Thuận giữ lại xin cho vào đồn điền Phố Hàng. Đây là vùng đất chuyên trồng thứ
chè Thái nổi tiếng Bắc Kỳ. Chủ đồn điền là Tây lai Laubart Nguyễn, chơi thân
với quan chánh kiểm lâm Henry Barthe. Một hôm Barthe đến mừng sinh nhật con gái
Laubart là Mariane, thấy người coolie[1]
nói được tiếng Pháp liền ngỏ ý muốn xin chủ đồn điền cho anh ta sang làm kiểm
lâm vì Sở lúc này đang cần tuyển nhân viên. Ông Quyển đã đỗ Cerificart, biết
chữ Quốc ngữ và tính toán thành thạo được Barthe cử về trông coi rừng Bắc
Thoòng.
Nghề kiểm
lâm vất vả, được mấy đồng bạc lương thì suốt ngày phải trèo đèo lội suối tuần
tra, chỉ cần lơ là một chút là cánh thương lái
thuê thợ sơn tràng lẻn vào rừng chặt gỗ quý đóng bè thả về xuôi kiếm lãi
bạc trăm. Nhưng sợ nhất vẫn là bọn quan chức phủ Thống sứ hoặc cánh tổng đốc,
tuần phủ địa phương cậy thế cho người khai thác gỗ mà không cần xin phép kiểm
lâm. Theo quy chế của ngành, rừng bị phá ít thì trừ lương nhân viên, bị phá
nhiều sẽ phải truy tố nếu không tìm được thủ phạm. Cho nên nghề này làm không
được lâu, có người chỉ sau vài tháng đã bỏ việc.
Lại nói về
ông Quyển. Rừng Bắc Thoòng rộng hơn sáu ngàn héc ta phần lớn là rừng đầu nguồn
toàn gỗ quý, lại gần suối Nậm Cơi, rất dễ vận chuyển ra sông. Hôm ấy, ông đang
tuần tra ở lô số ba thì nghe thấy tiếng cưa xoèn xoẹt, tiếng rìu chặt chan chát
phía chân đèo Đá Mài. Chắc lại bọn sơn
tràng chặt trộm do thằng Ba Đen cầm đầu. - Ông nghĩ vậy và xách súng chạy
đến. Không phải. Chúng là một đám lính khố xanh với bọn sơn tràng chừng hơn
chục tên đang ra sức đốn cây lát hoa cỡ hai người ôm. Ông Quyển lên đạn, chĩa nòng
súng vào bọn lâm tặc quát:
- Tất cả
dừng ngay lại ! Ai cho phép các anh phá rừng?
Một gã mặc
âu phục nhàu nát, đội mũ phớt, tay cầm chiếc roi ngựa, lại gần ông Quyển, giọng hách dịch:
- Anh là ai
?
- Tôi là
nhân viên kiểm lâm.
Tay mặc âu
phục nheo mắt chỉ roi ngựa vào đám lính khố xanh bảo:
- Họ đều là
người nhà quan Tuần tìm vài cây lát về đóng đồ. Anh cứ coi như không biết, sau
này cụ Tuần sẽ hậu tạ.
Ông Quyển
hỏi:
- Cụ Tuần
có giấy phép khai thác không ?
- Chặt mấy
cây xin giấy làm gì cho phiền phức. Thôi, bỏ qua đi. Đây, có chút gọi là để thày uống rượu.
- Không
được.- Ông Quyển lắc đầu. - Tôi nhận tiền lót tay để các người phá rừng là phải
vào tù. Cây lát này quan Chánh đã đánh dấu.
Một viên
đội khố xanh rút khẩu mauser khỏi bao da chỉ vào người kiểm lâm quát:
- Tôi hỏi,
anh nghe theo lệnh quan Tuần hay lệnh sở Kiểm lâm ?
Ông Quyển
vốn thẳng tính không chịu sự luồn cúi, nhìn tên đội cười gằn:
- Cấp trên
của tôi là ông Henry Barthe dĩ nhiên là tôi phải nghe theo ông ta.
- Thằng này
cứng cổ thật. - Viên đội hất hàm ra hiệu cho đám lính. - Anh em trói nó vào gốc
cây vàng canh kia.
- Các người dám chống lại sở kiểm lâm? - Ông
Quyển lùi lại, ngón tay đặt vào cò súng.
Gã mặc âu
phục nháy mắt với viên đội rồi thong thả bảo:
- Ở vùng
này không ai được phép vượt mặt quan Tuần. Anh đừng đem cái gã mắt xanh mũi lõ
nhãi nhép ấy ra doạ bản chức. Biết điều thì quay về và hãy im mồm.
Ông Quyển
định nhấn cò cho gã tham biện dinh Tuần phủ một viên đạn nhưng bọn lính khố
xanh đã nhanh hơn, nổ liền mấy phát thị uy. Đạn bay sát sạt bên tai làm viên
kiểm lâm sởn gai ốc.
Ba hôm sau
ông Quyển xuống núi gặp chánh kiểm lâm Henry Barthe nộp đơn xin thôi việc:
- Tôi không hoàn thành nhiệm vụ, để người
của quan tuần chặt mất cây lát quý, phụ lòng tin của ngài, xin được từ chức.
Henry
Barthe bảo:
- Có súng
trong tay sao anh không bắn vỡ đầu chúng nó ra?
Ông Quyển
nhăn nhó:
- Quả thật
lúc ấy không kìm được tôi đã định cho gã tham biện về chầu giời, nhưng bọn lính
khố xanh thằng nào cũng có súng.
Ngài chánh
kiểm lâm gật đầu bảo:
- Được, tôi
sẽ cho lão tuần phủ này biết tay.
- Nhưng
quan lớn phải cho tôi nghỉ việc
- Không
được. - Barthe phẩy tay. - Anh đã làm ở đấy mấy năm, bảo vệ rừng tốt lắm, giờ
xin nghỉ, ai chịu lên trên ấy ?
- Bẩm quan,
ngài là người Pháp không sao, chúng tôi dân bản xứ còn có gia đình. Cứ tình
hình thế này, chúng đốt nhà, giết vợ con
tôi lúc nào không hay. Đấy là chưa nói bọn Việt Minh đang hoạt động ráo
riết khắp nơi.
Cuối cùng
thì ngài chánh Kiểm lâm cũng phải chấp nhận. Ông ta vỗ vai người cựu nhân viên
của mình dặn:
- Lúc nào
muốn quay lại Sở thì cứ bảo tôi một tiếng.
Sau tết,
ông Quyển đưa vợ con về Bắc Thoòng. Năm bốn chín, tuy đã cứng tuổi nhưng ông
vẫn gia nhập địa phương quân. Giữa năm năm hai, lúc ấy ông đang chiến đấu ở
Đồng Sài thì Tây càn Bắc Thoòng, núi Nứa. Kế hoạch của chúng là bao vây, tiêu
diệt Trung đoàn 48 vừa bí mật hành quân qua đây để sang Lạng Sơn. Hai tháng sau
ông nhận được tin dữ, cả nhà bị chết vì đạn mortier câu trúng tranchée, chỉ còn
mỗi đứa cháu lúc ấy chín tuổi theo bạn sang bản Nậm Cốc là sống sót.
Cuối năm
năm tư, lúc ấy ông Quyển đã giải ngũ, về dựng lại nhà để chăm nom con Thảo. Đội
Cải cách truy ra cái quá khứ làm kiểm lâm cho Tây, bắt ông giam nửa tháng. Đứa
cháu gái ngày nào cũng phải mang cơm. Thật may, ông Chủ tịch xã lúc bấy giờ là
bạn đồng ngũ tìm mọi cách gỡ cho mới thoát tội.
Kể ra được
những nỗi trầm luân của cuộc đời mình, ông Quyển thấy tâm trạng bớt phần u uất.
Ông chép miệng bảo :
- Tôi dại
chứ ngày ấy đừng đăng ký mộ phu Nam
kỳ thì bà Thấm không mất sớm mà cũng chẳng có cảnh ông cháu lưu lạc đất khách
quê người như thế này.
Lê Văn khải
an ủi:
- Ở đời
chẳng biết thế nào mà đoán trước được số phận của mình đâu ông ạ. Như gia đình
cháu đây này, hoà bình rồi, chẳng bom rơi đạn lạc gì mà bỗng chốc trở thành mẹ
goá con côi. Người ta còn ép mẹ cháu phải lên đấu bố cháu để có thêm tội chứng
cho toà án xử tử.
Lúc ấy đêm
đã khuya. Rừng Bắc Thoòng thỉnh thoảng lại có tiếng hoẵng tác. Lũ chim ngủ gà
ngủ gật dưới ánh sáng mờ mờ của vành trăng khuyết. Ông Quyển rút trên giàn xuống
một tảng nai khô bảo Lê Văn Khải quạt than nướng rồi vào buồng lấy ra bình rượu
thuốc ngâm tắc kè.
- Làm chén
rượu cho ấm bụng.
- Cháu uống
kém lắm.
- Có thịt
nai khô ta nhấp nháp tí cho vui. - Ông Quyển bảo - Hồi còn đóng quân ở rừng Tân
Mộc ta có nghe được câu chuyện về một con hổ. Chuyện lạ lắm. Chưa biết chừng nó
chính là con hổ vồ hụt cháu trên núi Nứa.
- Thật hả
ông ?
- Ta cũng
không biết nhưng nói chung loài hổ sống rất lâu, càng già càng tinh khôn. - Ông
già nhắp ngụm rượu, khà một tiếng rồi bắt
đầu kể.
(Xem tiếp kỳ
sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét