NGUYÊN KHÍ
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
15. VUA LÊ NHÂN TÔNG
Nhợ đứt khôn cầm bầy
ngựa dữ
Quan cao nào đến dáng
người ngây.
(Bảo
kính cảnh giới -10. Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi)
Tháng 8, ngày mồng 6, giờ dậu, đại lâu thuyền chở di
hài vua Lê Nguyên Long có quan Hành quân Tổng quản, Thái uý Trịnh Khả và quan
Nhập nội Thiếu uý Tham tri chính sự Lê Thụ cùng đội thuyền chiến hộ tống, cờ
rủ, lặng lẽ không kèn không trống, về tới bến Đông.
Ngay đêm ấy lễ phát tang được cử hành tại điện Phụng Thiên.
Tin dữ loan đi khắp kinh thành: Vua bị Nguyễn Thị Lộ
giết.
“Ngày 12, đại thần là bọn Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê
Thụ nhận di mệnh cùng với bọn Lê Liệt, Lê Bôi tôn Hoàng Thái tử Bang Cơ lên
ngôi. Lúc ấy vua mới hai tuổi. Lấy năm sau là Thái Hoà năm thứ nhất”.(1)
***
Khi Bùi La
Việt dịch chương “ Thái phó Đinh Liệt”, có một chi tiết mà anh bỏ qua, nhưng
giáo sư Hoàng Nguyên muốn lấy lại.
Đó là khi Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh vừa cất giọng
đọc di chiếu của vua Lê Thái Tông thì “Hoàng Thái tử Bang Cơ cựa mình phịch một
bãi ra hoàng bào, rồi ngỏng chim tè một đường cong vào mặt các quan đại thần
đang quì mọp dưới sân rồng. Ai nấy đều cho là điềm lành, chứng tỏ Hoàng Thái tử
rất đắc chí khi nhận di mệnh lên ngôi Hoàng đế”.
Giáo sư Hoàng
bảo:
- Chi tiết này có vẻ dung tục không xứng với một đấng
quân vương, nhưng đó là sự thật lịch sử. Người dịch phải tôn trọng nguyên tác.
“Thọt bỉ nhân” chắp hai tay:
- Bỉ nhân xin nhận lỗi. Chẳng có gì qua mặt được giáo
sư.
Đỗ Chí Cao ngẫm ngợi một lúc rồi nói:
- Các cụ trong
“Đoàn gia văn phái” thâm thuý thật. Viết “Hoàng Thái tử đắc chí khi nhận di
mệnh lên ngôi Hoàng đế” là một cách phúng dụ. Thật ra phải hiểu là: “được làm
vua mà Bang Cơ sợ vãi đái ra quần”.
Ngô Tháp vỗ đánh đét vào đùi, đắc ý:
- Chí lý. Phải hiểu thế mới đúng thâm ý
của cụ Đoàn Khiêm, tác giả “ Long Thành tạp ký”. Các vị tính xem, Lê
Bang Cơ sinh ngày 9 tháng 5 năm Tân dậu, 1441, đến ngày 12 tháng 8 năm Nhâm
tuất, 1442, lên ngôi vua, vị chi là một năm ba tháng ba ngày, còn đái dầm ỉa
đùn, nói chưa sõi, chưa hiểu mô tê răng rứa là gì. Vậy mà, bà Hoàng Thái hậu
nhiếp chính đã bắt nhà vua phải làm những việc động trời...
Giáo sư Hoàng
Nguyên buồn bã:
- Quốc lệnh số 1 của vua Lê Nhân Tông là bắt giam
khẩn cấp vợ chồng quan Thừa chỉ Hành khiển, và sau đó mấy ngày,“ ngày 16 giết
Hành Khiển Nguyễn Trãi và vợ là Nguyễn Thị Lộ, bắt tội đến ba họ”(2)
Ông Thấp đi lại bàn lấy bộ “Đại Việt sử ký toàn thư”,
dở đúng trang cần tìm:
- Đây rồi, nói có sách. Quốc lệnh số 2 của ông vua
ỉa đùn này là:“Tháng 9 ngày 9, giết bọn
hoạn quan Đinh Thắng, Đinh Phúc, vì khi Nguyễn Trãi sắp bị hành hình, có nói là
hối không nghe lời của Thắng và Phúc”.(3) Và đây nữa, cả một chiến
dịch “ giết người diệt khẩu” được cho là của vị vua trẻ này. Đây,“ năm Giáp tý,
Thái Hoà năm thứ 2(1444), mùa thu, tháng 7 bắt giam Thái phó Lê Liệt”.4)
Xin nói thêm, cả Ngọc Kiều phu nhân Lương Minh Nguyệt và các con của Đinh Liệt
cũng bị bắt tống ngục trong đợt này. Sử ký không nói lý do. Nhưng ai cũng hiểu,
liên can đến tội danh dẫn đến cái chết của Đinh Thắng, Đinh Phúc, còn có vợ
chồng Đinh Liệt. Ông trưởng họ Đinh này có trong tay bản ghi chép của hai ông
quan hoạn họ Đinh về ngày sinh tháng đẻ của Hoàng tử Bang Cơ. Vợ chồng ông lại
sáng tác, tàng trữ những bài thơ, bài đồng dao mà bọn trẻ con Kẻ Mui, Kẻ Bưởi
hát về nguồn gốc của Bang Cơ. Mãi bốn năm sau, năm 1448, Đinh Liệt mới được ra
khỏi ngục Thiên Lao, còn bà Lương Minh Nguyệt, tác giả của những bài thơ, bài
đồng dao kia, phải ba năm sau mới được tha. - Ngô Tháp dở tiếp mấy trang nữa -
Và đây :“Năm Ất sửu, Thái Hoà thứ 3 (1445), mùa đông , tháng 10, Nhập nội Đô
đốc Lê Xí có tội, vua định công khai xử theo luật pháp, nhưng vì Xí là bề tôi
cũ có công lao, đáng được hưởng luật bát nghị, nên chỉ bãi chức”.(5) Các
vị nhớ cho là Đinh Liệt, Nguyễn Xí đều là bậc công thần, cả hai vị này đã bị
Thị Anh bắt ép để đưa Bang Cơ lên ngôi. Còn đây mới thực là tàn ác, thảm án này
không kém gì thảm án Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, mà hơn năm trăm năm nay vẫn
còn nằm trong bóng tối của lịch sử. Các vị nghe này:
“Năm Tân mùi,
Thái Hoà năm thứ 9 (1451), mùa thu, tháng 7, ngày 26, giết Thái uý Lê Khả và
con là Lê Quát, Tư khấu Trịnh Khắc Phục và con là Phò mã Đô uý Trịnh Bá Nhai.”
Tiếp đó Thái hậu giết tiếp Tạ Thanh để bịt đầu mối. Trời ơi, hai võ quan lừng
lẫy chiến công như Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục, không chỉ oanh liệt trong khởi
nghĩa Lam Sơn, mà còn vô cùng oanh liệt trong những cuộc tiễu phạt Chiêm Thành
sau này, những khai quốc công thần, văn võ song toàn như Trịnh Khả, người từng
nín nhịn, thoả hiệp trong vụ án Lệ Chi
Viên, đành nuốt nước mắt cùng với Đinh Liệt để cho Nguyễn Thị Anh chém đầu vợ chồng
Nguyễn Trãi, vậy mà vẫn không thoát được lưỡi dao quyền lực tàn bạo dưới triều
vua Lê Nhân Tông. Đó, các vị thấy chưa? Tác giả của những cuộc thanh trừng tàn
bạo này là vua Lê Nhân Tông hay Thái hậu nhiếp chính Nguyễn Thị Anh? Các vị nên
nhớ rằng, mãi tới năm 1453, khi Lê Nhân Tông lên 13 tuổi, bà Thái hậu mới
nhường quyền cho ông trị vì đất nước. Vì vậy có thể khẳng định rằng, suốt mười
năm đầu triều vua Lê Nhân Tông, quyền lực nằm trong tay Thái hậu Nguyễn Thị Anh
và đồng bọn Nguyễn Phù Lỗ, Tạ Thanh, Lương Đăng, Lương Dật…
Nhà thơ Huỳnh Đạo
ngồi trầm ngâm. Khi ngẩng lên, hai khoé mắt
ông ngấn ướt.
- Mỗi lần nghĩ
đến cái chết oan khuất của Ức Trai và Đức bà Nguyễn Thị Lộ, cùng mấy trăm con
người trong gia tộc, tôi không thể cầm lòng được. Tiếc rằng lịch sử còn để lại
nhiều khoảng tối quá…
Ông Cao cười chua chát:
- Tối gì? Sáng bừng lên ấy chứ. Các vị hãy đọc xem
quốc sử đánh giá thế nào về mười bẩy năm trị vì của vua Lê Nhân Tông, mà thực
chất là quyền lực nằm toàn bộ trong tay Thái hậu Nguyễn Thị Anh - Cao bảo Ngô Tháp cho mượn bộ “Đại Việt sử ký
toàn thư”, dở trang đã đánh dấu - Đây là
lời bàn của sử gia Phan Phu Tiên, tác giả của “Việt âm thi tập”, bộ hợp tuyển
thơ văn đầu tiên của nước Việt, người được vua Nhân Tông giao cho biên soạn:
“Đại Việt sử ký tục biên” vào năm 1455: “Nhân Tông lên nối ngôi vào tuổi ấu
thơ, bên trong có mẫu hậu buông rèm trông coi chính sự, bên ngoài các đại thần
đồng lòng phò tá trị nước, cho nên trong khoảng 17 năm, thiên hạ thái bình, an
cư lạc nghiệp, xứng đáng là vị vua nhân từ…”
Ông Thấp chen ngang:
- Đó là đánh giá của nhà cầm quyền. Còn giới thức giả
đánh giá thế nào, phải đọc bài “Trung
hưng ký” viết năm Quang Thuận.
- Có ngay đây - Ông Cao mở tiếp mấy trang, nơi có bài
“ Trung hưng ký”:
“ Nhân Tông mới lên hai tuổi đã sớm nối ngôi vua,
Thái hậu Nguyễn Thị Anh là gà mái gáy sớm, Đô đốc Lê Khuyển như thỏ khôn giữ
mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng
tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân yêu nắm quyền vị, nạn hối lộ được
công khai. Việc văn giáo lặng lẽ như băng hàn, người hiền tài phải bỏ cánh. Bậc
túc nho như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì
đẩy vào chỗ nhàn, phường dốt đặc ồn ào như ong đàn nổi dậy, như chó chuột nhe răng. Tể
thần như Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chưởng
binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt, chẳng sao hiểu được bốn mùa một năm. Bọn
lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, người tài sỹ như
Nguyễn Mộng Tuân thì đẩy vào vòng tai họa. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi việc
thảy đều đổ nát. Văn giai như Công Soạn
tuổi gần tám mươi, tể thần như Lê Ê không biết một chữ. Bọn trẻ không biết
nghĩ, làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi, trở thành mối họa. Bán quan
mua kiện, ưa giàu ghét nghèo. Hiền tài là rường cột của triều đình mà sạch
không như quét đất. Văn chương là khí vận của nhà nước mà im lặng tựa cỏ khô.
Bọn xiểm nịnh được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử. Hành khiển Nguyễn Hữu
Quang, nội mật Lê Hoan Chi, hoạn quan chừng năm sáu bọn mà không một người đóng
cửa cho nghiêm; cấm vệ Lê Đắc Ninh, chỉ huy Lê Hoằng Dục, vệ sĩ đến tám chín lũ
mà không một ai mang mộc che đỡ. Lòng người sôi động, đường sá xôn xao. Họ
ngoại như Văn Lão, Xương Lê, lòng như quỷ quái, vị không như Trần Lựu, Đỗ Tư ai
chẳng cười chê? Cửa ngõ thì sơ sài, tay không cũng phá nổi. Thế là nó dẫn quân
cú vọ cáo cầy, ngầm nuôi mưu kế cướp ngôi phản nghịch. Bọn tặc thần Phạm Đồn,
Phan Ban, Trần Lăng, Ngô Trang và phường chó lợn hơn ba trăm đứa, nửa đêm dám
cả gan bắc thang trèo tường lẻn vào như vào chỗ không người. Vua và Hoàng thái
hậu đều bị hại, thương thay!”(6)
Ông Thấp sướng quá vỗ tay cười:
- Nghe cứ như báo mạng lề trái bây giờ. Phản động gấp
trăm lần trang Webside “Thọt bỉ nhân” ấy
các bố nhỉ. Cái tay “Trung hưng ký” này đại phản động. Cứ như viết về triều
đình Mubarak, Gaddafi, Kim Jong Il và các chế độ độc tài. Các vàng sử thần Phan
Phu Tiên, lẫn sử thần Ngô Sỹ Liên cũng không dám viết như “Trung hưng ký”. Ông
tác giả này mà viết vào lúc Nguyễn Thị Anh đang làm mưa làm gió trên ngai vàng
thì khó mà toàn thây. Tài tình nhất là cái đoạn này: “Hiền tài là rường cột của
triều đình mà sạch không như quét đất. Văn chương là khí vận của nhà nước mà im
lặng tựa cỏ khô. Bọn xiểm nịnh được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử.” Ha
ha…Kẻ đao bút được tiến cử. Giỏi, giỏi quá. Thế mới đáng mặt sử gia chứ.
Chú thích:
(1), (2), (3), (4), (5), (6): Đại Việt sử ký toàn thư
NGUYÊN KHÍ
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
16. SỬ
THẦN NGÔ SỸ LIÊN
Dưới công danh đeo khổ nhục
Trong dầu dãi có phong lưu.
(Ngôn chính thi-2 -
Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi)
Bấy giờ khắp kinh thành Đông Kinh như có loạn. Cơn
gió độc “Nguyễn Thị Lộ giết vua” lan đi, làm dựng tóc gáy mọi người.
Tiếp đến là tin sét đánh: Nguyễn Trãi đang bị giải từ Côn Sơn về kinh. Ngày 16 sẽ
tru di ba họ.
Không biết từ đâu, xầm xì một truyện hãi hùng: “Rắn
báo oán”.
Chuyện rằng:
Hồi cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh mở trường dạy
học tại Trại Ổi, Nhị Khê, ông cùng học trò phát cỏ trong vườn để dựng lớp học.
Đêm ấy, ông nằm mộng thấy một người đàn bà dẫn đàn con lít nhít năm sáu đứa đến
vừa khóc lóc vừa cầu xin ông hãy thư thả cho vài hôm, vì bận con mọn nên chưa
kịp dời nhà. Nguyễn Phi Khanh nhận lời. Sáng hôm sau ông định bảo học trò hãy
khoan dọn cỏ vườn. Nhưng đã muộn. Lũ học trò đã phát hiện ra ổ rắn, đập chết
bầy rắn con, đuổi rắn mẹ bị thương lủi đâu mất. Nguyễn Phi Khanh rất hối hận.
Nửa đêm ông ngồi đọc sách, bỗng có con rắn trườn trên xà nhà, nhỏ xuống một
giọt máu, đúng ngay chữ “tộc”, thấm qua ba lớp giấy, ứng với “tam tộc”. Con rắn
ấy, về sau thành tinh, ngầm mang thù oán, mới đầu thai thành Nguyễn Thị Lộ, tìm
gặp con trai Nguyễn Phi Khanh là Nguyễn Trãi, xướng hoạ thơ với chàng, kết
thành vợ chồng. Rồi cơ hội báo thù đã đến. Nguyễn Thị Lộ theo vua Lê Thái Tông
đến Lệ Chi Viên để giết vua, trả thù ba họ nhà Nguyễn Trãi…
Câu chuyện quái dị, nhưng ai cũng tin đó là món nợ
tiền kiếp. Ngay cả đám tiến sĩ tân khoa, như bọn Lương Nhữ Hộc, Nguyễn Như Đổ,
Ngô Sỹ Liên… cũng nghĩ rằng không một bậc đại khoa nào có thể sáng tác ra được.
Lại nói về Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Ngô Sỹ Liên. Ông người làng Ngọc
Hoà, huyện Chương Đức, phủ Ứng Thiên, từng tham gia nghĩa quân Lam Sơn cùng với
Nguyễn Nhữ Soạn, em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Trãi, từng giữ chức thư ký
trong quân doanh. Ngô Sỹ Liên vốn là bạn đồng môn với Nguyễn Khuê, con trai cả
Nguyễn Trãi, hơn Khuê ba tuổi. Vào tuổi bốn mươi, nhưng khi thấy triều đình mở
khoa thi Tiến sĩ đầu tiên, Ngô Sỹ Liên vẫn quyết chí ứng thí. Và ông đã đỗ đầu
hàng tam giáp 23 người, là người lớn tuổi nhất trong đám tân khoa tiến sĩ.
Vốn là người của triều đình, lại có mối quen biết rộng, có uy tín trong đám văn
thần, ngay sau khi thi đỗ, Ngô Sỹ Liên đã được nhận vào Quốc sử viện. Ông mơ
ước mình sẽ như một Thái Sử Bá nước Tề
xưa, uy vũ bất năng khuất, chỉ biết thờ phụng sự thật. Dù gươm kề cổ bắt ông
viết khác sự thật, cũng không bao giờ. Tham vọng của ông là sau này sẽ nối chí
sử thần Lê Văn Hưu thời Trần, viết bộ “Lê triều bản kỷ”để nối vào bộ “Đại Việt
sử ký”của Lê Văn Hưu, như bộ kỳ sử của Tư Mã Thiên thời Hán bên Tàu, truyền mãi
đến muôn đời. Vì thế trong suốt thời gian tham gia nghĩa quân Lam Sơn, dù trong
những thời khắc ngặt nghèo,ông vẫn miệt mài ghi chép không bỏ sót một sự kiện,
một nhân vật, một diễn biến lịch sử nào.
Được theo hộ giá vua Lê Thái Tông trong chuyến tuần
du miền Đông và duyệt binh ở thành Chí Linh, Ngô Sỹ Liên càng nhận rõ thiên
chức sử gia của mình. Có ba nhân vật trong chuyến đi này khiến ông vô cùng cảm
phục và kính trọng, mà ông đã dành những dòng bất hủ trong những ghi chép nhật
trình, đó là đức vua Lê Thái Tông và vợ chồng quan Thừa chỉ Hành khiển Nguyễn
Trãi.
Cho nên, việc bà Nguyễn Thị Lộ bị vu tội trong cái chết đột ngột của nhà vua
và Nguyễn Trãi bị vạ lây, sẽ bị giết ba
họ trong những ngày tới, khiến Ngô Sỹ
Liên vô cùng phẫn uất, như chính ông và những kẻ sĩ Long Thành bị bức
tử. Rõ thật là những mưu toan vu cáo trắng trợn. Một thảm oan tày trời. Kẻ tiếm
quyền là Nguyễn Thị Anh và Lam Sơn hội đã gây ra cái chết của vua Lê Thái Tông
để lấy cớ diệt vợ chồng quan Thừa chỉ Hành khiển để mong đưa giọt máu khác loài
lên ngôi báu. Là người “nằm trong chăn”, hằng ngày ra vào tam cung lục viện,
sao Ngô Sỹ Liên không biết rõ cái tổ con chuồn chuồn? Ông quá biết rõ Lê Nguyên
Sơn và cái chết tức tưởi trên lưng ngựa của ông ta. Ông thường lui tới nhà quan
Đại Tư mã Đinh Liệt, đàm đạo văn chương và tìm lời hát xướng cho Ngọc Kiều phu
nhân, nên phong thanh đã hiểu những lời bóng gió của đôi vợ chồng này về dòng
dõi Bang Cơ. Ông đã ghi lại toàn bộ những lời đồng dao của bọn trẻ Kẻ Mui, Kẻ
Bưởi, ngõ hầu để người đời thấu hiểu những mưu mô quyền lực đen tối…Không ai có
quyền, không thế lực nào có thể bắt ông uốn cong ngòi bút, viết trái sự thật.
Dù tim óc ông lầy đất, da thịt ông bị bọc trong da ngựa, thì sự thật và chân lý
vẫn phải được sáng tỏ.
Không ngờ tâm trạng của Ngô Sỹ Liên cũng trùng hợp
với nỗi lòng của đám tân khoa tiến sĩ. Cả bọn xì xầm rỉ tai nhau. Cả bọn bức
xúc như đàn kiến bò quanh chảo lửa. Rồi họ tìm cớ để tụ tập nhau, làm một việc
gì đó. Ngô Sỹ Liên đưa ra diệu kế:
- Tai mắt Hoàng hậu đang cài khắp kinh thành. Bất cứ
cuộc tụ bạ vô cớ nào đều có thể ghép vào tội phản nghịch. Chúng ta phải tìm một
lí do để che mắt bọn thám mã…Ngày mười
một kị nhật ông nội tại hạ. Mời các vị đến ăn giỗ tại tư dinh …
Lương Nhữ Hộc như kẻ vớ được vàng:
- Chí phải. Nhưng ngày mười một thì lâu quá. Việc gấp
lắm rồi. Hay huynh trưởng làm giỗ sớm lên đi…
Cả bọn đều cho là phải.
Trưa ấy, tân Trạng nguyên Nguyễn Trực, dù đang chịu
tang cha ở Bối Khê quê nhà cũng mặc áo
trắng, đi dày cỏ ra kinh đô.Tin Ức Trai
tiên sinh đã bị bắt đang trên đường giải về triều, khiến Nguyễn Trực thất kinh.
Đang dâng lễ cúng cơm cha, chàng đánh rơi khay rượu, người lạnh toát. Đêm qua,
khi thấy một ngôi sao rực sáng ở phương đông rơi xuống, Nguyễn Trực đã biết
trước một điềm gở, nhưng không ngờ lại vận vào Ức Trai tiên sinh, người mà
chàng kính trọng và biết ơn như một người cha, một người thầy. Sinh thời thân
phụ chàng là Tiến sĩ Nguyễn Thời Trung, từng nói với chàng rằng:“Nếu con học
được Ức Trai tiên sinh một chữ, con sẽ có một thiên sách trong đầu. Con người
này là nguyên khí quốc gia mà không phải thời nào cũng có được”. Chính lời dạy
của cha đã hướng đường cho Nguyễn Trực tìm đến thụ giáo Ức Trai ngày ông thất
sủng về mở trường ở Kẻ Mai, Khuyến Lương. Và chàng đã được hạnh ngộ với Ức Trai
phu nhân tại đó. Kỳ thi Hương đầu tiên năm Giáp dần (1434) mà chàng đỗ đầu khi
mới mười hai tuổi, chính là nhờ một năm được thụ giáo Ức Trai. Nhất tự vi sư,
bán tự vi sư. Huống chi Ức Trai tiên sinh là đại sư biểu của chàng. Bài sách
văn thi đình của chàng được vua Thái Tông khen ngợi và được điểm cao tuyệt đối
chính chàng đã lấy cảm hứng từ Ức Trai, một tài năng lỗi lạc, một nhân cách cao
vời. Vậy mà khi vầng thái dương vừa khuất, nguyên khí đã bị vùi dập. Thái Tông
vừa nằm xuống, Nguyễn Trãi liền bị hại. Đau đớn thay! Những kẻ hậu sinh như
Nguyễn Trực nếu không tìm cách giải cứu quan Thừa chỉ Hành khiển và quan Lễ
nghi Học sĩ cùng ba họ…thì còn mặt mũi nào sống trong trời đất!
Hầu như cả ba mươi ba tiến sĩ khoa Nhâm tuất đều lục
tục đến tư dinh tiến sĩ Ngô Sỹ Liên.
Có một người khách từng ghi danh dự thi khoa tiến sĩ,
nhưng đến phút chót, vì mẹ ốm, đành rời trường thi về phụng dưỡng mẹ, đó là
giám sinh Thân Nhân Trung(1), người Yên Dũng, Bắc Giang. Thân Nhân
Trung vốn là bạn thân với Ngô Thế Dụ, người Kim Hoa, Bắc Giang. Nhận tin nhắn
của các bạn, chàng vội mang theo một bình rượu, ba thẻ hương, khăn gói đi ngay.
Hăng hái nhất là hai vị đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất
thân Trịnh Thiết Trường và Nguyễn Nguyên Chẩn. Thiết Trường người Yên Định,
Thiệu Thiên. Nguyên Chẩn người Thanh Lâm, Nam Sách, văn tài lực học hơn người,
tin chắc kỳ thi vừa rồi sẽ giành ngôi tam nguyên, nhưng khi xướng danh chỉ đỗ
hạng tam giáp, ngang với bọn Ngô Sỹ Liên, Nguyễn Duy Tắc, Phạm Viên, Bùi
Hựu…Hai người tự ái, không nhận sắc phong của nhà vua, và xin được ghi danh dự
thi tiếp kỳ sau(2). Biết tin có buổi kỵ nhật ở nhà Tiến sĩ Ngô Sỹ
Liên, Trịnh Thiết Trường và Nguyễn Nguyên Chẩn là người đến góp giỗ đầu tiên.
Triều đình cấm hội hè, nêm đám gia nhân nhà Ngô Sỹ
Liên phải làm cỗ từ đêm hôm trước. Một con lợn hai người khiêng được thịt sẵn
từ quê, lại thuê thợ giò chả Ước Lễ trổ tài pha chế. Mang tiếng là giỗ cha, rồi
bàn chuyện cứu thầy, lại kết hợp khao các bạn đồng khoa, không thể lúi xùi.
Tùng tiệm cũng phải mười mâm.
Trong nghi ngút
khói hương và cỗ bàn bày trên những lá chiếu cạp điều, Ngô Sỹ Liên mở đầu câu chuyện:
- Thưa các huynh đệ đồng khoa. Hôm nay nhân ngày kỵ
nhật ông nội kẻ hèn mọn này, xin có chén rượu nhạt kính cáo tổ tiên và cũng là
duyên cớ họp mặt các huynh đệ…
Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Trần Văn Huy, người Bất
Bạt, Thao Giang vội đứng lên khoanh tay xin nói:
- Huynh trưởng Ngô Sỹ Liên không cần phải rào đón trước sau. Sự có mặt của các tiểu đệ hôm nay đã nói hết cả rồi. Điều chúng ta
cần bàn là phải làm gì để cứu tính mạng của
Ức Trai tiên sinh cùng Lễ nghi Học sĩ và ba họ. Cứu người như cứu hoả.
Thời gian chỉ còn tính từng ngày
Trần Đương, người Đông Yên, Khoái Châu nói:
- Chưa có lý do gì để bắt tội Ức Trai tiên sinh. Nếu
bà Nguyễn Thị Lộ mắc tội giết vua thì chỉ mình bà Lộ chịu tội chết. Hà cớ gì
liên luỵ đến Nguyễn Trãi?
Có tiếng ai đó thì thào:
- Nghe nói “Nguyễn Thị Lộ người rất đẹp, văn chương
rất hay,vua thích gọi vào cung phong làm Lễ nghi Học sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh”(3).
Khi đón xa giá ở Côn Sơn, bà Lộ nghe theo lời xúi bẩy của Nguyễn Trãi quyết đòi
theo vua về triều. Nửa đêm ở Lệ Chi Viên, bà Lộ lẻn sang phòng vua vầy vuộc mây
mưa. Vua ham của lạ, bị đột tử ngay trên bụng người đẹp…
- Thế là phạm phòng rồi các huynh ạ - Nguyễn Nguyên
Chẩn, người trẻ tuổi nhất bọn, nhưng tỏ ra thông thạo chuyện phòng the, vội
nói - Dân gian gọi đây là bệnh phạm
phòng, người đàn ông quá hăng hái, bị kiệt sức, có thể chết trên bụng người đàn
bà. Thế cho nên, trước khi con gái vu quy, bà mẹ phải dạy con cách cứu chồng và
không quên tặng con gái một cái trâm, lúc nào cũng giắt trên búi tóc. Trong
trường hợp phạm phòng, người đàn bà phải thật bình tĩnh, ôm chặt lấy người
tình, rồi rút trâm, ấn vào đốt xương cùng của người đàn ông. Chắc chắn “vị
chiến binh của chúng ta” sẽ được cứu
sống…
Nhiều tiếng cười cố nén. Lúc khác chắc đã vỡ nhà. Rồi
ai đó bình luận:
- Chắc bà Lộ vội quá không mang trâm theo.
Ngô Sỹ Liên hốt hoảng xua tay:
- Không được
buông tuồng phạm thượng. Chỉ có kẻ vô đạo mới dám nói như vậy. Chúng mình là kẻ sĩ, phải uốn ba tấc
lưỡi trước khi nói. Không thể bịa đặt trắng trợn như thế được. Nói vậy rõ ràng
là đã ghép cho quan Lễ nghi Học sĩ tội khi quân, dùng mỹ nhân kế để hãm hại
quân vương.Thực tế, quan hệ giữa Hoàng thượng và quan Lễ nghi Học sĩ là quan hệ vua tôi, thậm chí trò với thầy, con với mẹ. Bởi vì, tại hạ biết
rất rõ, hồi nghĩa quân Lam Sơn còn ở miền tây Nghệ An, Thanh Hoá, khi đó Hoàng
tử Nguyên Long còn nhỏ, mới ba, bốn tuổi, bà Lộ từng ẵm bế, tắm rửa, cho ăn,
bảo ban dạy dỗ Hoàng tử như người nhũ mẫu. Rất nhiều câu ca dao, chuyện cổ tích
mà Hoàng thượng thuộc và nhớ là do bà Lộ truyền dạy. Nhà vua mất mẹ từ ba tuổi,
nên khao khát tình mẹ. Chúng ta không được phép xúc phạm tình cảm thiêng liêng
ấy…Vả lại, Hoàng thượng vốn là học trò của Ức Trai, luôn coi Ức Trai tiên sinh
như nghĩa phụ, kính trọng tôn vinh không sao kể xiết. Lẽ nào một đấng quân
vương như Nguyên Long, luôn sẵn có hàng trăm mỹ nữ cung tần vây quanh, lại làm
chuyện loạn luân ấy được? Bịa tạc như vậy là phỉ bang hoàng tộc, bôi nhọ triều
đình. Tội đáng chém..
Mọi người lặng đi, thấm thía những điều Tiến sĩ Ngô
Sỹ Liên vừa nói.
Bỗng có tiếng đập trán đánh bốp. Một giọng uất nghẹn
cất lên:
- Đại loạn. Nhà có gia pháp. Nước có luật pháp. Giết
một mạng người đâu phải chuyện dễ. Huống chi quan Thừa chỉ Hành Khiển là một
trọng thần, có công khai quốc? Chỉ riêng áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại
cáo” đã làm cho tác giả của nó bất tử. Ai dám
xử tội Ức Trai? Tiểu đệ tuy tài hèn sức mọn nhưng sẽ quyết sống mái với
kẻ nào dám làm việc phản đạo đó.
Nhìn dáng người lẻo khẻo và vẻ hung hăng tức cười của
Trần Đương, nhiều kẻ cười ồ.
Bùi Lôi Phủ người Phú Xuyên, Thường Tín trừng mắt
nhìn bọn người vừa cười:
- Sao lại cười Trần huynh? Bọn chúng ta tuy trói
gà không nổi, nhưng rất cần tráng khí
như Trần huynh. Chỉ cần có tráng khí, mỗi chúng ta đều có thể trở thành một Kinh Kha. Chúng ta đang bàn
cách cứu Ức Trai tiên sinh. Vậy thì phải hành động chứ không thể nói suông. Các
huynh hãy bàn cách nào để cứu bằng được Ức Trai tiên sinh.
- Tiểu đệ có một kế sách.
Mọi người đổ dồn mắt về phía người vừa nói và nhận ra
một người mặt đỏ như chu sa, dáng cổ quái như một võ tướng. Đó là Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Hoàng Sằn Phu,
người Vũ Ninh, Thiệu Thiên.
- Kế sách gì? - Ngô Sỹ Liên sốt ruột.
Hoàng Sằn Phu ngó quanh, thấy cửa đã đóng kín, bèn hạ
giọng:
- Ta có thể đưa quân các đạo về triều giải cứu Ức
Trai. Trong các đạo, Bắc đạo và Đông đạo là nơi chịu ơn Nguyễn Trãi nhiều hơn
cả. An Bang đang là đất dụng binh của Thái uý Trịnh Khả và Tư khấu Trịnh Khắc
Phục. Vả lại người đang giữ binh quyền trấn Nam Sách hạ là Đô uý Trịnh Bá Nhai,
con trai Tư khấu Trịnh Khắc Phục…
Trịnh Thiết Trường lắc đầu, ngửa mặt lên trời than:
- Hoàng tiên sinh đang đòi với sao trên trời. Đã
có lệnh phong toả các ngả về kinh đô
rồi. Các đại tướng Lê Ê, Lê Hiệu, Lê
Bôi, Lê Bí, Lê Khuyển, Lê Ngang, Lê Thọ
Vực cùng Lam Sơn hội đang thống lĩnh binh mã bảo vệ các điểm xung yếu. Hàng trăm trạm gác điếm
canh mọc như nấm khắp các ngả đường về kinh. Những ai là người thân tín của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ đều bị theo dõi. Tại hạ là người trong họ Trịnh,
đang lo cho tính mạng của quan Thái uý Trịnh Khả và quan Tư khấu Trịnh Khắc
Phục khó vẹn toàn kỳ này. Các huynh không biết rằng, ngay trong đêm đưa xa giá
về nội cung, Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh đã ép quan Tổng quản Hành quân Trịnh Khả
và Tư không Trịnh Khắc Phục không được dời di hài nhà vua nửa bước. Cả đội quân
thánh dực do Tư mã Lê Ê và Tư khấu Lê Hiệu thống lĩnh lúc nào cũng kèm hai ngài
như cặp chả. Họ đã bị bắt giữ làm con tin cả rồi.
Ngô Sỹ Liên nói:
- Người mà chúng ta kỳ vọng nhất là quan Thái phó
Đinh Liệt và quan Đại đô đốc Nguyễn Xí, cũng đã bị khống chế. Thâm độc nhất
là Thái hậu đã bắt ép Thái phó Đinh Liệt
phải nhận chức Chánh pháp quan toà Đại hình để xử Ức Trai tiên sinh…
Nguyễn Đạt, người Thanh Đàm, Thường Tín, bỗng nêu câu
hỏi:
- Xin hỏi huynh trưởng Ngô Sỹ Liên. Nghe nói, lúc đức
Vua lâm chung, quan Tổng quản hành quân Trịnh Khả là người túc trực bên giường
ngự, đúng không?
Ngô Sỹ Liên nói:
- Chuyện hơi dài dòng, nhưng xin kể vắn tắt. Số là, sau khi thuyền ngự dời Côn Sơn xuôi cửa
Lục Đầu vào sông Thiên Đức,“ qua mộ Bạch
Sư ở cầu Bông, xã Đại Toàn, huyện Quế Dương thì thuyền ngự không đi lên được.
Các quân hết sức kéo dây cũng không nhúc nhích, hình như có người giữ lại.Vua
bèn sai trung sứ đi hỏi khắp những người già cả xứ ấy xem chỗ này có vị thần
nào. Các cụ già bảo: “Ngày xưa có người tên là Bạch Sư, khi còn sống rất tinh
thông pháp thuật. Sau khi mất chôn ở ven sông, thường có hiển linh, người xứ
này vẫn tế thần long trọng lắm”. Trung sứ hỏi:
“Tế bằng thứ gì?” Người già nói: “ Tế bằng nghé”.Trung sứ đem việc ấy về
tâu. Vua sai đem nghé non đến tế thần. Bấy giờ thuyền ngự mới đi được.”(4)
- Điềm gở rồi – Vũ Lãm, người Kim Động, Khoái Châu
nói chen ngang - Lẽ ra nhà vua nên quay lại thành Chí Linh đợi ngày tốt hãy về
triều.
- Từ lúc ấy, ngọc thể của nhà vua bất an - Ngô Sỹ
Liên nói tiếp - Khi về đến vườn vải huyện Gia Định, tức là Lệ Chi Viên, nhà vua
bỗng gặp cơn cảm mạo. Khi ấy, Nội quan Nguyễn Phù Lỗ và Hữu hình viện đại phu
Trần Phong do Hoàng hậu lệnh chỉ, đã mang theo các cung tần thị nữ và bốn quan
ngự y thuộc Quảng Tế Lệnh từ kinh đô xuống, cùng với quan Tổng quản hành quân và
Nội quan Tạ Thanh, bọn giám quan Lương Dật, Đinh Phúc, Đinh Thắng… túc trực
chăm sóc sức khoẻ cho Hoàng thượng. Tối ấy, dân làng Đại Lại tổ chức lễ khao
quân, dâng ngự thiện. Nhà vua tuy hơi mệt, nhưng rất vui, ban yến và ngự tửu
cho các quan và các phụ lão. Quan Lễ nghi Học sĩ cũng được vua ban ngự tửu như
tất cả mọi người. Tiệc tan, mọi người về chỗ nghỉ, đám văn thần thì tụ tập nhau
ngoài vườn Quỳnh ngâm thơ , thù tạc . Bọn võ quan thì túm tụm từng chiếu uống
rượu, hút thuốc và chơi bài bạc. Nửa đêm thì bỗng có tin báo: Đức vua đang nguy
kịch. Khi ấy, quan Tổng quản hành quân đang hầu giá bên Hoàng thượng…
- Vậy là đã rõ
– Tiếng ai đó nấc lên – Không có chuyện bà Nguyễn Thị Lộ giết vua. Càng không
có chuyện bà Lộ ngủ với vua. Bằng cớ là từ lúc vua mắc bệnh nguy kịch, quan
Tổng quản hành quân Trịnh Khả hầu hạ thuốc men không dời lúc nào.(5)
Rồi Nội viện Nguyễn Phù Lỗ, Nội quan Tạ Thanh, Hữu hình viện Trần Phong phái
các cung phi thị nữ và bốn quan ngự y túc trực chăm sóc. Bậc đế vương trẻ tuổi
giữa ly cung đèn nến sáng trưng, mỹ nữ cung tần túc trực vòng trong vòng ngoài,
quân cấm vệ gươm giáo đằng đằng, trăm tai nghìn mắt chĩa vào, làm sao lại để
một mình quan Lễ nghi Học sĩ chăm sóc để rồi lựa thời cơ ngủ với Vua? Rõ là vu
cáo trắng trợn. Một màn kịch vụng về, kinh tởm.
Mọi người cùng nhao nhao:
- Nhà vua bị trúng phong từ mộ Bạch Sư, nửa đêm bất
đắc kỳ tử.
- Có kẻ mưu giết vua rồi vu cho bà Lộ.
- Một mũi tên mà trúng hai đích.Thâm độc thay!
Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Phạm Cư, người Thượng
Phúc, Thường Tín, vừa lau nước mắt, vừa nói:
- Việc khẩn cấp lắm rồi. Bây giờ không phải là lúc tìm nguyên nhân. Các sư huynh, làm cách
nào để cứu Ức Trai tiên sinh?
Mọi người đổ dồn mắt vào Trạng nguyên Nguyễn Trực.
Nguyễn Trực chắp hai tay xá mọi người, rồi nói:
- Tiểu đệ bận việc tang cha, không được hộ giá nhà vua về Côn Sơn thăm Ức Trai như các sư huynh. Đó là niềm nuối tiếc không
nguôi. Nay, Vua đột ngột băng hà, quan Lễ nghi Học sĩ và Ức Trai tiên sinh đang có nguy cơ bị bắt tội chết. Không ai tin rằng hai nhân vật
đáng tôn kính bậc nhất nước Nam
này lại có âm mưu hãm hại Vua. Giết Vua để làm gì? Vì sao phaỉ giết Vua?Câu hỏi
này, nếu đặt vào trường hợp tráng sỹ
Kinh Kha nước Vệ thì quá dễ trả lời. Bởi
vì Tần Thuỷ Hoàng là một bạo chúa. Không giết Tần vương thì muôn dân rên xiết,
trăm họ điêu linh. Nhưng đức vua Thái Tông ta thì khác. Nhà vua đang bắt đầu
một thời kỳ hùng lược. Chưa bao giờ Người nhìn rõ tầm vóc và giá trị của Ức
Trai tiên sinh và quan Lễ nghi Học sĩ như bây giờ, cũng như chưa bao giờ nhà vua
đặt kỳ vọng vào bọn kẻ sĩ tân khoa chúng ta, những học trò yêu của Ức Trai, và
coi chúng ta như lớp người cùng thế hệ, đồng tâm, đồng chí…cùng nhà vua chấn
hưng đất nước. Các huynh thử nghĩ xem, nếu như quan Thừa chỉ Hành khiển già
nua, miệng nói không ra hơi, chân đi không vững và chịu nằm an trí ở Côn Sơn,
nếu như quan Lễ nghi Học sĩ chịu ở lại Côn Sơn với chồng, thì sự việc sẽ ra
sao? Có thể nhà vua vẫn băng vì cảm đột tử. Nhưng khi ấy tình thế sẽ khác. Vua
mới 20 tuổi, lại bị đột tử thì làm gì có di chiếu? Khi ấy, ai sẽ là người nối
ngôi đại thống? Chắc chắn sẽ không phải là Thái tử Bang Cơ, người đang có những
dị nghị về nhân thân. Khi ấy, Nguyễn Trãi sẽ về triều. Và biết đâu triều đình
sẽ cho tìm lại Quốc vương Tư Tề, hay Hoàng tử Lê Tư Thành…
- Công Dĩnh
nói chí lý lắm - Tiếng một người nào đó.
- Xin để tiểu đệ tiếp lời – Nguyễn Trực nói - Chúng
ta thấy rõ một sự vô lý: Nếu bà Lộ mắc tội thì tại sao lại đổ vấy cho cả Nguyễn
Trãi và ba họ? Bởi cái đích họ nhằm tới là Ức Trai tiên sinh. Quýt làm nhưng
cam chịu, chính là thế này đây. Nhưng đây là chủ mưu của kẻ đang nắm quyền lực.
Giết Nguyễn Trãi, mọi việc sẽ êm xuôi. Nguyễn Trãi là cái gai, là khối u đang
nổi lên, làm cản bước tiến của kẻ muốn thâu tóm quyền lực.
- Xứng danh bậc nhất tam khôi - Nhiều tiếng vỗ tay.
Nguyễn Trực nghẹn giọng:
- Chỉ còn một cách cứu Ức Trai, là đánh thức lương
tri của tất cả các quan trọng thần. Lũ chúng ta mang danh kẻ sĩ, lại là lớp tân
khoa, nếu chúng ta hoặc là sợ hãi không dám nói, hoặc quá bảo mạng cầu an mà im
lặng, thì còn ai dám cứu Ức Trai? Tiểu đệ nghĩ, chúng ta phải có một tờ biểu.
Tất cả chúng ta đều ký và vận động các bậc đại thần, những người bạn chí cốt
của Ức Trai như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du…
- Công Dĩnh nói chí phải…
Hàng chục cánh tay cùng vung lên:
- Gia nhân mang giấy bút ra đây…
- Phải thảo ngay một “thất trảm sớ” để ngăn bàn tay
đẫm máu.
Ai cũng tranh nói. Ai cũng sắc khí đằng đằng.
Tiến sĩ Ngô Sỹ Liên nhìn các bạn đồng khoa rưng rưng
xúc động. Thế mới đáng mặt kẻ sĩ chứ. Trong đầu ông như vang lên bài thơ “Bữa
tiệc đầu người” của Nguyễn Biểu, viết chửi vào mặt giặc Minh ba mươi năm trước.(6)
Các bạn đồng khoa của ông đây, ai cũng có khí phách của kẻ dám ăn bữa
tiệc đầu người. Ông với tay lên án thư lấy một tờ biểu đã được soạn sẵn, trịnh
trọng thưa với mọi người:
- Thưa các huynh đệ. Những lời tâm huyết vừa rồi của
quan Trạng nguyên tân khoa Nguyễn Trực là tiếng nói chung của anh em chúng ta.
Tại hạ tuy tài hèn sức mọn, nhưng cũng đã mạo muội thảo sẵn tờ biểu này để dâng lên ngôi chí tôn, xin Hoàng Thái hậu
tha tội chết cho quan Thừa chỉ Hành Khiển và quan Lễ nghi Học sĩ, cùng ba họ.Tại hạ muốn nhờ Đệ
nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh Nguyễn Như Đổ, người có giọng tốt sẽ đọc tờ thảo này. Mọi người sẽ góp ý, sau đó
cùng ký tên.
Trong khi Nguyễn Như Đổ đang lấy giọng chuẩn bị đọc,
một người bỗng vụt đứng lên:
- Ký tên làm gì? Sao lại gửi cho Hoàng Thái hậu? Bà
ta coi chữ ký của lũ chúng ta chỉ là trò con trẻ... Lẽ phải và sự thật bao giờ
cũng thuộc về kẻ quyền thế. Không bao giờ bọn gian tà chịu nghe lẽ phải. Chỉ có
cách điều binh về triều, hay cướp ngục may ra mới cứu được Ức Trai…
Mọi người nhìn ra xem người vừa nói là Trịnh Thiết
Trường hay Thân Nhân Trung, thì ngoài cổng bỗng có tiếng ngựa hí, tiếng người huyên náo. Một võ
quan triều đình mặt đen sắt như Thiên
Lôi, cưỡi ngựa, dẫn một toán lính cấm vệ hùng hổ tiến vào.
***
Cuộc nghị sự
lập tức biến thành bữa đánh chén, kẻ
uống người say tuý luý. Có ai đó nhanh tay giật lấy tờ biểu mà Bảng nhãn Nguyễn
Như Đổ đang cầm. Rồi tờ biểu luồn qua tay một ai đó, cuối cùng được dúi vào tay
tiến sĩ Hoàng Sằn Phu. Vị này đưa ngay lên mồm nhai nhồm nhoàm cùng với món
nhắm vừa gắp. Trong chớp nhoáng, những con chữ thánh hiền đã nằm yên trong bụng
bọn tân khoa tiến sĩ. Thế là phi tang.
- Quan tiến sĩ Ngô Sỹ Liên coi trời bằng vung - Tiếng
viên võ quan như hổ gầm - Hoàng Thái hậu đã có lệnh cấm tụ tập.Vậy mà ông lại
kéo bè đảng đến đây định làm chuyện phản nghịch.
Mặt Ngô Sỹ Liên không còn một giọt máu. Ông lập cập
chạy ra.
- Bẩm quan vệ uý. Hôm nay là ngày kỵ nhật ông nội tôi. Tôi mời các quan tân khoa tiến
sĩ…
- Kỵ nhật à? Các vị tiến sĩ định họp bàn lật đổ hay
tiếm ngôi chứ giỗ chạp gì?- Viên võ quan túm lấy một vị tiến sĩ - Có đúng
không? Ông hãy nói ta nghe.
Vị tiến sĩ run bắn như cầy sấy, khua hai tay rối rít:
- Không… không… Tôi không biết…Chúng tôi chỉ đến ăn
cỗ…
Viên võ quan lại gầm lên, tóm tóc một vị tiến sĩ
khác:
- Thám mã vừa báo cho ta biết. Ông này, nói đi. Các
ông vừa bàn chuyện cứu tên Trãi phải không?
- Bẩm…Không… - Vị tiến sĩ sợ rụt lưỡi không nói lên
lời.
Võ quan cười hơ hớ, chỉ mặt các tân khoa tiến sĩ:
- Các ông to
gan lắm. Nhưng quyền chức các ông, cái
gan các ông đã to bằng ông Hành khiển Nguyễn Trãi chưa? Tưởng bọn hủ nho như tên Trãi lùa dê không xong, vậy mà lại dám
giết vua. Ghê quá. Chuyện động trời từ
thiên cổ tới nay chưa hề có. Hoàng Thái hậu đang cho quân về Nhị Khê, về Côn Sơn, về Chi Ngải, về Hải Triều…
bắt ba họ nhà Trãi và Thị Lộ.
Chuyến này sẽ chém đầu mấy trăm mạng. Bọn ta đang đi lùng bắt tên Nguyễn Khuê
con trai trưởng của Nguyễn Trãi. Ông Liên, người ta bảo Cống Khuê từng là bạn đồng môn của tiến sĩ Ngô Sỹ Liên,
đúng không?
Các tiến sĩ nhìn nhau rồi lại nhìn Ngô Sỹ Liên. Có ai
đó nhanh tay bưng đến một ly rượu. Người khác đưa ra một đĩa sứ trên có nén
bạc. Ngô Sỹ Liên đỡ lấy, đưa mời quan vệ uý:
- Chẳng mấy khi ngài đến, lại gặp dịp kỵ nhật ông nội tại hạ. Mời ngài xơi chén rượu
nhạt…
Quan vệ uý cười khẩy, thấy bọn tiến sĩ đều khúm núm,
kính cẩn, nghĩ cũng chẳng nên căng làm gì, liền dịu giọng:
- Các ông phải biết cái phận mình. Đến như tên Trãi uy danh sánh ngang Tiên đế mà còn
không giữ được cái đội mũ, huống lũ hủ
nho chùi đít không sạch các ông.
Nói rồi quan vệ uý nhanh tay nhón nén bạc, quát quân
lính rút lui. Trước khi đi, còn dặn nhỏ tiến sĩ Ngô Sỹ Liên:
- Hoàng Thái hậu có lệnh triệu ông. Đầu buổi chầu
chiều nay ông phải có mặt.
***
Suốt từ đó,
Ngô Sỹ Liên đứng ngồi không yên.
Hoàng Thái hậu
cần gặp có chuyện gì? Thái hậu đã biết Liên này là người đầu têu thảo sớ
đòi tha tội cho Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị
Lộ chăng? Ai báo cho Thái hậu biết?Trong đám tân khoa tiến sĩ chắc chắn
có tai mắt của Thái hậu cài vào? Người đó phaỉ là kẻ ghen ăn tức ở, mượn gió bẻ
măng. Ai nhỉ? Không có ai cả. Bọn sĩ phu Hà Thành tuy hèn nhưng không đến mức
đểu, táng tận lương tâm. Hay là…Thái hậu cần gặp để bàn chuyện… quốc sử?
Một niềm hy vọng mơ hồ được nhen lên, xua tan mối lo
âu ở quan tiến sĩ. Gặp Nội quan Tạ Thanh ở ngoài sảnh điện, mối lo của Ngô Sỹ
Liên được giải toả hoàn toàn.
Tạ Thanh nói:
- Thái hậu đang chờ quan tân khoa tiến sĩ. Cờ đến tay
ngài rồi. Đừng quên công tiến cử của kẻ hầu cận này đấy nhé. Thái hậu hỏi phải
tìm ai vào chức sử quan sắp tới, tại hạ bảo rằng: Ngoài tiến sĩ Ngô Sỹ Liên ra,
không còn ai khác.
Tạ Thanh nháy mắt cười tinh quái, rồi khoát tay bảo
Ngô Sỹ Liên vào.
Đã một hai lần gặp Thần phi, rồi Hoàng hậu Nguyễn Thị
Anh, nhưng đây là lần đầu tiên Ngô Sỹ Liên đối mặt với Hoàng Thái hậu, người
đàn bà uy lực nhất triều Hậu Lê này. Thật lạ, sau cái chết của vua Lê Nguyên
Long mà thần sắc và vẻ đẹp của Hoàng Thái hậu lại rực rỡ và lộng lẫy hơn bao
giờ hết. Ngô Sỹ Liên bỗng nhớ đến câu thành ngữ: “Gái một con trông mòn con
mắt”. Huống chi đây lại là gái mười tám, sắc nước hương trời. Không dám nhìn
Thái hậu, nhưng Ngô Sỹ Liên cảm thấy đôi ánh mắt sắc dao cau đang như phanh
phui, lọc lũa mình.
- Dạ thưa Thái hậu, hạ thần Ngô Sỹ Liên có mặt.
Thái hậu cười nửa miệng:
- Khanh hãy bình thân. Nghe nói sáng nay đám Tiến
sĩ các ông có cuộc họp kín bàn gỡ tội
cho Nguyễn Trãi và ả Thị Lộ có phải không?
Tóc Ngô Sỹ Liên như dựng đứng, muốn hất văng cả mũ.
- Bẩm Thái hậu. Thần có buổi kỵ nhật…
- Tai mắt Lam Sơn hội của ta như thiên la địa võng, một con ruồi cũng không lọt - Thái hậu dằn từng lời - Nhưng thôi,
không chấp lũ sĩ dởm vặt lông gà không xong. Ta chỉ muốn hỏi ông…
Ngô Sỹ Liên căng óc, tưởng đứt các mạch máu.
- Câu hỏi này ta không muốn hỏi các quan Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, bởi các ông ấy còn non lắm. Ông mới là người chín
chắn sâu sắc, kiến văn sâu rộng. Tuy ông chỉ đứng đầu hàng tam giáp, nhưng ta
đánh giá cao hơn bọn Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Nhữ Hộc. Xin lỗi ông,
bọn ấy ta bảo gì phải viết nấy. Ngay cả Phan Phu Tiên cũng cổ hủ lắm rồi. Ông
mới thực là một đại sử gia của Lê triều ta…
- Dạ bẩm… Thần không dám nhận lời khen tặng…
Thái hậu Nguyễn Thị Anh bỗng trừng mắt:
- Mới được khen mà đã sợ rồi à? Đừng giả vờ khiêm
cung. Hãy thành thật trả lời ta: Nếu ông là sử quan, thì ông sẽ chép việc cái
đêm Hoàng thượng bị đột tử ở Lệ Chi Viên thế nào?
Một câu hỏi mà câu trả lời có thể hoặc bị chém đầu, hoặc được thăng tiến như
diều.
Mồ hôi đầm đìa, ướt đẫm vai áo tiến sĩ Ngô Sỹ Liên,
khiến Thái hậu bỗng bật cười khanh khách.
- Việc gì phải
toát hết mồ hôi như thế? Trông quan tiến
sĩ như một gã nhà quê đang đi cày. Ta hỏi vậy thôi,chứ không ép kẻ sĩ Long
Thành phải trả lời. Ta nói thẳng để bọn
kẻ sĩ các ngươi rõ: Các ngươi dẫu có oán giận ta giết Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị
Lộ thì không vì thế mà ngôi Hoàng đế của Bang Cơ con trai ta có thể trao cho kẻ
khác được. Ngài tiến sĩ nên nhớ, Hoàng đế Lê Nguyên Long khi lên ngôi vì không
có mẹ đành phải nhờ đến các ông Lê Sát, Lê Ngân và bọn hủ nho các ông phò tá,
chứ Bang Cơ con ta thì không cần nhờ cậy một ai, ngoài ta. Chính ta sẽ cai quản
triều đình, gây dựng vương nghiệp. Ngay ngày mai, sau lễ đăng quang của Bang
Cơ, ta sẽ nói cho bọn tân khoa Tiến sĩ và cả bọn cựu văn thần Thăng Long các
ngươi biết, ai theo mẹ con ta thì sống, ai muốn theo tên Trãi và ả Thị Lộ thì
cứ việc…
Ngô Sỹ Liên chạnh nghĩ đến Thái sử bá nước Tề, định ngẩng cao đầu, toan tìm lời
nói lại, nhưng Thái hậu Nguyễn Thị Anh
chừng như đọc được điều đó, nàng mỉm cười xoa dịu:
- Ta nói vậy để khanh hãy tin vào ta, xem ả gà mái gáy sớm này là người thế nào? Tiến
sĩ Ngô Sỹ Liên, khanh đã nghe Nội quan
Tạ Thanh nói gì với khanh chưa? Ông ta
muốn tiến cử tiến sĩ vào Ngự sử đài. Nhưng ta thấy ông ấy vẫn còn đánh giá thấp
về khanh. Ngay sau lễ đăng quang, ta sẽ thay mặt Hoàng thượng phong cho khanh
chức Đô ngự sử, Triều liệt đại phu kiêm Quốc tử giám tư nghiệp. Giao quốc sử
cho một người như khanh, ta hoàn toàn yên tâm.
Ngô Sỹ Liên bàng hoàng. Ông tưởng mình nghe nhầm.
Vốn là kẻ quê mùa ở Ngọc Hoà, Chương Đức, xuất thân
tầm thường, hơn mười năm đi theo Lê Lợi,
nằm gai nếm mật, phục dịch chốn quân doanh, tam thập vẫn bất nhi lập, vẫn chân
thư ký quèn. Hơn mười năm tiếp theo vừa
làm thư lại chốn nha môn vừa miệt mài kinh sử, bạc mặt với chữ thánh hiền, may kiếm tấm bằng tiến sĩ, nhưng
tứ thập vẫn nhi hoặc, khó đoán định tương lai... Giờ không ngờ, bỗng hào quang
chói rạng, phúc phúc trùng lai, thấm nhuần ơn mưa móc. Giờ như người trong đêm
tối bỗng gặp ánh thái dương…
Ngô Sỹ Liên run rẩy nhìn lên. Bắt gặp một đôi mắt đen thăm thẳm, một nụ cười mê đắm. Ông như thấy mình bay lên trên chín tầng
mây, bồng bềnh trong cõi hư vô bất định. Vậy là ông đã đặt chân tới chốn cửu
trùng, ông hạnh phúc vô bờ khi được tin
cậy và dâng hiến cho người đàn bà mà trí thông minh, sắc đẹp và quyền lực có
thể sánh ngang với Võ hậu Tắc Thiên đời Đường.
Chú thích:
(1) Mãi
tới khoa thi năm Kỷ sửu (1469), Quang Thuận năm thứ 10, triều Lê Thánh Tông,
khi Thân Nhân Trung 50 tuổi, ông mới đi thi và đỗ Tiến sĩ. Sau này ông tham gia
“Tao đàn nhị thâp bát tú”do vua Lê Thánh Tông là Tao đàn chủ suý và Thân Nhân
Trung làm Tao đàn phó suý. Ông là người soạn thảo văn bia Tiến sĩ khoa thi
1442, trong đó có câu nổi tiếng: “Hiền tài là nguyên khí Quốc gia”.
(2) Khóa thi sau, năm Thái Hoà thứ 6 (1448), Trịnh
Thiết Trường thi tiếp, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhị danh ( Bảng
nhãn). Nguyễn Nguyên Chẩn cũng thi tiếp khóa này, nhưng vẫn chỉ đỗ Đệ tam giáp
đồng Tiến sĩ xuất thân.
(3)Đại Việt
sử ký toàn thư.
(4)Đại Việt sử ký toàn thư
(5)Đại Việt thông sử - Lê Quý Đôn
(6) Nguyễn Biểu, người Nghệ An, đỗ tiến sĩ cuối triều
Trần, tham gia khởi nghĩa Trùng Quang thời Hậu Trần. Năm 1413, ông đi sứ gặp
Trương Phụ để bàn kế hoãn binh. Trương
Phụ dọn cỗ đầu người, ông ăn ngon lành và còn làm bài thơ “Cỗ đầu người” để tỏ
khí phách. Trương Phụ vừa kính nể vừa
khiếp phục,muốn giết ông để trừ hậu hoạ, đã bắt trói ông dưới chân cầu thành
Nghệ An để nước triều nhấn chìm ông.
NGUYÊN KHÍ
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
17. CHỦ NHIỆM ĐẠO TÙNG
Thế sự trai yêu thiếp
mọn
Nhân tình gái nhớ
chồng xưa.
(Bảo kính cảnh giới - 52 - Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi)
Chương“Sử thần Ngô Sỹ Liên” vừa dịch xong đã gây chấn
động trong “Nguyễn Trãi Club”. Mặc dù Đỗ
Chí Cao và Ngô Tháp rất nguyên tắc, kiên quyết bảo vệ bản quyền và chỉ cho lưu
hành khi sách được chính thức xuất bản, nhưng ông Huỳnh Đạo vẫn có cách “đi đêm
riêng” để “Thọt bỉ nhân” gửi cho mình một bản làm tư liệu cho cuộc sinh hoạt Câu
lạc bộ sắp tới.
Hầu như ít có
một tổ chức xã hội tự nguyện nào lại bao chứa được nhiều loại người, nhóm người
với những sở thích, chính kiến, quan điểm khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau
như “Nguyễn Trãi Club”. Có thể nói, đây chính là điển hình của sự thống nhất
trong đa dạng. Chỉ bằng hệ thống mạng internet, qua các Bloggers, Facebookers,
Twitters…, hàng trăm chi nhánh “Nguyễn Trãi Club” các tỉnh, các châu lục có thể
liên hệ với nhau, thông báo cho nhau những thông tin, bài viết, tư liệu liên
quan đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ. Có người nói vui với ông chủ nhiệm Huỳnh
Đạo rằng, sau này “Nguyễn Trãi Club” thậm chí có thể phát triển thành một tôn
giáo, gần giống với đạo Phật, đạo Cơ đốc, hay đạo Hồi, đạo Cao Đài, Hoà Hảo...
Khác chăng là, tín đồ của các tôn giáo kia là quảng đại quần chúng, và phần
đông là tấng lớp bình dân, thì “Nguyễn
Trãi Club” lại hầu hết là giới trí thức. Từ giới trí thức cận thần, bổng lộc
quyền lợi gắn với giới chóp bu quyền lực và các nhóm lợi ích, tới giới dân chủ
dấn thân mà lý tưởng là tự do và dân chủ, công bằng cho mọi người, tiến tới xây
dựng một đất nước hùng cường…, đều tìm thấy ở Ức Trai, từ con người đến sự
nghiệp thơ văn, một danh nhân văn hoá kiệt xuất, một tấm gương sáng chói, một
nhân cách tuyệt vời.
Ban chủ nhiệm
Câu lạc bộ, tất nhiên, là nơi hội
tụ nhiều tên tuổi trí thức lớn có đủ
cả các thành phần, các khuynh hướng
chính trị, tư tưởng. Họ hầu hết là các vị lão thành cách mạng, trí thức đầu
ngành, chuyên viên cao cấp nghỉ hưu. Các
vị này phần lớn có học hàm học vị, từng giữ các cương vị cao, trọng trách lớn.
Có vị bổng lộc đầy mình, vợ con viên mãn, hạ cánh an toàn. Có vị cuối đời bị
thất sủng, hoặc bị tai nạn nghề nghiệp, hoặc ngộ ra sự lạc lối…Có thể nói họ
khác nhau như nước với lửa, như hai cực âm dương, vậy mà họ lại có khả năng
dung hoà, thống nhất. Có nguyên nhân thuộc về những mối quan nhệ xã hội, mà chỉ
ở Việt Nam
mới có. Đó là sự dằng dịt dây mơ rễ má, anh em chú bác, nội ngoại, thông gia,
đồng môn, đồng tuế, đồng hương… Nhưng điều này mới là cơ bản: Họ khác nhau, đối
nghịch nhau nhưng không hề triệt tiêu nhau, bài xích nhau, vì tất cả, giờ đây,
không ai có quyền lực, không ai phải bảo vệ cho một nhóm lợi ích nào. Ở họ đều
có chung tình yêu Tổ quốc, lòng tự hào dân tộc, chất “kẻ sĩ” thời đại. Trong họ,
ai cũng thấy mình có một phần Ức Trai, đau đáu về vận mệnh của Dân tộc, về số
phận của Nhân dân, về con đường hưng vong của Đất nước,về sự toàn vẹn, độc lập,
tự chủ Quốc gia. Đó chính là chất keo gắn kết, hội tụ, mà không có một thứ xi
măng siêu mác nào, một chủ nghĩa, một học thuyết nào có được.
Chủ nhiệm Câu lạc bộ, ông Huỳnh Đạo, có lẽ là người
có địa vị xã hội thấp nhất trong ban lãnh đạo. Nhược điểm lớn nhất của ông là
đã bằng lòng cho một sự mạo nhận: Ngày thành lập Câu lạc bộ, người ta làm cho
ông một hộp cacvidit. Ông giận tím mặt, cương quyết không nhận, chỉ vì trong
chức danh ghi ông là “nhà sử học”. Ông cho rằng có ai đó đã ngầm chơi ông, phỉ
báng ông. Các vị trong Ban chủ nhiệm phải giải thích mãi, rằng đây là mỹ danh
để đi làm việc, liên hệ công tác, rằng ông là cử nhân sử học, thầy dạy sử cấp
3, gọi là nhà sử học có sao đâu? Khối người không có tác phẩm công trình lịch
sử nào mà cũng được gọi là nhà sử học. Vả lại, lãnh đạo một “Nguyễn Trãi Club”
phải cần có một nhà sử học. Cuối cùng thì ông Huỳnh Đạo đành thoả hiệp. Nhưng
đi giao dịch các nơi, ông vẫn thường dùng chức danh chủ nhiệm cho giản dị.
Cho đến cuối
đời, Huỳnh Đạo vẫn giữ vẹn nguyên phẩm chất một người lính. Trong cuộc
kháng chiến 9 năm, ông là chiến sỹ giao liên Đại đoàn Đồng Bằng, tham gia chiến
dịch Điện Biên Phủ khi mới mười sáu tuổi. Kháng chiến chống Mỹ, ông là người
đầu tiên trong đường dây 559, mở tuyến đường Trường Sơn. Bị thương ở mặt trận
Khe Sanh, ông chuyển ngành, trở thành thầy giáo dạy sử cấp ba, nhà thơ nghiệp
dư, cho đến khi nghỉ hưu. Mọi người tín nhiệm bầu ông là Chủ nhiệm Câu lạc bộ, vì
ở ông, cùng với năng lực tổ chức tuyệt vời, là tinh thần trách nhiệm cao, đức
hy sinh, xả thân vì việc chung. Ông sẵn sàng bỏ thời gian, tiền bạc, lăn lộn
hàng tháng trời lo hàng trăm thứ công việc không tên: Đi phát triển hội viên ở
các tỉnh; Liên hệ với địa phương các thủ tục về đất đai, giải toả, kinh phí để
tu sửa đền thờ, đúc tượng; Tổ chức hội thảo, in tài liệu, in sách, tạp chí về
Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ… Tất nhiên, để trở thành một tiểu Mạnh Thường Quân
kiêm “mõ làng”, số phận đã cho ông một người vợ siêu phàm: Chỉ bằng bốn sào ao
rau muống ở Hoàng Cầu, những năm đầu đổi mới, bà đã chuyển đổi thành ba cơ ngơi
bề thế cho các con và một nhà hàng bia hơi, kiêm ẩm thực, đủ cho ông có thể “ăn
cơm nhà vác tù và hàng tổng”.
Những thành viên khác trong Ban chủ nhiệm “Nguyễn
Trãi Club”, là những nhân vật “vua biết mặt, chúa biết tên”, tiếng tăm nổi như
cồn trên các phương tiện truyền thông, báo chí.
Tỷ dụ như hai ông phó chủ nhiệm. Một ông là giáo sư,
tiến sĩ cầu đường Phan Công Tại, thường gọi là ông “Sổ hưu”. Một ông là Ngô
Tuyên, phó giáo sư, tiến sĩ khoa học, viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô,
mọi người quen gọi là ông “Quá độ”. Những ông khác trong ban chủ nhiệm như ông
“ Lỗi hệ thống”, ông “ Văn Giang”, ông
“Bôxít”, ông “Tiên Lãng”, đều được gọi bằng bí danh, biệt danh… Đó cũng
là một đặc tính tự trào của các vị trí thức khi đã đến tuổi lão thực. Dường như
càng về già các vị càng ưu thời mẫn thế, trong lòng lúc nào cũng chứa chất
nhiều uẩn khúc. Vì thế, thú vui nhất của các vị hằng ngày là tụ tập bàn chuyện
phiếm. Nhiều cụ sinh nghiện, mỗi ngày không “tráng miệng” dăm câu chuyện thời
sự là ăn không ngon, ngủ không yên.
***
Ví như hôm
nay, tự dưng ông “Quá độ”, nhân việc vợ
con đi du lịch, vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm, liền phôn cho các bạn đến
chơi, thưởng thức lộc xuân.
Ông “Sổ hưu” cầm tờ báo Tiền Phong hua lên:
- Các vị có thấy
anh -Mianma thay đổi quyết liệt không? Cho phép tư nhân ra báo rồi đây này.
Giỏi quá, mở rộng dân chủ đến thế này
thì ông Thein Sein liều thật, dũng cảm thật.
- Không phải liều mà quá tài giỏi - Ông “Lỗi hệ
thống” nói và nhìn ông “Sổ hưu” như phát
hiện ra ông bạn đồng hương vừa mới mọc sừng.
Ban đầu Giáo sư Phan Công Tại được các
bạn đặt cho biệt
danh là ông “Siêu tốc”, bởi ông
chính là tác giả của dự án đường sắt siêu cao tốc xuyên Việt một dạo bị Quốc
hội bỏ phiếu phủ quyết. Cả đời ông Tại làm kỹ thuật, ít quan tâm đến những vấn
đề xã hội, chính trị. Ông từng có hai năm sang nghiên cứu tại Nhật và Trung
Quốc về mô hình đường sắt siêu tốc. Đến khi lãnh đạo bảo ông làm dự án để xin
tài chợ của Nhật, ông thực hiện ngay. Nếu dự án được phê duyệt, có thể ông sẽ
được phong hàm Thứ trưởng, bất chấp tuổi tác. Ấy là cấp trên bảo thế. Khi
dự án
phá sản , ông về hưu, và hầu như vẫn hồn nhiên không quan tâm gì đến những vấn
đề xã hội và thời cuộc. Đến khi đi nghe giảng nghị quyết, thấy một vị giáo sư nói
rằng các thế lực thù địch được nước ngoài cấp tiền lương hằng tháng để chống
phá cách mạng. Nếu bọn chúng thắng thì mọi sổ hưu của các vị mất hết. Vì thế
bảo vệ cách mạng chính là bảo vệ cái sổ hưu. Giáo sư tiến sĩ “Siêu tốc” sợ quá,
về loan truyền với vợ con và bạn bè. Mọi người cười ồ, lấy biệt danh“ Sổ hưu”
để thay cho biệt danh “Siêu tốc”.
- Các ông có nhớ Thống tướng Than Shwe, anh bạn vàng
của ta không? - Ông “Lỗi hệ thống” nói - Quân phiệt, độc tài kiểu ấy chỉ đưa
đất nước Mianma đến vực thẳm. Ông Thein Sein mới là người anh hùng cứu nước. Rõ
ràng là quay một trăm tám mươi độ nhé. Nhưng người anh hùng thực sự của đất
nước Mianma, theo tôi phải là bà Aung San Suu Kyi, người được giải thưởng Nobel
vì hoà bình. Nước Miamma rồi sẽ tiến xa. Không khéo rồi mình đuổi không kịp…
- Anh Triều Tiên sao không sang Mianma mà học kinh
nghiệm nhỉ? - Ông “Sổ hưu” nói - Tay Kim Jong Un còn liều hơn cả bố. Nó mới doạ
chơi hạt nhân mà khối thằng sợ vãi đái.
Ông “Quá độ” lắc đầu ngán ngẩm:
- Nó có hạt
nhân, lại máu Chí Phèo, không chừng nó làm thật.
Mọi người đổ dồn mắt về Phó giáo sư Ngô Tuyên.
So với các bạn cùng trang lứa, con đường học vấn và
sự nghiệp của Ngô Tuyên khá hanh thông.
Vào bộ đội, vừa luyện tập ba tháng cơ
bản để đi chiến trường thì Tuyên có danh
sách đi du học Liên Xô. Sau này anh mới biết, số anh có quý nhân phù trợ. Ông bác ruột anh làm lãnh đạo ở Cục quân lực đã can thiệp để anh
không phải ra mặt trận. Ở Liên Xô,Tuyên lại trúng tiếp số độc đắc: Vào học tại
trường A- on,(1) trường dành riêng cho các hạt giống đỏ. Du học sinh
Việt Nam học các trường đại học ở các nước cộng hoà thuộc Liên bang Xô Viết,
học bổng mỗi tháng chỉ 120 rup, riêng
sinh viên trường A-on được 180 rup, hơn hẳn chục cái bàn là hoặc hai
nồi áp xuất. Luận án Kandidat ( phó tiến
sĩ) của Tuyên được đánh giá cao, anh
được ở lại làm tiếp Docter (tiến sĩ khoa
học), với đề tài kinh điển: “Thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam”. Ấy là năm
1976, khi Ngô Tuyên vừa tròn 30 tuổi. Đó cũng là thời kỳ nước Việt Nam vừa thống
nhất, đang bừng bừng khí thế đi lên Chủ
nghĩa xã hội.
Luận án của Ngô Tuyên đưa ra dự báo: Hai mươi năm
nữa, tức năm 1996, cùng lắm là đến năm 2000, Việt Nam sẽ tiến hành xong thời kỳ quá
độ và bước vào giai đoạn Chủ nghĩa Xã hội phát triển. Luận điểm này từng xuyên suốt trong các giáo trình đại học một
thời gian dài. Vậy mà cho tới giờ, chúng ta vẫn còn đang loay hoay ở chặng đầu
của thời kỳ quá độ.
Nghe mấy vị
nhắc đến Kim Jong Un, Phó giáo sư Kinh tế học Huỳnh Cao Đoàn, người ít lâu nay lúc nào
cũng nhức nhối về vụ tranh chấp đất đai ở Tiên Lãng, Hải Phòng, được mọi người
tặng biệt danh là ông “Tiên Lãng”, gật gù:
- Đói ăn vụng, túng làm liều. Nó vừa đói vừa túng,
hơn hai triệu người xứ sở sâm Cao Ly đang ngậm bã rễ sâm cầm hơi. Mà cái ả Hàn
Quốc bên cạnh nhà thì cứ hơ hớ như con gái mười tám, nó ngứa mắt, nó cứ bấm bừa
nút hạt nhân thì các ông tính sao?
Ông “Lỗi hệ thống” cười khẩy:
- Doạ thế
thôi, chứ cho ăn kẹo cũng không dám chơi hạt nhân. Anh Tàu cũng ngãng ra rồi.
Thằng Mỹ thì đang ra sức khích lệ anh Hàn. Chỉ ba bẩy hai mốt ngày là lại xuống
thang ngay ấy mà. Nếu sai cứ bắc bếp lên lưng tôi mà đun…
Cái tay “ Lỗi
hệ thống” này nổi tiếng là nhà chiến lược, bao giờ cũng có những đánh giá sắc
sảo - Ông “Bôxít”, bí danh của nhà văn Phùng Nghiệp, người cắt ngón tay lấy máu viết đơn lên Quốc hội đề
nghị cho dừng dự án Bôxit Tây Nguyên, vừa rít thuốc lào sòng sọc, vừa nghĩ
thầm.
Ông “Lỗi hệ thống”, biệt danh của Luật sư Trần Lê.
Tốt nghiệp Đại học Luật ở Cộng hoà Dân chủ Đức, nhưng từ khi ra trường, Luật sư
Trần Lê chưa hề bào chữa cho một thân chủ nào, cũng như ông hầu như không sử
dụng gì đến chuyên môn. Nghề của ông là làm thư ký riêng cho các nguyên thủ.
Thành tựu sáng giá nhất trong đời công chức của Luật sư Trần Lê là vào năm
cuối, trước khi nghỉ hưu thì ông phát hiện ra sự quanh co, luẩn quẩn trong quá
trình phát triển của nước ta chính là do “lỗi hệ thống”. Phát hiện này lập tức
được đồng chí Q, một vị lãnh đạo tối cao, ông chủ mà Trần Lê đang phục vụ, vô cùng đắc ý. Nhưng đồng chí Q
là một người chín chắn, khôn ngoan. Không dại gì đồng chí phát ngôn khi còn
đương chức. Chỉ đến khi nghỉ chức vụ, hạ cánh an toàn, đồng chí Q mới cho đăng
tải trên một vài tờ báo và trả lời phỏng vấn các báo chí nước ngoài. “ Lỗi hệ
thống” trở thành một phát hiện sáng giá.
Bạn bè thân thiết, biết Trần Lê mới chính là tác giả của luận điểm nổi tiếng
kia, liền đặt cho ông cái biệt danh: Ông “lỗi hệ thống”.
- Anh Nga có
vẻ cũng ngả theo Mỹ, không ủng hộ Kim Jong Un – Ông “Bôxít” thủng thẳng.
Khôn nhất là anh nhà mình. Cứ im thin thít, chẳng ủng hộ anh Hàn, mà cũng chẳng
phản đối anh Bắc Triều Tiên…
Ông tộc người “Tà ru”, từ nãy
vẫn lặng lẽ đọc tập bản thảo dịch, bây giờ mới góp chuyện:
- Thì cái máu ý thức hệ nó thế. Chẳng gì, cả thế giới còn mấy anh em đồng sàng với nhau,
phải cưu mang nhau …
Ông tộc người
“ Tà ru” ít nói, nhưng đã nói là sâu cay. “Tà ru” là tiếng nói lái của “tù ra”.
Tên ông, Võ Hoài, nguyên Tổng biên tập báo “Ngôi sao”, từng nổi như cồn trong
giới văn nghệ báo chí một thời. Ông là
đồ đệ số một của triết gia tài danh Trần Đức Thảo, nói cùng lúc tiếng
Anh, tiếng Pháp như gió, thông kinh sử làu làu. Thế rồi từ chủ nghĩa giáo điều
cuồng tín, ông quay ngoắt sang phe dân tộc cấp tiến. Rồi bị vướng vào vụ xét
lại, bị vu là thân Liên Xô. Từ đó thân bại danh liệt. Hồi ở trại tù Tiền Giang,
có nhiều câu chuyện đồn thổi về ông. Tỷ như ông quyết không khai những gì giám
thị áp đặt. Tra hỏi bao lần, ông vẫn lì ra, viên giám thị liền không nói gì,
lẳng lặng mang chiếc rọ sắt đến bắt ông chui vào, rồi cho lăn xuống ao thả cá
tra. Ba lần như thế, Võ Hoài sợ chết ngất mỗi lần thấy mang rọ đến. Một lần,
phẫn uất quá, ông quyết tuyệt thực. Giám thị mang cơm ngon, thịt béo, canh ngọt
đến dụ mãi không nghe, họ đâm chán, lại gặp ngày chủ nhật, giám thị liền bỏ về nhà. Nhân đấy, Võ Hoài tha thẩn ra cổng
trại hóng gió. Thấy mấy cậu thanh niên trong xóm thui chó bằng rơm nếp, rồi họ
pha thịt, nướng chả thơm phức. Đám thanh niên làng có vẻ cảm thông với Võ Hoài,
rủ ông thử vài miếng. Vừa thèm, vừa thấy mấy sắp nhỏ dễ thương, thiệt tình, Võ
Hoài nhập cuộc, đánh chén ngon lành. Hôm sau, giám thị trại gọi Võ Hoài lên,
cho xem ảnh và máy camera quay cảnh ông đang xơi thịt chó ngon lành. “Đó, ông
thấy chưa? Bất cứ việc gì ông làm, chúng tôi biết hết. Đừng giả vở đóng vai nhà
dân chủ làm gì. Bọn trí thức các ông hèn lắm.” Viên giám thị làm Võ Hoài vừa
xấu hổ,vừa nhục, cúi gằm mặt, khai hết.
Từ ngày ở tù
ra, ông tộc người “Tà ru” Võ Hoài đã trở thành một con người khác. Nhiều lúc
ông ngây ngây dại dại. Cả ngày có khi chẳng nói câu nào. Nhưng đã nói là như có
máu, có muối, có ớt bật ra.
Câu chuyện của các cụ đại loại như vậy. Thường
thì các vị đến Câu lạc bộ Rồng Bay, gọi
là bơi lội, bóng bàn, cầu lông cho có
việc, rồi kéo nhau vào quán bia hơi, hai vị chung một vại vì sợ tiểu đường, gọi thêm đĩa lạc, con mực, rồi
chuyện phiếm cho qua ngày. Nhưng hôm nay ông “Quá độ” nhân có tí nhuận bút bài thơ đăng số Tết trên báo “Cây cao bóng cả”, muốn khao các
bạn.
- Có chuyện này - Ông “Quá độ” cầm tập bản thảo
huơ lên cho các bạn thấy - “ Long thành tạp ký” có chương viết về sử
gia Ngô Sỹ Liên hay lắm. Những tư liệu lần đầu tiên được phát hiện. Hoá ra giới
trí thức Việt gần sáu trăn năm sau cũng chẳng khác gì các ngài tiến sĩ thời Lê
sơ…
Ông “Văn Giang” tủm tỉm cười lấy từ trong ngực ra mấy
tập phô-tô, phân phát cho mọi người.
- Nhà sử học Huỳnh
Đạo mới gửi cho tôi. Tôi vội phô-tô tặng
các vị đây. Thế mới biết quyền lực thời nào cũng vậy. Nó có thể giết chết
một đại công thần, một vĩ nhân như
Nguyễn Trãi mà không cần xét xử. Nó có
thể biến một sử gia danh tiếng thành kẻ
nô bộc, một tiến sĩ tài năng thành kẻ bồi bút.
- Bây giờ ông
mới biết điều đó à? - Ông “Bô xít” tròn
mắt nhìn ông “Văn Giang” - Tôi tưởng ông bênh vực hai phóng viên bản Đài Trung ương khi họ kiên quyết phản đối
dự án Ecopark, thì ông phải thấm thía
điều đó chứ. Rõ ràng bọn côn đồ hành hung hai phóng viên muốn đến phanh phui sự
thật giúp người nông dân Văn Giang, mà các cơ quan công quyền thì làm ngơ, còn
hàng trăm tờ báo lề phải cả nước thì im thin thít. So với bây giờ thì tiến sĩ
Ngô Sỹ Liên chỉ đáng là học trò ngành lịch sử và báo chí... Đau nhất là mang
tiếng kẻ sĩ. Biết. Xấu hổ. Nhục nhã …mà không dám nói.
Ông “Quá độ”
bỗng vỗ trán, nói:
- Hồi tôi học ở Matscơva, các bạn Nga quí sinh viên
Việt Nam lắm. Các bạn luôn nói một câu
cửa miệng: “Esli bư ia Vietnames, Ia budu Viettcôngom” (Nếu tôi là người Việt
Nam, tôi sẽ là Việt cộng”. Bây giờ cánh sử gia, cánh trí thức chúng ta cũng có
thể nói: “Nếu tôi là nhà người viết sử, tôi cũng sẽ là sử gia Ngô Sỹ Liên”…
- Hay. Quá hay
- Ông bộ tộc “Tà ru” và ông “Văn Giang” cùng giơ ngón tay cái lên - Câu nói hay
nhất trong ngày.
Mọi người đều như thấy mình có lỗi, khi ông “Bô
xít” bỗng rơm rớm nước mắt.
- Thôi, chuyển sang đề tài khác đi - Ông “Tiên Lãng”
nói với các bạn, khi vừa thoáng thấy trung tá Philip đi xe máy ngang qua -
Quái, sao giờ này mà Ông Huỳnh Đạo vẫn chưa đến nhỉ? Ông Ngô Tuyên, ông không
mời Chủ nhiệm câu lạc bộ à?
Ông “Quá độ”
nhìn đồng hồ:
- Chúng ta đợi mấy phút nữa. Ông ấy đang kẹt đường.
Một người mới đẩy cửa bước vào. Đó là ông “Chủ thuyết”, tức Giáo sư Tiến sĩ triết học, Viện
sỹ Viện hàn lâm Khoa học xã hội Lã Đức Phú, nguyên Viện trưởng viện Phương
Đông. Ông và cộng sự vừa hoàn thành 8560
trang công trình khoa học cấp Nhà nước trị giá 250 tỷ về Chủ thuyết phát triển. Hoàn thành, nghiệm thu
xong thì ông “Chủ thuyết” vừa tròn tuổi
70 và nhận sổ hưu. Ông tham gia“ Nguyễn Trãi Club” là để dấm sẵn chức Hội trưởng, khi “Hội những
người yêu kính và bảo vệ Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ” được thành lập.
Ông “Lỗi hệ thống” vội thông báo:
- Các ông có đọc tin mới không? “ Tàu lạ” vừa bắt hai
tàu của ngư dân đảo Lý Sơn đang đánh cá ở Hoàng Sa.
Ông “Sổ hưu” nói:
- Làm gì có
chuyện đó? Lãnh đạo cấp cao hai nước anh em vừa gặp nhau hôm kia. Lại luận điệu
của các thế lực thù địch. Ngày nào tôi
cũng đọc báo, xem tivi, thấy Biển Đông hoàn toàn yên tĩnh.
Ông “Văn Giang” nói:
- Muốn biết tin tức, các ông phải vào mạng. Cũng như
muốn biết về thực chất vụ án Lệ Chi Viên thì đừng đọc Ngô Sỹ Liên mà hãy đọc
“Long Thành tạp ký”.
Mọi người cười ồ lên. Cũng là lúc ông Chủ nhiệm Huỳnh Đạo nhễ nhại mồ hôi cùng với giáo sư
Hoàng Nguyên đi vào.
Các nhà trí thức cùng ào đến bắt tay dịch giả “Long
Thành tạp ký”.
- Quí hoá quá. Hân hạnh được gặp.
- Nghe tin Mạc Ngôn được Nobel văn học phải không
ông? Hàng chục người dịch Mạc Ngôn, nhưng chỉ bản dịch của ông là tuyệt bút…
Giáo sư Hoàng Nguyên chỉ biết chắp tay và cười hiền:
- Cám ơn các vị. Xin các vị cho tôi làm thành viên
“Nguyễn Trãi Club”…
Ông Huỳnh Đạo
lấy trong cặp một xấp tài liệu, phân phát cho mọi người.
- Xin lỗi các vị. Tôi phải tạt qua hiệu photo và đến
đón giáo sư Hoàng nên đến muộn. Đây là những chương mà giáo sư Hoàng Nguyên và
“Thọt bỉ nhân” vừa chuyển cho tôi. Vị nào chưa có thì xin mời.
Giáo sư Hoàng nói:
- Còn một chương kết nữa. Đây là chương sẽ đưa địa vị
của “Đoàn gia văn phái” sánh ngang với “ Ngô gia văn phái”. Chúng tôi đang dịch
gấp..
Ông “Lỗi hệ thống” nói:
- Tôi hi vọng
một ngày nào đấy sẽ tìm thấy “Tam triều bản kỷ” của cụ Ngô Sỹ Liên. Chắc
ở cuốn sử này cụ Ngô mới dám viết hết sự thật.
Ông “Tà ru” tiếp lời:
- Cuốn ấy vĩnh viễn chỉ là mơ tưởng.Vừa viết xong thì
Thái hậu đã có “công văn” thu hồi và cho nghiền ra giấy vụn để tái chế…
Ông “Chủ thuyết” nói:
- Nhân việc xuất bản cuốn sách này, tôi đề nghị câu
lạc bộ chúng ta hoàn thành gấp các thủ tục tiến hành đại hội thành lập “Hội
những người yêu kính và bảo vệ Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ” ngay trong năm nay.
Chủ nhiệm Huỳnh
Đạo nói:
- Báo cáo Viện sỹ Lã Đức Phú, Ban chủ nhiệm chúng tôi
lúc nào cũng canh cánh về việc này. Các chi nhánh ở Canada, Mỹ, Pháp, Đức, Ostraylia…không ngừng
tăng số hội viên và tháng nào cũng thúc giục. Họ sẵn sàng tài trợ kinh phí… Họ
đã cử luật sư tham gia phiên toà lịch sử tuyên trắng án cho Ức Trai tiên sinh
và Lễ nghi Học sĩ. Nhưng chúng ta còn phải chờ Quốc hội thông qua luật lập hội,
luật biểu tình…
Ông “Sổ hưu” nói:
- Hội yêu kính Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ, thì không
có gì phức tạp lắm. Nhà nước sẵn sàng
ủng hộ thôi. Nghe nói cùng một lúc ông Huỳnh
Đạo lại muốn đệ đơn xin thành lập “ Hội thơ lục bát” nữa, thì phức tạp đấy.
Dính đến thơ phú, văn chương là rắc rối to. Dân chủ, tự do cũng phải có định
hướng. Chúng mình được tụ bạ nhau ở đây để nói lăng nhăng thế này là tự do dân
chủ quá rồi. Thử đọc “Long Thành tạp ký” mà xem.Tiến sĩ Ngô Sỹ Liên vừa mời các
bạn tân khoa đến ăn giỗ, liền bị Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Anh cho người đến
giải tán tắp lự. Nói thế để thấy đừng có lợi dụng tự do, dân chủ quá trớn, các
vị ạ…
- Nói đến thế thì đành… bó tay chấm com. - Ông “Tiên
Lãng” nói - Thưa Giáo sư Tiến sĩ Phan Công Tại, ông có biết ngay sau khi cách
mạng Tháng 8 thành công, cụ Hồ Chí Minh đã cho thông qua Hiến pháp 1946, trong
đó có Luật biểu tình không? Vậy mà cho
tới bây giờ, sau 68 năm, các đồng chí và hậu duệ của Cụ Hồ vẫn treo luật này
cao chót vót…, thì quả là một cuộc kéo lùi lịch sử khủng khiếp. Chúng ta làm
cách mạng Dân tộc Dân chủ, nhưng mới xong một nửa, tức là mới hoàn thành cách
mạng Dân tộc, đã đòi lên Chủ nghĩa Xã hội. Thế hệ chúng ta và con cháu chúng ta
còn nợ dân tộc này một nền Dân chủ cho đến bao giờ?
Ông “Quá độ”
nói:
- Thôi, xin quí vị đừng chạm vào nỗi đau của chúng
tôi… Các vị đọc “Long Thành tạp ký” có thấy Nguyễn Trãi đã soạn xong “Quốc
triều Hình luật” trong những ngày về Côn Sơn ở ẩn không? Vậy mà thời Thái hậu
Nguyễn Thị Anh nhiếp chính, tức là suốt 19 năm triều vua Lê Nhân Tông, bộ quốc
luật này bị vứt vào sọt rác. Phải đợi mãi đến thời vua Lê Thánh Tông , “Quốc
triều Hình luật” mới được ban hành dưới tên “Bộ Luật Hồng Đức”. Đây là bộ luật
vĩ đại nhất của Đại Việt ta cho đến bây giờ. Các vị ơi, đừng mộng mơ, ảo tưởng
ở những bộ óc bã đậu, trái tim đen tối. Chỉ có vua sáng mới hội tụ được hiền
tài, giữ được nguyên khí quốc gia.
Ông “Quá độ”
chưa nói dứt lời thì trung tá Phillip đã lấp ló ở cửa.
Qua cặp kính đen, các vị trí thức hàng đầu như đọc
thấy thông điệp: “ Các vị làm gì, chúng tôi biết hết. Đừng quên giữ lấy cái sổ
hưu, các vị nhé”.
***
Nhờ bản dịch “Long thành tạp ký”, “ Thọt bỉ nhân” Bùi
La Việt đã tìm ra ngày tháng Lê Lợi và mười tám vị công thần đã hội nhau ở Lũng
Nhai để làm lễ tế trời đất khởi binh tiễu trừ giặc Minh.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Năm Mậu
tuất,(1418, Minh Vĩnh Lạc năm thứ 16), mùa Xuân, tháng Giêng, ngày Canh thân,
vua khởi binh ở Lam Sơn”. “Long
Thành tạp ký” ghi rõ hơn: “ Sau lễ hạ cây nêu, nhằm ngày 8 tháng Giêng, Lê Lợi
tụ hội hào kiệt, mở hội ăn thề ở Lũng Nhai, khởi binh diệt giặc Ngô”. Vậy là,
tính đến mồng 8 tháng Giêng năm Quý tỵ, 2013, hội thề Lũng Nhai vừa tròn 595
năm.
Buổi sáng mùa Xuân, Ban chủ nhiệm “Nguyễn Trãi
Club” tổ chức lễ dâng hương tại tượng
đài Vua Lê bên bờ hồ Hoàn Kiếm, để kỷ
niệm 595 năm Hội thề Lũng Nhai.
Đối diện với tượng đài vua Thái tổ Lý Công Uẩn ở phía
đông hồ mới được dựng để chào đón một nghìn năm Thăng Long - Hà Nội, tượng đài
vua Lê nằm khuất phía mé tây hồ, tại số nhà 16, phố Lê Thái Tổ. Đó là một pho
tượng nhỏ bằng đồng, cao 1,2 mét, dựng trên một trụ đá cao vút, có đế choãi ra
như một trống đồng. Hiếm có một pho tượng cổ đẹp như thế còn lại ở trung tâm
Thăng Long bao phen chìm nổi. Nhà điêu khắc tạc vua Lê trong bộ áo hoàng bào,
thắt đai lưng, đầu đội mũ bình thiên, tay trái chống vạt áo, tay phải cầm kiếm
hơi chúc xuống, đứng uy nghiêm nhìn về phương bắc.
Sử liệu Thăng Long còn ghi lại rằng, nơi đây vốn là
đất của làng Kiếm Hồ, tổng Tả Túc huyện Thọ Xương . Thời Lý, hồ có tên Lục Thuỷ, rồi hồ Thuỷ Quân, thời Lê đổi tên Tả Vọng, ăn thông
ra sông Cái ở Bến Đông. Sau sự tích Lê
Lợi trả gươm cho rùa thần, hồ đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, hay Hồ Gươm. Để ghi
nhớ công ơn Lê Lợi, sau khi vua mất, dân làng Kiếm Hồ lập đền thờ ngài. Hằng
năm, vào ngày giỗ ngài, 22 tháng 8 âm lịch, dân làng Kiếm Hồ và Nam Hương thường tổ chức tế lễ và tái hiện sự tích trả gươm với các nghi
thức lễ hội tưng bừng. Nơi đây từng ghi bút tích và thơ văn của các danh sỹ Vũ
Tông Phan, Nguỵ Khắc Thuần, Nguyễn Văn Siêu, Lê Đình Diên... Tiến sĩ Lê Quý
Thích (1760 – 1825) từng có bài văn tế Lê Thái Tổ Cao Hoàng đế và còn lưu lại
đôi câu đối treo tại đền:
“Hồ tâm dạ
phát linh kim khí
Miếu mạo
xuân hàm dị mộc hương”
( Lòng hồ đêm
đêm vẫn phát ra khí gươm linh thiêng
Miếu điện ngày
xuân vẫn thấm đượm hương thơm kỳ lạ).
Ai là tác giả bức tượng Lê Thái Tổ, vẫn còn là
một ẩn số. Chỉ biết, cụm tượng đài được
dựng trên đất ngôi đền thờ xưa theo lệnh
của vua Thành Thái triều Nguyễn và có
bia đá do quan Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải khắc ghi vào năm 1894, trong thời
gian chính quyền bảo hộ Pháp cải tạo vùng hồ
Hoàn Kiếm thành khu phố Tây.
Khi chủ nhiệm Huỳnh Đạo và các thành viên trong ban
lãnh đạo “Nguyễn Trãi Club” đến tượng đài vua Lê Thái Tổ thì quanh Hồ Gươm vẫn
còn thưa vắng người. Những hàng cây như còn ngái ngủ. Mặt hồ mờ ảo hơi sương,
tưởng như khí thiêng Thăng Long còn đang ngưng tụ nơi đáy hồ, đang bao bọc gìn
giữ những xưa cũ, cổ kính của mọi thời.
Ông “Chủ thuyết” đứng chống tay nhìn ngôi nhà bên
cạnh khu tượng đài vua Lê, nay đã thành trụ sở của một cơ quan văn hoá, nói với
các bạn:
- Các ông có nhớ Hội Khai trí Tiến đức ngày trước
không? Năm tôi mười bốn tuổi, đã được theo ông anh họ vào đấy, nghe mấy ông
Việt Quốc, Việt Cách diễn thuyết. Rồi chửi nhau loạn xạ…
Ông “Văn Giang” nói:
- Tôi thì lại
nhớ hồi Câu lạc bộ Thống Nhất còn đặt
trụ sở ở đây. Vị nào cũng nóng lòng đòi
về Nam chiến đấu. Ba ông bạn tôi đều viết đơn xin đi B một ngày. Chỉ hai năm
sau, cả ba cùng nằm lại dọc Trường Sơn…
Ông “Quá độ” nhìn pho tượng vua Lê đứng khuất lấp sau
vòm cây và những khu nhà xung quanh, nhìn những bậc thềm rêu phong trầm mặc,
bỗng nhớ đến bài thơ thi sỹ Chế Lan Viên viết về những năm đầu thế kỷ XX, khi
thầy giáo Nguyễn Tất Thành trong vai anh Ba xuống con tàu Đô đốc Latouche
Treville rời cảng Nhà Rồng đi tìm đường cứu nước. Ông chợt cảm khái về thế thái
nhân tình, khẽ ngâm nga:
“Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ…”
Câu thơ khiến
ông “Bô xít” đứng ngẩn, bấm đốt ngón tay nhẩm tính, chợt kêu lên:
- Thôi chết rồi. Thế mà không nhớ ra. Hôm nay là ngày
17 tháng 2 dương lịch các vị ạ. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, các vị có nhớ là ngày
gì không? Trời ơi, 34 năm rồi. Chúng ta đã bỏ quên. Lịch sử đã bị bỏ quên. Lòng
ta đã thành rêu phong chuyện cũ cả rồi. Chúng ta vô ơn bội nghĩa với hàng vạn
liệt sỹ đã bỏ mình ở biên cương phía bắc. Liệu chúng ta có-còn-là-người-không?
Ông “Tiên Lãng” giơ hai tay lên trời cao:
- Chao ôi, người ta muốn bỏ quên lịch sử thì người ta
cũng tạo dựng nên được lịch sử. Cho nên bà Nguyễn Thị Lộ bị vu là ngủ với vua,
rồi giết vua, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, có gì lạ.
- Đừng trách chi sử gia Ngô Sỹ Liên. Các sử gia hôm
nay cũng bẻ bút hết cả rồi. Hơn ba mươi năm trôi qua mà không có một dòng trong
sách giáo khoa, không có một dòng trong chính sử… - Ông “Bô xít” bỗng khóc nấc lên, khiến các bạn ông
cùng sụt sịt theo.
Một thanh niên mang vòng hoa và hương tới.
Chủ nhiệm Huỳnh
Đạo và ông “Tiên Lãng” như cùng đồng thanh:
- Cháu làm ngay cho các ông một vòng hoa nữa và ghi
thêm một tấm băng, đề “Đời đời nhớ ơn các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ Quốc”.
Ông “Tà ru” nói:
- Ghi rõ là
“hy sinh tại mặt trận Biên giới phía Bắc”.
Ông “Sổ hưu” xua tay:
- Ghi hy sinh chung chung thôi, kẻo làm phật lòng
bạn…
Anh thanh niên chẳng biết nghe ai, vội phóng xe đi.
Trong khi mọi người dâng hương trước tượng đài vua Lê
Thái Tổ, ông “Chủ thuyết” bỗng đề nghị:
- Không nên đặt lễ ở đây. Chúng ta phải mang vòng hoa
đến tượng đài liệt sỹ Bắc Sơn thắp hương mới phải lẽ, các ông ạ.
Mọi người tán thành ngay.
Cùng lúc đó có
tiếng còi xe cảnh sát réo vang. Các rào chắn
đã được kéo ra ngăn ngang đường Lê Thái Tổ. Phía bên kia hồ, nơi quảng
trường tượng vua Lý và đền Bà Kiệu đã có
mấy trăm người tập trung. Thấp thoáng có cờ đỏ, băng rôn.Tiếng hát từ đám đông
trầm hùng cất lên: “ Biển Đông của ta đâu có phải ao nhà của chúng nó…” Rồi có
tiếng còi cảnh sát. Mấy chiếc xe bus cùng chạy đến kéo người lên. Tiếng hô khẩu
hiệu.Tiếng hò la. Tiếng kêu cứu như xé rách mặt hồ.
- Lại biểu tình về Biển Đông rồi - Ông “Chủ thuyết”
nói.
Ông “Văn Giang” bảo:
- Hình như họ
cũng kỷ niệm ngày 17 tháng 2 trước tượng vua Lý. Hay chúng ta cùng kéo nhau sang
cả bên ấy.
Ông “Sổ hưu” dãy nảy:
- Đừng sang. Các ông không thấy công an và thanh niên
xung kích đang dẹp bọn người quá khích đấy à?
- Thế thì đi
Bắc Sơn - Ông Huỳnh Đạo quả quyết.
Cũng vừa lúc vòng hoa được anh thanh niên ban nãy
mang đến.
Mọi người lên taxi, đem theo vòng hoa có dòng băng
đỏ, chữ vàng: “Đời đời ghi nhớ công ơn
các Liệt sỹ hy sinh vì Tổ Quốc”.
Dọc đường đi, ông “Tiên Lãng” phát hiện ra trung tá
Phạm Tê vận thường phục, đeo kính đen, đuổi xe theo. Hình như Phillip đang ra
sức gọi mọi người quay lại.
Lái xe nói:
- Đường lên lăng Bác bị chặn ở ngã tư Cột Cờ.
Ông “Bô xít” bảo lái xe:
- Cứ phóng thẳng đường Điện Biên Phủ. Nếu bị chặn
thì rẽ đường Nguyễn Tri Phương.
Từ xa đã thấy người vây đặc kín khu đài liệt sỹ Bắc Sơn. Hình như có sự giằng co giữa
một đám đông thanh niên và những người
đến dâng hương. Đám thanh niên không rõ là bọn lưu manh côn đồ hay thanh niên phường, người nào cũng cầm
theo dùi cui. Họ ngăn tất cả những ai mang vòng hoa, hương nến, băng rôn đến
đặt dưới chân tượng đài. Tiếng mấy ông cựu chiến binh cùng gào lên:
- Các anh là
ai? Bọn phản động à? Sao lại cấm nhân dân đến thắp hương tưởng niệm các
anh hùng liệt sỹ chống quân bành trướng?
Một thanh niên
đứng trên bậc tam cấp nói vào chiếc loa pin:
- Đề nghị đồng
bào giải tán. Không có giấy phép của thành phố, không được tự tiện đến thắp
hương đài liệt sỹ…
Tiếng la ó:
- Ai ký giấy
phép? Yêu nước cũng phải xin phép à?
- Mở mạng mà xem. Hôm nay ông bạn vàng mở đại lễ kỷ
niệm chiến thắng dạy cho Việt Nam một bài học đấy. Cờ đỏ rợp trời bên Trung
nguyên kia kìa…Bạn thì kỷ niệm tưng bừng còn ta thì cấm là cớ làm sao?
- Đả đảo… Trần
Ích Tắc, Lê Chiêu Thống…
Mấy người vác vòng hoa cứ ào lên. Những bó hương cháy
bùng như đuốc.
Một xe màu trắng đến giải tán đám đông. Hai xe bus
được điều đến. Những người hăng hái xông lên đài tưởng niệm thắp hương đều bị
bắt đẩy lên xe bus.
Chủ nhiệm Huỳnh
Đạo và các vị trong Ban chủ nhiệm
“Nguyễn Trãi Club” bị chặn xe từ góc đường Hoàng Diệu.
Trung tá
Phillip như từ trên trời rơi xuống, chắp hai tay nài nỉ:
- Con xin các bố… Các bố về đi cho con nhờ… Mọi
việc đã có Đảng và Nhà nước lo…
Ông Huỳnh Đạo gạt tay Phillip, kéo ông “Bô xít” :
- Chúng ta cứ
vào thắp hương. Lúc này là lúc chúng ta phải thể hiện lòng yêu nước.
Đi một đoạn,
ông “Bô xít” và ông chủ nhiệm Huỳnh Đạo bỗng thấy hẫng phía sau. Quay
nhìn lại. Không thấy “ Chủ thuyết”, “Sổ hưu”, “Tiên Lãng”, “ Tà ru”, “ Văn
Giang”… đâu cả. Mọi người đã lủi đâu mất.
Phía chân đài
tưởng niệm, cuộc vây bắt đang hồi quyết liệt. Huỳnh Đạo bỗng kêu thất thanh khi
thấy một người đang tập tễnh nhảy từ trên xe bus xuống. Nhưng ngay lập tức hai
thanh niên cầm dùi cui nhào theo bắt lại.
- Kìa, “Thọt bỉ nhân”! Không được bắt dịch giả Bùi La
Việt!
- Không được bắt người yêu nước lên trại Lộc Hà.
Ông Huỳnh Đạo và ông “Bôxít” kêu toáng lên.
Đúng là chủ trang Web “Thọt bỉ nhân” Bùi La Việt đang
như một Triệu Tử Long tả xung hữu đột. Anh đang cố nhoài người khỏi hai thanh
niên đội mũ dân phòng. Nhưng không thể thoát bốn cánh tay vạm vỡ như hai gọng
kìm.
“Thọt bỉ nhân”
bị lôi xềnh xệch, tống lên xe.
Chú thích:
(1) Viết tắt tiếng Nga: AOH – Akademic Opchatstvenưk
Nauki - Viện hàn lâm khoa học Xã hội, trực thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô.
NGUYÊN KHÍ
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
18. THỌT BỈ NHÂN
Lãm huy nghi học minh dương phượng
Viễn hại chung vi tị dặc hồng…
( Muốn
học chim Phượng, thấy ánh sáng, hót khi mặt trời mọc
Cuối
cùng phải làm chim Hồng tránh mũi tên để khỏi bị hại.)
(Hoạ
hương tiên sinh vận giản chư đồng chí - Ức Trai thi tập - Nguyễn Trãi)
Chủ trang Web “Thọt bỉ nhân” Bùi La Việt có một số
phận khá đặc biệt. Cha anh là người Việt, họ Bùi, mẹ anh người Lào. Tên Việt
của anh, viết đầy đủ phải là Bùi Lào Việt. Và, tên Lào của anh, Phôn Xikhăm,
mang họ mẹ.
Mẹ anh, Phôn Seoly là một thiếu nữ xinh đẹp quê
ở Sầm Nưa, con một cán bộ của Mật trận
Lào yêu nước. Phôn Seoly được gửi sang học văn hoá ở trường Hữu Nghị đóng ở Sơn
Tây, một trường dành riêng cho con em các bộ tộc Lào, nguồn cán bộ cho lực
lượng cách mạng. Tốt nghiệp phổ thông trường Hữu Nghị, Phôn Seoly được tuyển
vào Đại học Tổng hợp Hà Nội, khoa ngôn ngữ.
Cuối năm 1967, một chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam
ở mặt trận Cánh Đồng Chum tên là Bùi Quốc Luận được điều về bổ túc tiếng Lào để
tăng cường cho chiến trường Trung Lào đang thời kỳ ác liệt.
Người phụ
giảng môn ngôn ngữ Lào cho Bùi Quốc Luận, chính là Phôn Seoly. Đôi trai tài gái sắc Việt – Lào
đã bùng nổ mối tình sét đánh. Họ dự định báo cáo tổ chức và hai gia đình để làm
lễ cưới. Nhưng cuộc chiến ác liệt đã không cho họ kịp thực hiện dự định. Bùi
Quốc Luận có lệnh khẩn cấp phải lên đường trở về chiến trường Trung Lào để giúp
bạn thực hiện một nhiệm vụ bí mật trong vùng hậu phương địch. Năm tháng sau, anh đã hy sinh trên
đường từ Xiêng Khoảng đi Xavanakhet.
Bùi Quốc Luận mãi mãi
không thể biết, khi anh nằm xuống trên nước bạn Lào, thì cậu bé Phôn
Xikhăm – Bùi La Việt, tình yêu của anh
và Phôn Seoly, chào đời.
Mang dòng máu Việt – Lào, chú bé Phôn Xikhăm có nhiều tố chất thông minh vượt trội. Mười hai
năm học phổ thông, cậu đều đứng đầu lớp. Đặc biệt, ngay từ nhỏ cậu đã biết thành
thạo tiếng Lào, tiếng Việt và giỏi cả tiếng Trung. Phôn Xikhăm mơ ước sau này
trở thành một nhà Trung Quốc học.
Thế rồi, nguyện vọng của Phôn Xikhăm đã trở thành
hiện thực: Năm 1987, khi bà Phôn Seoly theo chồng là ngài Xôm Bun sang công tác
dài hạn tại Bắc Kinh, Phôn Xi khăm, quốc tịch Lào, là một trong mười hai sinh
viên Lào và là sinh viên có bố là người Việt duy nhất được vào học tại Trường
Đại học Bắc Kinh.
Những năm đó,
quan hệ Việt Nam – Trung Quốc hầu như bị gián đoạn. Tất cả lưu học sinh Việt
Nam, từ năm 1966, đã bị buộc phải về nước do cuộc Đại Cách mạng Văn hoá. Sau
cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, quan hệ giữa hai nước ngày càng căng
thẳng, các cơ quan, tổ chức văn hoá và kinh tế, thương mại của Việt Nam rút hết về nước. Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc
Kinh, như một ốc đảo, số nhân viên rút xuống con số tối giản, chỉ có ý nghĩa
tượng trưng.
Tuy lấy quốc tịch Lào để được sang Bắc Kinh học,
nhưng trong tâm hồn, suy nghĩ, tình cảm của Phôn Xikhăm vẫn thấm đẫm bản sắc Việt. Bởi suốt những năm học
phổ thông ở Việt Nam, anh vẫn thường
xuyên về thăm bà nội và chú bác họ hàng quê nội
ở Suối Yến, Chùa Hương. Bọ Bùi của cha anh, liệt sỹ Bùi Quốc Luận, có cụ
tổ là quan Thái bảo Bùi Quốc Hưng thời
Lê sơ, đã chính thức nhận Việt, ghi tên Bùi La Việt trong gia phả, ngay từ khi
Việt tròn một tuổi được mẹ Phôn Seoly đưa về nhận quê quán, họ hàng.
Người bạn Việt duy nhất của Phôn Xikhăm ở Bắc Kinh
lúc đó là Hoàng Nguyên, đại diện cho cơ
quan báo chí, văn hoá Việt Nam, nằm trong khu Sứ quán. Hoàng Nguyên vừa là
người bạn vong niên vừa là người thầy tiếng Việt và tiếng Hán. Những ngày chủ
nhật, ngày lễ, hầu như Phôn Xikhăm đều đến chỗ
Hoàng Nguyên, đọc các tin tức trong nước và xem phim. Hầu hết các phim
kinh điển nổi tiếng thế giới do các bạn bên Đại sứ quán Liên Xô cho mượn, anh
đều xem hết, có phim xem mấy lần.
Phôn Xikhăm thực sự tự hào về Đại học Bắc Kinh, ngôi
trường anh theo học. Đây là trường Đại học lớn nhất Trung Hoa, được thành lập
từ năm 1898, nơi nhà văn vĩ đại Lỗ Tấn
và các nhà văn Lâm Ngữ Đường, Vương Tiểu Ba, Mao Thuẫn…từng giảng dạy, nơi mà
truyền thống nhân văn và các giáo lý Phương Đông từng thắp lên những ước
mơ hoài bão, hun đúc nên bao nhiêu hiền
tài, nguyên khí không chỉ của nước Trung Hoa vĩ đại mà của nhiều nước trên thế
giới. Phôn Xikhăm mơ ước lĩnh hội được những tinh hoa học vấn ở đây để sau này
cống hiến cho nước Lào, nước Việt.
Rồi, giống như cha mẹ anh, ngay từ đầu năm thứ hai ở
Viện nghiên cứu nhân văn, thuộc Đại học Bắc Kinh, Phôn Xikhăm đã có cuộc tình
sét đánh với cô nữ sinh cùng lớp Vương Tiểu Mẫn. Cha mẹ nàng là người Hán,vốn
sống ở Bắc Kinh. Hồi cách mạng văn hoá, bị quy là trí thức phái hữu, bị đi cải
tạo tại vùng đất tận cùng tây nam của tỉnh Vân Nam. Họ đến đó hai năm thì sinh
ra nàng. Vì thế nàng trở thành người Lan Thương, nói thành thạo tiếng Thái,
tiếng Lào, dễ dàng nói chuyện với Phôn Xikhăm như người đồng hương.
Vương Tiểu Mẫn bảo, cái thị trấn Xisoang Banna ở
thượng nguồn sông Lan Thương, tức sông Mê Kông, đoạn bắt nguồn từ Trung Quốc,
là một chốn thần tiên đẹp nhất địa cầu.
Nàng bảo, nếu thả một chiếc lá, như một lá thư tình, từ bến sông Lan Thương,
mấy ngày sau, nếu Phôn Xikhăm đứng ở bờ sông Mê Kông ngoại ô thủ đô Viên Chăn, hoặc mấy ngày sau nữa, nếu anh
ở Châu Đốc, chỗ ngã ba sông Tiền, sông
Hậu của Việt Nam, anh sẽ nhận được. Nàng hứa, mùa hè tới, nàng sẽ đưa anh về Xisoang Banna thăm
bố mẹ, sẽ đi thuyền độc mộc trên sông
Lan Thương và ăn món xôi nếp ngải tần thơm nhất trên đời.
Thế rồi xảy ra sự kiện Thiên An Môn, mùa hè năm 1989.
Bây giờ nhớ
lại, Bùi La Việt vẫn tưởng như trong mơ. Suốt những ngày hè năm ấy, khi hàng
vạn sinh viên Bắc Kinh tham gia lễ tang Tổng Bí thư Hồ Diệu Bang, Bùi La Việt đã theo Vương Tiểu Mẫn
có mặt ở quảng trường Thiên An Môn. Ban
đầu chỉ là những hoạt động hoàn toàn tự
phát, a dua theo phong trào, hay nói đúng hơn là bị dẫn dụ bởi tình yêu của
nàng Vương Tiểu Mẫn, nhưng rồi dần dần anh nhận ra mình đã bị cuốn hút bởi
những tư tưởng dân chủ do tầng lớp trí
thức và giới trẻ Trung Hoa thổi bùng lên. Giữa bạt ngàn những lều vải,
lán trại, băng rôn, biểu ngữ chật kín
quảng trường Thiên An Môn mênh mông, hàng vạn sinh viên hô vang những khẩu hiệu
chống tham nhũng, đòi cải cách, mở cửa, đòi tự do báo chí, tự do lập hội, truyền cho nhau ý thức về tự do, dân chủ, về sứ mạng của trí thức trong
thời đại mới, thời đại của nước Trung Hoa vĩ đại hoà đồng trong thế giới
hiện đại và thời đại công nghệ toàn cầu.
Bùi La Việt sẽ nhớ mãi hình ảnh Tổng Bí thư Triệu Tử Dương, người thay Hồ Diệu
Bang, thần tượng của các sinh viên Trung Quốc, cùng Chánh văn phòng Trung ương
Đảng, sau này là Thủ tướng Ôn Gia Bảo, cầm loa đi khắp quảng trường đề nghị
sinh viên dừng tuyệt thực, cổ vũ sinh viên, khuyên nhủ họ trở về nhà, hứa hẹn
với họ sẽ tiến hành những cải cách chính trị cho một nước Trung Hoa mới, có một
nền kinh tế thị trường và một nền dân chủ đại nghị.
Sau này, mãi hai mươi năm sau, qua hệ thống internet,
Bùi La Việt mới biết rằng, trong mười lăm năm Triệu Tử Dương bị giam lỏng tại
gia, người thư ký của ông là Bào Đồng đã
bí mật ghi lại những điều ông nói vào một máy ghi âm nhỏ, rồi chuyển ra nước
ngoài, in thành một cuốn hồi ký có tựa
đề: “ Prisoner of the State” (Người tù của nhà nước). Trong cuốn sách
này, độc giả sẽ hiểu, chính Triệu Tử Dương mới là kiến trúc sư cho cải cách
kinh tế ở Trung Quốc chứ không phải Đặng Tiểu Bình. Những năm 1970, khi còn là
lãnh đạo ở Tứ Xuyên, Triệu Tử Dương đã tiến hành những bước cải cách kinh tế
đầu tiên, là mô hình mở cửa cho cả nước Trung Hoa sau này. Ông hoàn toàn đứng
về quan điểm cho rằng Trung Quốc cần một chế độ đại nghị như các nước phương
Tây. Ông cảnh báo, nếu không cải tổ, Trung Quốc sẽ thành một quốc gia do sự
liên kết bè phái giữa Đảng Cộng sản, các nhóm quyền lợi kinh tế và một số trí
thức thượng lưu làm chủ. Họ sẽ không chỉ lũng đoạn nền chính trị mà sẽ luôn đặt
quyền lợi của tập đoàn lên trên số phận của dân tộc Trung Hoa. Trong bài: “Vì
một Chủ nghĩa Xã hội Trung Hoa có bộ mặt người”, ông viết: “ Nếu một quốc gia
muốn hiện đại hoá, nó không chỉ phải áp dụng nền kinh tế thị trường, mà nhất
thiết phải áp dụng nền dân chủ đại nghị cho hệ thống chính trị. Nếu không, dân
tộc đó sẽ không thể nào có được một nền kinh tế thị trường lành mạnh, và cũng
không thể trở thành một xã hội hiện đại với nhà nước pháp quyền. Trái lại, nó
sẽ rơi vào cảnh của nhiều nước đang phát triển, gồm cả Trung Hoa: Quyền lực bị
thương mại hoá, tham nhũng lan tràn, một xã hội phân rẽ giữa người giàu và dân
nghèo”.
Chao ôi, con người vĩ đại đó, với những tư tưởng đi
trước thời đại, đã bị cầm tù ngay trong những ngày cuộc thảm sát Thiên An Môn
xảy ra. Và Phôn Xikhăm – Bùi La Việt
cùng Vương Tiểu Mẫn và hàng nghìn sinh viên đã bị xe tăng càn lướt giữa kinh đô
của nước Trung Hoa nghìn năm văn hiến. Ngày 4 tháng 6 năm 1989, những chiếc xe
tăng của hai quân đoàn 27 và 28 như
những hung thần bằng thép đã nghiền nát phong trào dân chủ sinh viên lớn nhất trong
lịch sử nhân loại. Bùi La Việt bị một cú
đập như trời giáng vào đầu, bị một vật
cứng bẻ gãy cổ chân trái. Anh ngất đi
trước khi nghe thấy tiếng thét thất kinh của Vương Tiểu Mẫn và thân hình mảnh
mai của nàng bị chiếc xe tăng nghiền nát…
Hơn một năm trời điều trị ở mấy bệnh viện Hà Nội, rồi được một lương y danh tiếng chữa
trị, Bùi La Việt mới trở lại được đời thường. Chân trái anh bị tật, đi cà nhắc.
Và thật lạ, sau cú va đập“ lịch sử” tưởng vỡ
toác đầu ở quảng trường Thiên An Môn ấy, Bùi La Việt bỗng có khả năng
nói chuyện với người âm. Anh gặp và trò chuyện với Vương Tiểu Mẫn hằng ngày.
Nàng đưa anh về Xisoang Banna tươi đẹp
như chốn thần
tiên, bơi thuyền độc mộc trên dòng Lan Thương và ăn xôi nếp thơm lừng hương ngải tần. Anh trở thành một nhà
ngoại cảm, là thành viên của Dự án “Khảo sát tiềm năng con người”.
***
Sự kiện xảy ra ở đài liệt sỹ đường Bắc Sơn đã tạo cơ
hội cho Bùi La Việt nhìn thấy một đoàn người kỳ lạ. Ấy là khi vừa bị bắt lên xe
bus, anh bỗng nhìn thấy mấy trăm người, đeo gông, bị dây xích sắt trói thành
một xâu dài chắn ngang đầu xe, khiến ông tài xế bấm còi inh ỏi mà xe vẫn không
tiến lên được. Bùi La Việt vội lấy điện thoại bấm gọi cho ông Huỳnh Đạo:
- A lô, bác
đang ở đâu? Cháu vừa gặp cụ Nguyễn Trãi và cụ Nguyễn Thị Lộ. Họ vừa qua cuộc hành
hình…Pháp trường chắc ở gần đây… Đợt này
bác cháu mình nhất định sẽ được hầu chuyện hai cụ…
Đang nói thì có ai đó giật chiếc máy điện thoại. Ở
đầu máy bên kia, ông Huỳnh Đạo nhìn như hút vào chiếc máy, không hiểu có chuyện
gì xảy ra với “Thọt bỉ nhân”.
Đêm ấy, một giấc mơ kinh hoàng bỗng làm nhà sử học Huỳnh Đạo kêu thét lên,
vục dậy khỏi giường.
Ông mơ thấy một đoàn đông tới hơn trăm người, ai
cũng bị cụt đầu, máu phun thành bọt ở cổ, máu nhuộm đỏ bầm những bộ quần áo vốn
màu trắng tinh khiết. Họ dựa vào nhau xiêu vẹo, dắt díu nhau đi ngang qua kinh
thành. Từ đám đông hai bên đường họ đi, những tiếng hô, tiếng thét khản đặc: “
Triều đình dã man. Ức Trai Tiên sinh và Lễ nghi Học sĩ vô tội”.
Ông Huỳnh Đạo ôm mặt, khóc hu hu. Ông tưởng như người
ta vừa mới hành hình Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ.
Kỳ lạ, sao giấc mơ giống hệt những điều Bùi La Việt
báo qua điện thoại cho ông hôm qua. Từ ngày tham gia “Nguyễn Trãi Club”, ông Huỳnh
Đạo hay mơ thấy Ức Trai tiên sinh. Nhưng là một Nguyễn Trãi đội mũ cánh chuồn,
mặc triều phục, đi hia, như bức tranh người xưa truyền lại còn lưu giữ ở nhà
thờ Nhị Khê. Hồi ông tổ chức xây đền và dựng tượng Đức bà Nguyễn Thị Lộ ở làng
Hới, Hưng Hà, Thái Bình, ông mơ thấy có người nói bên tai: Tượng cao 2,71 mét,
bệ tượng cao 1,8 mét nhé. Và ông nói với nhà điêu khắc làm tượng theo đúng kích
cỡ ấy. Từ ngày quen biết Bùi La Việt, lại biết khả năng ngoại cảm của anh,
nhiều lần, ông cùng Việt và bạn bè cất công đi tìm mộ Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị
Lộ. Nhưng đều vô vọng. Bùi La Việt gặp và nói chuyện với rất nhiều người âm,
nhưng phần lớn là những liệt sỹ chống Pháp, chống Mỹ và đã giúp nhiều gia đình
tìm thấy hài cốt của họ, nhưng riêng với Ức Trai và bà Lộ, thì chưa bao giờ anh
được hầu chuyện, ngoài một giấc mơ gặp Nguyễn Trãi ở cầu Vân gần làng Nhị Khê.
Gần đây một nhà ngoại cảm nữ cho biết: Sau khi bị xử trảm, toàn gia Nguyễn Trãi
đều bị chôn chung một hố, ngay sau pháp trường. Địa điểm pháp trường thời Lê
Sơ, có thể nằm ở khu vực Ô Chợ Dừa ngày nay. Tất nhiên ngôi mộ tập thể ấy bây
giờ đã bị phố xá nhà cửa xây trùm lấp. Riêng hai bộ thủ cấp của hai cụ bị Thái
hậu Nguyễn Thị Anh cho cắm lên cọc tre, bêu trước cổng thành phía nam để uy
hiếp dân chúng. Các môn sinh của Nguyễn Trãi cầu xin được đem thủ cấp thầy đi
chôn. Có nguồn tin, hai bộ thủ cấp được cho vào một túi vải, bí mật mang về
chôn ở gốc cây vải tổ trong Lệ Chi Viên.
Ý định phải tổ chức một lễ Bạt độ cầu siêu cho vợ
chồng Ức Trai Tiên sinh và ba họ đến bây giờ là không thể chậm trễ hơn được.
Chủ nhiệm Huỳnh Đạo bấm máy, gọi cho Đỗ Chí Cao:
- Hôm qua các cậu sang Lộc Hà có được việc không?
Tiếng Cao vang lên trong máy:
- Dạ, em và
Ngô Tháp cùng mấy chục anh em kéo nhau lên đứng chật cổng trại. Họ không có lý do gì để giam giữ người yêu
nước. Lần lượt mọi người được thả. Nhưng riêng Bùi La Việt thì phải đến chiều
tối mới được ra. Họ bảo, trang Web “Thọt bỉ nhân” nếu đưa tin này lên mạng thì
sẽ bị đóng cửa.
- Thôi, “Thọt bỉ nhân” vẫn chưa bị “ nhập kho”, thế
là tốt rồi. Tôi sẽ gọi cho Việt ngay bây giờ. Kế hoạch chúng ta đã bàn, không
có gì thay đổi. Trưa nay tôi xuống Trại Vải trước để cùng các vị dưới đó chuẩn
bị hành lễ. Mai hai chú lấy xe đưa Bùi La Việt xuống nhé.
Lễ cầu siêu bạt độ là một đại lễ siêu thoát cho hương
linh. Đạo Phật quan niệm, khi chết đi linh hồn con người vẫn quẩn quanh nơi họ
sống. Người càng nhiều tội lỗi, hay người bị nhiều oan ức, nếu không cầu Địa
Tạng vương Bồ tát và các đồng môn của
đức Phật tẩy trần và dẫn độ, sẽ không đi
qua được âm phủ, không được siêu thoát, không tới được cõi Niết bàn. Giấc mơ
của ông Huỳnh Đạo càng cho ông khẳng định nỗi oan tày trời suốt gần sáu trăm
năm qua của hai cụ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Cho nên, một lễ Bạt độ tổ chức
quy mô, bài bản, do mười hai vị đại đức chư tăng tên tuổi từ Huế, Đà Nẵng ra,
từ Chùa Hương, Yên Tử đến, khiến ông chủ nhiệm “Nguyễn Trãi Club” phần nào
thanh thản về mặt tâm linh.
Nhưng để chính những người trong cuộc nói về nỗi oan
khuất, về sự thật của vụ thảm án Lệ Chi
Viên, thì không ai có khả năng đối thoại với những người âm, ngoài “Thọt bỉ
nhân” Bùi La Việt. Sau vụ giúp họ Bùi và
làng gốm Chu Đậu tìm thấy mộ và thân thế
sự nghiệp tượng nhân Bùi Thị Hý, uy tín của Bùi La Việt trong giới ngoại cảm
càng tăng. Vả lại, chính Bùi La Việt vừa nhìn thấy hai cụ và họ hàng kéo nhau
qua kinh thành, tức là khả năng có cuộc gặp sắp tới là rất cao. Ông Huỳnh Đạo,
và nhất là hai nhà văn hoá Ngô Tháp và Đỗ Chí Cao, cùng các vị trong Ban chủ
nhiêm “Nguyễn Trãi Club” hy vọng cuộc gọi hồn này, nếu thành công sẽ được viết
riêng thành một chương phụ lục để in trong cuốn “Long Thành tạp ký” sắp xuất
bản.
***
Đêm ấy là một đêm Liêu Trai.
Khu đền thờ
quan Lễ nghi Học sĩ tại Lệ Chi Viên nằm giữa cánh đồng, lưng dựa vào
triền đê sông Đuống, tức sông Thiên Đức ngày xưa, sáng trưng đèn nến, nghi ngút
khói hương. Đền mới được nhân dân địa phương cùng các nhà hảo tâm và “Nguyễn
Trãi Club” xây dựng trên nền hành cung thời Lý, Trần, Lê. Tại gian chính điện
được phối thờ hai ngài: Ức Trai tiên
sinh và Lễ nghi Học sĩ. Trước đền là một sân rộng, phía bên phải, trên gò đất
cao, pho tượng Đức Bà bằng đá trắng dưới vòm cây cổ thụ, phía bên trái là Giọt
lệ Lệ Chi Viên bằng đá đỏ nguyên khối, như đang rỉ máu.
Cuộc lễ hầu
đồng đặc biệt, kết hợp mời đồng và ngoại
cảm tâm linh, được tiến hành tại chính điện thờ Đức bà Nguyễn Thị Lộ, ngay sau
lễ cầu siêu bạt độ.
Kính cẩn trước
ban thờ Ức Trai tiên sinh và Lễ nghi Học sĩ, “Thọt bỉ nhân” Bùi La Việt, áo
dài the lam, quần trắng, khăn xếp đen, đứng vai chủ lễ. Từ ba ngày nay, Bùi La
Việt tắt nguồn điện thoại, sửa mình, ăn
chay, toàn tâm cho cuộc lễ tối linh này.
Từ ngày biết mình có khả năng ngoại cảm, anh luôn thành tâm muốn được kiến diện
hai danh nhân văn hoá vĩ đại của nước Việt. Trợ giúp anh tối nay là hai Thanh
đồng, hội viên Hiệp hội UNESCO vùng Đông Bắc, Nguyễn Bích Hà và Đào Cảnh.
Khung cảnh diễn xướng lễ hội, chen không khí tâm linh
với khói hương nghi ngút, cờ quạt, mũ áo rực rỡ. Dàn nhạc cung văn bỗng rộn rã. Điệu chầu văn trong vắt vút lên:
“ Triền sông
gió cuốn rung cây
Sóng im cá
lặn chim bay về ngàn
Canh khuya
nguyệt lặn sao tàn
Lệ Chi Viên
chốn linh đàn là đây
Hồn thiêng
còn tỉnh hay say
Í i ì…….. i
a à a a…
Hồn thiêng
còn tỉnh hay say
Bể đời oan
trái biết ngày nào vơi
Thỉnh cầu
Thánh mẫu cao vời…
Giá đồng thứ nhất.
Thanh đồng Nguyễn Bích Hà trong bộ lễ phục màu trắng,
áo dài cổ cao, thêu hoa văn kim tuyến, đầu đội mũ vành dây màu trắng, có giắt kim thoa, trâm
ngọc.
Bùi La Việt thắp hương, dâng sớ khấn mời quan Lễ nghi
Học sĩ Nguyễn Thị Lộ về nhập đồng.
Thanh đồng Nguyễn Bích Hà được hai hầu dâng, cũng
quần áo trắng, ngồi hầu hai bên, giúp trùm khăn phủ diện nhiễu đỏ. Thanh đồng
lảo đảo chờ đồng giáng, một tay cầm hương, một tay cầm quạt, bước những vũ điệu
đầu tiên trong tiếng đàn đáy, tiếng nhị, tiếng trống, phách, sinh tiền rộn rã.
Những vũ điệu ban đầu khoan thai, mê hoặc, rồi nhanh dần, bốc lửa, dồn dập.
“Thỉnh cầu
Thánh mẫu cao vời…
Lễ nghi Học
sĩ một đời thanh cao
Vì chưng
vướng nạn ba đào
Bị loài ma
quỉ ghép vào khi quân
Nỗi oan thấu
tận trời xanh…”
Hết điệu chầu văn tiếp dẫn, thanh đồng lảo đảo vì
nhảy múa quá sức. Vẫn không có tín hiệu Lễ nghi Học sĩ giáng đồng.
Giá đồng thứ hai.
Thanh đồng Đào Cảnh trong bộ lễ phục màu vàng, áo
hoàng bào, hoa văn thêu kim tuyến, đầu vấn khăn xếp vàng, ngồi đồng.
Bùi La Việt thắp hương, dâng sớ khấn mời quan Thừa
chỉ Hành khiển Nguyễn Trãi về nhập đồng.
Chiếc khăn phủ diện nhiễu đỏ được hai hầu dâng trùm qua đầu thanh đồng Đào Cảnh.
Lại những điệu múa cờ, múa bút uyển chuyển theo lời
hát. Rồi mỗi lúc một dồn dập, bốc lửa.
Nhưng vẫn không có tín hiệu Ức Trai tiên sinh về nhập
đồng.
***
Trong khi lễ
hầu đồng vẫn tiếp diễn với các giá đông chúa Mẫu thượng ngàn, ông Hoàng
Bẩy, Hoàng Mười… thì Ngô Tháp và Đỗ Chí Cao kéo ông Huỳnh Đạo, ông
“Bôxít”, ông “ Lỗi hệ thống”, ông “Tiên
Lãng”… ra ngoài khu tượng đài Đức Bà. Đó là một pho tượng toàn thân bằng đá hoa
cương trắng, tạc quan Lễ nghi Học sĩ ngồi trên đài hoa, tay phải cầm bút, tay
trái đặt trên lòng, cầm quyển sách mở, dáng bà thanh cao đài các toát lên vẻ
đẹp đôn hậu, tài đức vẹn toàn.
Mấy người cùng thắp hương cầu khấn hồi lâu. Ông “Quá
độ” nói:
- Có thể do
chúng ta làm chưa nghiêm cẩn, nên Ức Trai tiên sinh và Lễ nghi Học sĩ không về
giáng đồng.
Ông Cao trầm ngâm:
- Tôi rất chịu khó nghiên cứu tâm linh, nhưng chưa
thấy cụ Nguyễn Trãi nhà mình hiển linh
bao giờ. Có lẽ nỗi oan quá lớn. Cụ quá
hận…
Ông “ Bôxit” nói:
- Cũng có thể hai cụ không thể về khi mà thân xác còn
bị chia lìa nhiều nơi…Những người chết không toàn thây, khi liệm, người nhà
phải tìm bằng được các bộ phận đã tách rời.
Ông Huỳnh Đạo tư lự :
- Hồi tìm thấy cái cũi gỗ lim dưới ao thôn Khuyến
Lương, chúng tôi cứ nghĩ xác hai cụ đã được dân mang về chôn ở trang Cổ
Mai…Nhưng sau có nguồn tin lại nói thủ cấp hai cụ được môn sinh đem về chôn
giấu ở Lệ Chi Viên…
Ông “Tiên Lãng” tỏ ra là một chuyên gia về đất đai:
- Sáu trăm năm…tất cả đều thành cát bụi, thành các
hạt sóng. Chôn ở đâu thì cũng bay tứ tán trong không trung…
- “Thọt bỉ nhân” có vẻ rất mệt mỏi - Ông “ Lỗi hệ
thống” nói - Cậu ta làm việc nhiều quá, mất khả năng ngoại cảm. Có khi mất sóng
vì vụ nhập trại Lộc Hà. Các vị nên để Việt nghỉ cho lại sức.
Cả Cao và Thấp cùng đồng tình. Thấp mở bao ba số mời
mọi người.
- Phải đấy. Ta
đành đợi dịp khác. Bây giờ con đề nghị bố chủ nhiệm vào tuyên bố với hội hầu
đồng, rồi ta giải tán. Em và bác Cao sẽ tháp tùng các bố và đoàn hầu đồng về
khách sạn phố huyện. Phải đánh một giấc cho lại sức các bố ạ.
***
Quá nửa đêm. Lệ Chi Viên lại trở về với sự u tịch
thâm nghiêm thường ngày.Tiếng côn trùng cùng đồng thanh tấu lên bản nhạc muôn
thuở. Gió sông Đuống thổi phần phật ngọn cờ đại giữa sân, chạy lao xao trên mái
ngói, rì rào trên ngọn bồ đề, trên những vòm vải đang mùa thay lá.
Bùi La Việt vừa đặt mình đã chìm vào giấc ngủ sâu.
Một giấc ngủ đủ lấy lại sinh lực sau mấy ngày đầy biến cố. Phía tấm phản bên
cạnh, ông Huỳnh Đạo ngáy như sấm, hệt như một ông thợ cày sau một buổi làm
đồng.
Có một bàn tay mịn mát đặt nhẹ lên vai Việt. Rồi
hương thơm thoang thoảng toả ra từ mái tóc con gái phả vào mặt anh, mùi hương
của hoa ngải tần không thể lẫn được.
- Em đây. Vương Tiểu Mẫn đây…
- Anh đã nhận ra mùi hương ngải tần…
- Em rất hạnh phúc khi anh vẫn yêu em như ngày ấy…
Này, hình như có ai đang muốn gặp anh ở ngoài kia…
- Vương Tiểu Mẫn…em đừng đi. Anh muốn chỉ có hai đứa
mình …
Việt chới với nắm lấy bàn tay nàng.
Và anh choàng
mở mắt. Bàng hoàng.
Như một thông điệp ngầm, mỗi lần mơ thấy Vương Tiểu
Mẫn, là một lần nàng mách bảo anh một điều gì. Việt nhẹ nhàng vòng sau tấm phản
để khỏi ảnh hưởng giấc ngủ của ông Huỳnh Đạo, rồi đi theo mùi hương ngải tần
dẫn dụ. Tiểu Mẫn muốn đưa anh ra chỗ tượng Đức Bà.
Như có phản xạ tâm linh mách bảo, sau khi thắp hương
cầu khấn trước tượng Đức Bà, Bùi La Việt đi lại chỗ miếu thổ thần, dưới gốc xà
cừ. Anh ngồi thế kiết già, nhắm mắt, hoàn toàn chìm vào vô thức.
Chếch phía tay trái, chỗ gò đất cao, một ông già thấp
nhỏ, râu thưa, đầu đội mũ cánh chuồn bằng sa đen, vận bộ lễ phục gấm lục đã cũ,
chân dận hài cỏ, lững thững đi lại.
Hình như tiếng gió đánh thức “Thọt bỉ nhân”. Anh vừa
đặt mình đã chìm vào giấc ngủ sâu. Một giấc ngủ đủ lấy lại sinh lực sau mấy
ngày đầy biến cố.
Việt trở dậy, cố nhẹ nhàng để khỏi ảnh hưởng giấc ngủ
của ông Huỳnh Đạo. Anh vươn vai hít một hơi thở sâu và đi ra chỗ tượng đài Đức
Bà.
Rõ ràng, lúc xe chở Bùi La Việt trên đường sang Lộc
Hà, anh đã nhìn thấy hai cụ Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ cùng đoàn tử tù. Từ hôm
ấy, Việt luôn hướng dòng tìm kiếm hai cụ, mà sao vẫn bặt vô âm tín.
Như có phản xạ tâm linh mach bảo, sau khi thắp hương
tượng Đức Bà, Bùi La Việt đi lại chỗ miếu thổ thần, dưới gốc xà cừ. Anh thắp
hương và ngồi thế kiết già, nhắm mắt, hoàn toàn chìm vào vô thức.
Từ chếch phía tay trái, chỗ gò đất cao, Bùi La Việt
nhận ra một ông già thấp nhỏ, râu thưa, đầu đội mũ cánh chuồn bằng sa đen, vận
bộ lễ phục gấm lục đã cũ, chân dận hài cỏ.
Bùi La Việt chắp hai tay trước ngực, cung kính:
- Bẩm, ngài là Thổ thần Lệ Chi Viên?
- Đúng vậy. Ta là Phạm Mỗ…, quan sở tại trông coi
hành cung này từ thời đức vua Lê Thái Tổ…
- Vậy thì chúng con đã tìm đúng người rồi. Thưa Thổ
quan. Con là Bùi La Việt, biệt danh là “Thọt bỉ nhân”, cùng mọi người có mặt
hôm nay, là những con dân nước Việt vô cùng kính yêu và ngưỡng vọng Ức Trai
tiên sinh và quan Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ. Vì cái chết oan khuất của hai
cụ và lương dân ba họ, chúng con tổ chức lễ cầu siêu và muốn được giải nỗi oan
cho người xưa. Nay được vinh hạnh hầu chuyện quan Thổ địa, người cai quản hành
cung Lệ Chi Viên, và từng chứng kiến cái chết bí ẩn của vua Lê Thái Tông cùng
nỗi oan khuất tày trời của Lễ nghi Học sỹ. Nay ngài cho chúng con hỏi: Có phải
thủ cấp hai quan ngài đã được các môn đệ mang về an táng tại nơi đây?
- Nhầm rồi. Ta chưa hề có vinh hạnh được gặp hai quan
ngài tại bản sở của ta kể từ vụ đức vua Thái Tông băng hà.
- Vậy ngài chắc biết rõ cái chết của nhà vua? Xin
ngài hãy kể lại cho hậu thế nghe…
- Chuyện dài lắm…Đức vua chết trẻ, nên ngài rất thiêng.
Thỉnh thoảng ngài vẫn dẫn quan binh rầm rập về đây, đòi xử tội đứa đã giết vua…
- Chắc không phải là quan Lễ nghi Học sĩ, thưa Thổ
quan.
- Không đời nào có chuyện đó. Hoàng hậu vu hoạ cho
Đức Bà… Ta biết cả, nhưng cứ phải ngậm bồ hòn suốt mấy trăm năm, bây giờ thì ta
nói hết. Các vị có biết Quốc cữu Nguyễn Phù Lỗ không? Ông ta cùng với Lương
Đăng, Tạ Thanh theo lệnh Hoàng hậu bày
đặt ra cuộc mưu sát này. Nghe nói ban đầu Hoàng hậu chỉ muốn ngăn không cho
quan Thừa chỉ Hành khiển về triều thôi. Nhưng đến khi nhà vua về Côn Sơn, gặp
Nguyễn Trãi và quyết mời bằng được ngài về triều vào ngày giỗ vua Lê Thái Tổ,
thì tình thế hoàn toàn thay đổi. Nhà vua đã biết chắc chắn Bang Cơ không phải
là con của ngài. Trước đó các vị có biết nhà vua đi duyệt thuỷ quân ở bến đò
Rừng và ngài đã gặp Tiệp dư Ngọc Dao và
Hoàng tử Lê Tư Thành không? Cuộc gặp đó
mới thật nguy hiểm, đẩy quan Thừa chỉ và quan Lễ nghi Học sĩ đến chỗ chết. Khi
Tạ Thanh cho người phi ngựa lưu tinh về triều mật báo với Hoàng hậu cuộc gặp gỡ
ở bến đò Rừng ấy, Nguyễn Thị Anh lập tức quyết định hạ độc cả ba người: đức vua
và vợ chồng ngài Nguyễn Trãi. Nếu để nhà vua sống, chắc chắn ngài sẽ giết Hoàng
hậu và Bang Cơ. Vì Bang Cơ, theo những chứng cứ của tẩm cung và lời đồn đại
trong dân chúng, không phải là con ngài. Sổ sách ghi chép ngày giờ nhà vua ngự
dâm với Hoàng hậu, hai hoạn quan Đinh Thắng, Đinh Phúc đã viết rành rành. Trong
thời gian hai quan hoạn họ Đinh theo vua đi kinh lý Chí Linh, Hoàng hậu đã cho
thám tử đột nhập phòng hai ông và lấy được quyển sổ ghi chép ấy. Hoàng hậu
biết, chỉ sau đợt kinh lý miền Đông và đợi Nguyễn Trãi về triều, đức vua sẽ xử
tội mẹ con bà, rất có thể sẽ tàn bạo hơn đã xử với mẹ con bà Dương Thị Bí, Nghi
Dân.
- Dạ thưa Thổ quan, vậy sao sử thần Ngô Sỹ Liên lại
viết trong “Đại Việt sử ký toàn thư” là “ Vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ
rồi băng…”?
- Đó là cái
chỗ hèn của sử gia và dã tâm thâm độc của Thái hậu. Các vị có nhìn thấy dãy
hành cung đằng kia không? Đấy, chỗ bây giờ đặt bức tượng Giọt lệ ấy. Bên cạnh
tẩm điện nhà vua là phòng nghỉ của Tổng quản Hành quân Thái uý Trịnh Khả. Vua
đi đâu, ngồi đâu, quan Thái uý không dời một bước. Vậy mà khi Nguyễn Phù Lỗ đến
tiền trạm, ông ta đã tự ý thay phòng nghỉ của quan Thái uý, tự ý xếp quan Lễ
nghi Học sĩ vào nghỉ tại phòng đó. Sắp xếp như thế vừa có dã tâm đẩy quan Tổng
quản Hành quân ra xa vua để dễ bề tiến độc, vừa buộc Đức Bà phải gần vua để dễ
bề vu cáo. Ta nhớ rất rõ, khi quan Lễ
nghi Học sĩ đã khéo léo từ chối không ở biệt phòng đó, mà cứ nằng nặc đòi được
ở chung với các cung nữ, thì cả hai vị Nguyễn Phù Lỗ, Tạ Thanh đều nói rằng, đó
là ân điển của Vua ban. Tưởng quan Thừa chỉ Hành khiển cùng về dịp này, nên
Viện nội mật đã bố trí biệt phòng cạnh vua cho hai người. Chớ nên thay đổi mà
phật ý Hoàng thượng. Biết ý định ấy, nhà vua còn khen Tạ Thanh: “ Các ngươi biết nghĩ vậy ta cũng thấy mát
dạ. Tối nay ta cũng có câu chuyện muốn đàm đạo với quan Lễ nghi Học sĩ”.
- Thưa Thổ
quan, nghe nói đức vua bị cảm mạo từ buổi trưa, lúc thuyền ngự vào sông
Thiên Đức?
- Đúng là đức
vua khó ở và gai sốt từ lúc thuyền ngự qua mộ Bạch Sư ở cầu Bông. Suốt một tuần
kinh lý, duyệt đại quân, rồi thống lĩnh ba quân tập thuỷ trận ở cửa Bạch Đằng,
ngọc thể nhà vua có phần giảm sút. Người gắng vui và còn dự tiệc mừng của bản
dân sở tại, ban ngự tửu cho quan quân. Tối ấy, bốn thượng quan ngự y của triều
đình và hàng chục cung tần do Quốc cữu phái xuống thay nhau thuốc thang, túc
trực. Riêng Thái uý Trịnh Khả thì hầu như không dời Hoàng thượng lúc nào…
- Dạ, ngài tin là lúc nào quan Thái uý cũng ở
bên đức vua?
- Sao ta lại nhầm lẫn được? Nhưng có điều này, ta
thấy nghi ngờ. Ấy là khi quan ngự y cho nhà vua uống thuốc xong, ngài bỗng nôn
thốc nôn tháo, đi không vững. Chính quan Thái uý phải dìu ngài ra phòng hậu
tẩm. Rồi ngài kêu mệt, nằm thiếp trên long sàng. Khi ấy chỉ có hai viên ngự y,
sáu thị nữ và quan Tổng quản Hành quân
đứng túc trực…
- Và cả quan
Lễ nghi Học sĩ nữa?
- Không. Lúc
ấy Đức Bà đã về phòng mình. Có lẽ ngài đã chuẩn bị đi ngủ. Chợt ta thấy
bóng Tạ Thanh và Nguyễn Phù Lỗ. Hai ông thì thầm với nhau một lúc, rồi thấy Tạ
Thanh rón rén đi vào bẩm với nhà vua điều gì. Vua gật đầu, gượng dậy đi ra võng
nằm. Nội quan vội sang gõ cửa phòng Đức
Bà. Một lúc, thì ngài choàng áo đi sang. Thấy Đức Bà, gương mặt nhà vua bừng
sáng lên. Nhà vua gắng gượng ngồi trên võng, ra hiệu cho mọi người lui, rồi hỏi
chuyện quan Lễ nghi Học sĩ. Đức Bà kéo ghế ngồi bên võng hầu chuyện vua. Ta
thấy nhà vua chăm chú lắng nghe, như một đứa trẻ nằm nghe mẹ kể chuyện cổ tích.
Rồi ngài thiếp đi lúc nào… Đến khi Đức Bà hỏi lại, thấy nhà vua im lặng, thì
hoảng sợ quá, kêu thất thanh…
- Thưa Thổ
quan. Ngài có biết nhà vua và bà Lộ nói những câu chuyện gì?
- Ta nghe loáng thoáng về chuyện quan Thừa chỉ Hành
khiển sắp về triều. Về bộ “Quôc triều Hình luật” mà Nguyễn Trãi mới soạn xong.
Và có điều này, lúc ấy hai người nói nhỏ lắm, nhưng ta nghe rất rõ. Nhà vua
hỏi: Có chuyện này ta vẫn nghi ngờ từ lâu, quan Lễ nghi Học sĩ chớ có giấu ta.
Có đúng là Bang Cơ không phải con của ta không? Đức Bà biến sắc mặt, nói lảng sang
chuyện khác. Ta thấy vua đấm ngực kêu đau… Rồi bất ngờ nhà vua gọi Mẹ, hỏi quan
Lễ nghi Học sĩ về mẹ ngài là Cung từ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần, về cái
chết của bà…Quan Lễ nghi Học sĩ kể đến đó thì nhà vua ôm mặt khóc nấc lên: “Mẹ
ơi!”… Thế rồi suốt từ đấy, đức vua lặng đi, không bao giờ nói nữa…
- Những điều ngài nói thực vô cùng hệ trọng. Lần đầu
tiên, sau gần sáu trăm năm, sự thật lịch sử
này mới được hé lộ. Lớp hậu sinh chúng con xin vô cùng cảm ơn ngài.
Nhưng có điều này xin được mạn phép thỉnh cầu. Ngài đã giúp chúng con thì giúp
cho chót…
- Còn điều gì nữa ông cứ nói. Chính ta mới phải
cám ơn hậu thế các vị... Ta mang tiếng
là kẻ công bộc trông coi đất này mà suốt
mấy trăm năm như kẻ vô tích sự, như lão già lẩm cẩm bị lãng quên. Giờ được hỏi
han đến, ta như được sống lại.
- Dạ, phiền Thổ quan thỉnh cầu cho chúng con được
kiến diện đức vua Lê Thái Tông…
- Ồ, sao không nói từ nãy? Đức vua là một người trẻ
tuổi, anh minh. Ngài vừa đi ngang qua đây. Để ta thỉnh ngài cho các vị gặp nhé.
***
Ông Huỳnh Đạo nhìn quanh, không thấy “Thọt bỉ nhân”
đâu, hoảng quá, định kêu lên. Nhưng rồi mùi hương trầm thơm ngát từ phía miếu
Thổ thần, khiến ông định thần nhìn ra. “Thọt bỉ nhân” như một đạo sĩ đang ngồi
bất động. Ông biết, Việt đã tiếp cận được với người âm.
Chính lúc ấy, vua Lê Thái Tông đang đi về phía “Thọt
bỉ nhân”.
Ngài khoan thai, thanh thoát, đôi mắt tinh anh sáng
rực, tiếng ngân như chuông:
- Ta chờ đợi
ngày này lâu lắm rồi. Chính ta mới là người bị oan ức nhất. Oan mà không ai
hiểu cho ta. Không ai nói và viết giúp ta, thanh minh cho ta.
“Thọt bỉ nhân” khoanh tay, kính cẩn:
- Thưa Hoàng thượng, Người oan ức gì? Có phải Người
bị tiến độc?
- Vậy ta chết vì nỗi gì? Ta đường đường là một đấng
thiên tử, vào tuổi hai mươi sức trẻ tràn đầy, vừa ba lần cầm quân đi tiễu bọn
man di quấy nhiễu biên viễn,vừa tập thuỷ trận trên cửa Bạch Đằng, sao ta lại có
thể chết bất đắc kỳ tử được? Sao các
ngươi lại tin vào ba dòng chữ vớ vẩn của
tên thư lại bồi bút Ngô Sỹ Liên? Hắn vu
cho ta chết trên bụng quan Lễ nghi Học sĩ, tức là ta ngủ với bà và bị phạm phòng? Ha ha ha…Đồ đểu. Đồ vô liêm sỉ.
Mang danh kẻ sĩ, học chữ thánh hiến, sao lại có thể viết càn rỡ đến như thế?
- Xin Hoàng thượng bớt giận. Hình như trong “Tam
triều bản kỷ” Tiến sĩ Ngô Sỹ Liên viết khác? Cuốn sách này có thể đã bị triều
đình kiểm duyệt phế bỏ, hoặc bị chính tác giả tự tiêu huỷ? Có lẽ sử gia Ngô Sỹ
Liên quá bị áp lực của Thái hậu mà phải bẻ cong ngòi bút? Kẻ sĩ thực khó mà giữ
được ngay thẳng trong một chế độ độc tài.
- Ngươi nói chí lý. Bọn tiến sĩ khai khoa mấy chục
tên đi theo ta xuống Côn Sơn khi ấy đều sợ hãi, khiếp đảm, mặt xanh như đít
nhái, có kẻ khi bị Thái hậu hỏi đến sợ vãi đái ra quần. Đến như Tổng quản Hành
quân Thái uý Trịnh Khả, võ quan đầu triều, thân tín số một của ta, định tâu
rằng ta bị ngộ độc, liền bị ả ta cho tay chân là bọn Lương Đăng, Tạ Thanh,
Nguyễn Phù Lỗ, bày trò cách ly thẩm vấn ông ta trong cung Hoa Dương, rồi doạ vu
cho ông ta đã thông đồng với Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, gây ra cái chết của
ta. Một người dọc ngang trời đất, cưỡi voi tả xung hữu đột giữa vạn quân Ngô,
coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vậy mà trước Nguyễn Thị Anh đành phải khuất
phục. Bịt được miệng Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục, thì bọn kẻ sĩ Long Thành chỉ
là tôm tép, dòi bọ.Thị Anh giả vờ thương tiếc ta để thoả sức giết người diệt
khẩu. Anh em Đinh Thắng, Đinh Phúc bị chết sau án tru di của Nguyễn Trãi 23
ngày…
- Thưa đức
vua, hậu thế vẫn chưa biết gì về Thái hậu Nguyễn Thị Anh…
- Ta chưa thấy trên đời có người đàn bà nào quái kiệt
như ả…Đát Kỷ, Võ Tắc Thiên bên Tàu cũng chỉ đến thế là cùng. Ngay lần gặp đầu
tiên ta đã bị Nguyễn Thị Anh hút hết hồn vía. Ta trở thành tôi đòi của ái tình.
Ả ta xoá nhoà hết bọn Huệ phi Nhật Lệ, Hoàng hậu Dương Thị Bí, Tiệp dư Ngọc Dao
và hàng trăm mỹ nữ cung tần. Ả ta là nàng tiên và con quỷ trên long sàng. Mỗi
lần ngự dâm với ả là một lần ta đến một cõi thiên thai khác lạ. Ta mê muội ả
đến mức, khi ả ngỏ ý đòi cho Bang Cơ lên ngôi Đông cung Thái tử, ta liền phế truất
ngôi của Dương Thị Bí và Nghi Dân ngay không cần suy tính…Mụ như phù thuỷ, sai
khiến ta bất cứ việc gì.
- Và nhà vua
đã mắc mưu gian…
- Ta thật là
đáng thương… Thấp mưu thua trí đàn bà… Biết chuyện hoang thai, trò gian
dâm sắp bị lộ, Nguyễn Thị Anh đã không chần chừ, quyết ra tay hạ độc ta. Ác độc
hơn, ả giết ta nhưng lại mượn cái chết của ta để giết luôn cả Ức Trai tiên sinh
và Lễ nghi Học sĩ. Đây là tội ác khủng khiếp với cả trăm họ. Bôi đen lịch sử,
thoá mạ lịch sử, mức độ tàn ác ấy còn tăng gấp nhiều lần. Nó ngấm ngầm huỷ hoại
hậu thế. Với quan Lễ nghi Học sĩ, người vợ yêu của Ức Trai tiên sinh, thì đây
là sự sỉ nhục tàn độc nhất. Quan Thừa chỉ Hành Khiển là người thầy vĩ đại của
ta, điều này hiển nhiên rồi. Quan Lễ nghi Học sĩ cũng là sư phụ đáng kính của
ta, người mà trong thâm tâm ta lúc nào cũng coi như mẹ đẻ của mình. Xúc phạm
đến bà là xúc phạm đến mẹ ta, đến tất cả những người mẹ Việt. Còn ta, sử quan
các ngươi còn nợ ta một lời xin lỗi. Ta đường đường là một vị vua trẻ tuổi,
được đức Tiên đế cha ta giao cho những đại sư phụ bậc nhất nước Việt, về võ thì
có các đại tướng Nguyễn Xí, Trịnh Khả,
Đinh Liệt…, về văn thì có Ức Trai tiên sinh, Chuyết Am tiên sinh, Cúc Pha tiên
sinh, Mặc Hiên tiên sinh…(1), những võ tướng, danh thần tiếng tăm
lừng lấy, chỉ nhắc đến, giặc Minh đã kinh hồn khiếp đảm.
Tuổi ấu thơ ta
được nuông chiều, ta chơi bời, lêu lổng, dại dột, nhưng càng lớn ta càng biết
nghĩ, biết liêm sỉ, chứ đâu phải phường dê chó để mà bị phạm phòng trên bụng người đáng tuổi mẹ
mình? Vậy mà bọn văn sĩ các ngươi nhiều kẻ còn khoái trá, bệnh hoạn, khai thác
cái đêm cuối cùng của ta, viết về cái chết của ta như một cuộc hoan lạc bẩn
thỉu và bỉ ổi nhất. Chao ôi, các ngươi thừa biết ta có hàng trăm mỹ nữ cung
tần. Mới chớm tuổi mười sáu, triều đình đã ép ta lấy vợ, rồi lấy liền trong ba
năm tới bẩy cô nường. Ha ha…Ta có thể lấy nữa, thậm chí cả trăm vợ. Ta thiếu gì
đàn bà để tiêu khiển, hà cớ gì tên sử nô kia lại vu cho ta ngủ với một người
đáng kính như quan Lễ nghi Học sĩ, vợ của đại sư phụ ta, ở một hành cung sơ
sài, trước hàng nghìn con mắt của văn võ bá quan triều đình đang dõi nhìn vào?
Hả? Ai dựng lên câu chuyện tày đình này? Ai bịa tạc ra câu chuyện rắn báo oán,
vu cho quan Lễ nghi Học sĩ là xà tinh, vì thù Nguyễn Phi Khanh mà hãm hại Ức
Trai? Chính Nguyễn Thị Anh mới là con rắn độc. Chỉ cần ta sống thêm vài ngày
nữa, ta sẽ xử con rắn độc đó với sự trừng phạt khủng khiếp nhất. Sau này Nghi
Dân nói: “Diên Ninh tự biết mình không phải là con của tiên đế”(2),
tức Bang Cơ không phải con ta, là đúng đấy. Ta đã có đầy đủ chứng cớ do bọn
Đinh Thắng, Đinh Phúc và vợ chồng quan Đại Tư mã Đinh Liệt cung cấp. Sau cuộc
gặp mẹ con nàng Ngọc Dao ở bến Đò Rừng, thấy Tư Thành đúng là con trai ta, đúng
là tiên đồng giáng sinh như trong mộng, có tướng mạo của bậc đế vương thì lòng
ta đã quyết. Ta muốn mời Ức Trai về triều xem ta xử mẹ con kẻ lăng loàn, nghịch
tử, rồi ta đón Tiệp dư Ngọc Dao và con trai tiên đồng Lê Tư Thành của ta về
triều tôn vinh ngôi Đông cungThái tử. Hỡi ôi, không ngờ mệnh của ta có hạn. Kế
sách của ta bị lộ. Con rắn độc Nguyễn Thị Anh đã ra tay trước…
- Thưa Hoàng thượng, nhưng người ta có quyền nghi ngờ
ngài. Sao đến phút cuối cùng, vào lúc đêm khuya, ngài lại cho gọi quan Lễ nghi
Học sĩ? Và câu chuyện giữa hai người có bí mật đến mức suốt gần sáu trăm năm
qua hậu thế vẫn không thể đoán ra?
- Ta đã nói gì với quan Lễ nghi Học sĩ vào lúc đêm
khuya ấy ư? Lũ tim đen thì làm sao hiểu nổi? Đó là giờ phút linh thiêng nhất,
khi ta kịp nhận ra ta đã bị tiến độc. Sau khi Tạ Thanh sai quan Ngự y dâng lên
chén thuốc thứ ba, ta bỗng thấy toàn thân rã rời. Cổ họng bỏng rát. Ta rời long
sàng ra võng nằm, người mệt lả muốn thiếp đi. Nhưng các ngươi biết không, nỗi
đau vì bị lừa dối, phản bội, nỗi nhục của kẻ bị cắm sừng, làm trái tim ta nhức
nhối, quằn quại. Vua bị phản bội. Vua bị cắm sừng. Nhục nhã quá. Chưa bao
giờ ta đau đến thế. Con đĩ Nguyễn Thị
Anh đã truy sát ta đến cùng. Hình ảnh hai mẹ con ả chập chờn trước mặt ta như
yêu tinh. Đúng lúc ấy thì ta nghĩ đến
Mẹ. Chao ơi, suốt bao năm sống không có
mẹ, ta tưởng đã quen rồi. Vậy mà đột nhiên lúc ấy ta nhớ Mẹ vô cùng. Ta gọi: “Mẹ ơi, đến với con!”. Thấy ta kêu hốt hoảng, Tạ
Thanh liền chạy vào và nói: “ Hoàng thượng vừa gọi Mẹ. Người bị mê sảng. Hay là
để thần gọi quan Lễ nghi Học sĩ sang hầu người”. Ta vội nói: “Phải lắm. Ta muốn
được nói chuyện với quan Lễ nghi Học sĩ ”. Thế rồi “Mệ Lộ” đã kể cho ta nghe
những thời khắc cuối cùng của mẹ ta. Bà bảo rằng, khi ấy Ức Trai tiên sinh cùng
bà đứng trong quân ngũ của cha ta đã mấy năm. Bà và mẹ ta chạc tuổi nhau, thân
tình như chị em ruột. Đúng cái ngày mẹ ta, Phạm Thị Ngọc Trần, tình nguyện hiến
tế cho thần Phổ hộ Trào Khẩu thì “Mệ Lộ” cùng các nhũ mẫu phải bày đủ cách để
dỗ cho ta nín. Bà bảo, sau khi cha ta làm lễ tế trời đất và cầu khấn thần Phổ
hộ Trào Khẩu, đồng ý nhường người thiếp yêu là mẹ ta cho thần, để thần phù hộ
cho cha ta đánh tan giặc Ngô, thì mẹ ta vận bộ đồ trắng, đi hài xảo trắng,
trang điểm như một nữ đồng trinh, tự
nguyện xuống nằm trong một thuyền giấy đặt trên bè chuối rải đầy hoa rừng, cho
mọi người lấy vải quấn chặt vào bè. Trước đó quan lang Mường đã cho mẹ ta uống
một bát lá ngón, để khi mẹ nằm xuống bè, trôi khỏi thác chừng vài trăm thước là
hôn mê. Làm như thế, mẹ ta sẽ không đau đớn, sẽ lầm tưởng như mình được thần
Phổ hộ rước về thuỷ cung…
- Quả là một
liệt nữ…
- Còn hơn cả
một Liệt nữ. Mẹ ta là nữ lưu Anh hùng. Những lời kể của “Mệ Lộ” bỗng làm
ta nhớ lại… Năm ấy ta mới ba tuổi. Ta có thể quên hết mọi chuyện, nhưng cái
giây phút cuối cùng khi chiếc bè chuối chở mẹ ta xuôi theo dòng nước thì ta
không thể quên được. Ta khóc thét lên, chân tay khua đạp tứ tung. Ta muốn nhảy
xuống sông với mẹ. Bóng mẹ xa dần, nhoà dần trong đôi mắt đẫm lệ của ta, rồi
chỉ còn là một đốm trắng. Bỗng lúc ấy, từ dưới sông, vang lên tiếng Mẹ: “ Xin
Chúa công hãy nhớ lời hứa với thiếp. Hãy cho con thiếp làm Vua…”.
Vua Lê Thái
Tông vừa khóc vừa nói:
- Câu chuyện của quan Lễ nghi Học sĩ khiến ta vô cùng
tự hào và hãnh diện về Mẹ, ta hạnh phúc
và sung sướng không kể sao cho xiết.
Giọng kể của “Mệ Lộ” như lời ru của mẹ
ta thuở ấu thơ. Ta thấy mình như trôi trên dòng sông cùng Mẹ... Ta quên hết
những ghen tuông, đau khổ, những mưu mô, toan tính... Ta ra đi từ Lệ Chi Viên
như vậy đó…
Chú thích:
(1) Tên hiệu của Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng
Tuân, Phan Phu Tiên, những văn thần thành đạt từ thời Trần, theo Lê Lợi khởi
nghiệp.
(2)Đại Việt sử ký toàn thư. Diên Ninh chỉ Bang Cơ,
tức vua Lê Nhân Tông.
NGUYÊN KHÍ
Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường
19. NGUYÊN PHONG
Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc
Nước chảy âu khôn xiết bóng non.
(Thuật hứng . 4 - Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi)
Lại nói về Nguyên Phong.
Kể từ hôm Tiểu Mai theo thuyền của vợ chồng tượng nhân Bùi Thị Hý về Côn Sơn,
Nguyên Phong đã đắm đuối vì nàng, không muốn dời nàng nửa bước.Mãi mãi, chàng
sẽ không thể quên cái giây phút nàng lao
từ trên mũi thuyền xuống, như trận gió thơm, ào vào lòng chàng. Giữa bao nhiêu
cặp mắt đổ dồn, tấm thân thiếu nữ trinh nguyên trong bộ áo nâu sồng nằm gọn
trong vòng tay chàng. “Nguyên Phong, chàng không nhận ra em ư? Còn em, chưa bao
giờ em nhớ chàng như bây giờ”.Chỉ một câu nói ấy, nàng đã bước vào cuộc đời
chàng.
Đêm ấy, đợi quá khuya ,mọi người đã ngủ say, Tiểu Mai
rón rén mở cửa, lên thắp hương ở chính điện Thiên Phúc tự. Nàng quỳ lạy,chắp
hai tay thành kính cầu xin Đức Phật mở lòng từ bi tha tội cho nàng đã không thể
tiếp tục con đường giáo huấn của nhà Phật để đi đến tận cùng miền Tây trúc.
Nàng mắc tội yêu. Nàng đáng gọt đầu bôi vôi. Nàng cầu xin đức Phật phù hộ độ
trì cho Nguyên Phong, cho tình yêu của chàng và nàng. Nàng sẽ đi theo chàng đến
tận cùng, đến tóc bạc da mồi, đến thịt nát xương tan…
Tuần hương đã tàn, mà Tiểu Mai vẫn ngồi quỳ như hoá đá.Cho đến khi một bàn tay mềm mát
đặt nhẹ trên vai thì nàng bỗng giật mình quay lại. Giọng sư thầy Pháp Huệ
thoảng như tiếng gió:
- Phật đã hiểu lòng con rồi đó.Căn tu của con có vậy.
Mười bẩy năm qua, con đã từ bóng đêm vô minh để đạt đến tự giác, giác tha và
giác hạnh viên mãn. Phật, chính là Tỉnh Thức. Con đã có duyên gặp được chính
pháp, hiểu được lời dạy của Đức Phật để tìm thấy tâm đạo của mình. Con hãy đi
với người ấy. Đó mới là đường chính quả của con…
Tiểu Mai giàn giụa nước mắt vái lạy sư thầy, rồi từ
biệt đi ra.
Ngoài sân, Nguyên Phong đã đợi nàng từ khi nào. Tóc
chàng đẫm sương đêm. Chàng khoác lên người Tiểu Mai chiếc áo bằng tơ tằm màu
trắng ngà, may rất khéo,như áo cưới.
- Chúng mình đến Lệ Chi Viên ngay đêm nay. Ta thấy
nóng ruột quá. Chập tối, Ức Trai ngồi trầm ngâm bên án thư, Người bấm độn rồi
bảo ta rằng: Hình như quan Lễ nghi Học sĩ đang gặp chuyện chẳng lành…
Cặp tình nhân chèo thuyền đến Đại Lại thì được tin
Hoàng đế Nguyên Long vừa băng, và quan Lễ nghi Học sĩ đã bị bắt về tội giết
vua.
- Hoàng hậu đã ra tay rồi - Nguyên Phong lặng người
ôm xiết lấy Tiểu Mai, như muốn che chở cho nàng.
Tiểu Mai nép vào ngực chàng khóc thút thít.
- Nạn nhân tiếp theo sẽ là Ức Trai và mẹ con Tiệp dư
Ngọc Dao…Chàng ơi, chúng mình phải về
Côn Sơn ngay. Phải bằng mọi giá cứu Tướng công và bà Mẫn.
Khi hai người về đến Côn Sơn thì trời sắp tảng.
Họ rón rén đến phòng Nguyễn Trãi, để không đánh động
giấc ngủ của Người. Nhưng kìa, Ức Trai đang ngồi tựa gối, trước mặt là một tách
mai trà đang bốc khói. Dường như Người chưa
hề ngủ, suốt từ đêm qua. Chỉ mái tóc là bạc xoá, bạc đến không lẫn sợi nào.
- Dạ, thưa…- Nguyên Phong khoanh tay rụt rè.
- Hai con vào đây…Ta biết cả rồi… Các con vừa ở Lệ
Chi Viên về phải không?
- Dạ…Thưa Tướng công. Đã đến lúc Hoàng hậu trả
thù…Việc gấp lắm rồi – Nguyên Phong nói - Chỉ nay mai quan quân triều đình sẽ
đến… Nếu chúng ta không lo trước, sẽ trở
tay không kịp.
Ức Trai với lấy hai chiếc chén sứ Chu Đậu. Tiểu Mai
vội đỡ lấy bình, rót trà.
- Các con uống trà cho ấm bụng. Chiều qua, trước khi
về Nhị Khê, Cả Khuê cứ nhắc các con mãi. Cả Khuê cũng như các con, quá lo cho ta… À,vẫn còn xôi phần các con ở dưới
nhà. Ta sẽ nói nàng Mẫn dọn cho các con ăn…
Ức Trai vừa dứt lời, nàng Mẫn đã xuất hiện ở bậc cửa.
Nàng mang xôi nếp và khoai sọ luộc chấm với mật mía. Đã có mang được ba tháng,
dáng nàng Mẫn đẫy ra nhiều nhưng bước đi vẫn nhanh nhẹn, uyển chuyển. Tiểu Mai
từng nghe kể rằng, khi quan Thừa chỉ quyết định cáo quan về Côn Sơn, quan Lễ
nghi Học sỹ đã vào tận Canh Hoạch nhờ cụ Đồ Thư bấm độn, rồi lại được cụ dẫn
xuống Thuỵ Phú, Phú Xuyên gặp ông bà Cử Nhuần, xin nàng Mẫn về làm thiếp, kết
hợp chăm sóc Tướng công. Khen cho con mắt tinh đời. Người đàn bà tuổi Nhâm thìn
rất hợp với tuổi Canh thân. Nàng Mẫn không chỉ có dáng vượng phu ích tử mà giờ
đây còn đang mang trong mình dòng máu của Ức Trai, là niềm hy vọng của cả một
dòng họ…
Ức Trai kéo ghế bảo nàng Mẫn ngồi xuống, nháy mắt ra
hiệu với Nguyên Phong và Tiểu Mai, rồi nói:
- Sắp tới ta có việc phải về triều ít ngày. Nhân tiện
hai cháu Tiểu Mai và Nguyên Phong có
việc ra An Bang, ta muốn nàng đi cùng sang Nam Sách. Ở đó có ông lang
Phùng, bạn ta. Ta muốn nhờ ông xem mạch và cắt cho nàng vài thang thuốc.
Nàng Mẫn nói:
- Tướng công cho thiếp về Đông Kinh để tiện việc hầu
hạ người. Hồi này thiếp thấy người thường ho buổi sáng…Quan Bà trước khi về
triều cũng bảo thiếp nên đi cùng Tướng công. Nhân tiện cho thiếp về thăm thầy u
ở Thuỵ Phú. Quê mình cũng có ông Lang Cần bốc thuốc giỏi lắm.
Ức Trai nheo mắt nhìn nàng Mẫn đầy thương cảm. Nàng
vẫn chưa hề biết chuyện gì vừa xảy ra với nhà vua và bà Lộ…
- Ta sẽ đợi nàng cùng về triều…- Ức Trai nói - Nhưng
hôm nay nàng phải cùng Tiểu Mai và Nguyên Phong đi Nam Sách, và ở lại dưỡng
thai ít ngày… Nàng hãy nghe lời ta lo chuẩn bị hành lý đi…
Đợi nàng Mẫn đi xuống nhà, Tiểu Mai bỗng dấm dứt
khóc:
- Con thương quan Lễ nghi Học sĩ quá…Người ta bảo bà
bị đóng cũi giải về triều… Chúng sẽ giết
bà mất…Tướng công ơi, con nghe tin, tội giết vua sẽ phải tru di tam tộc…Tướng
công trốn đi… Chúng con sẽ đưa bà Mận trốn
đi. Giọt máu cuối cùng của Tướng công phải được bảo vệ…
Ức Trai ngồi lặng rất lâu. Người đang mường tượng ra
hình ảnh người vợ yêu của mình trước nanh vuốt lang sói. Một giọt nước mắt rỉ
ra bên khoé. Nhưng rồi Ức Trai gượng cười:
- Cám ơn các con đã an ủi ta. Việc gì đến ắt sẽ đến,
các con ạ. Ta từng viết: “Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết/ Riêng một lòng
người cực hiểm thay”. Nếu đây là âm mưu của Hoàng hậu, thì âu cũng là số Trời,
chúng ta không chống được. Ta chỉ tiếc và thương cho Hoàng thượng. Cho đến hôm
qua ta mới thực yên tâm và tin tưởng ở Hoàng thượng. Đường đường là một bậc
thiên tử mà thân hành đưa cả quần thần văn võ bá quan đến tận Côn Sơn để gặp
lão già này, tự tay đón lấy bộ “Quôc triều Hình luật” do ta soạn thảo để về
chấn hưng đại nghiệp. Nhà vua đã thực sự trưởng thành, đã tỏ rõ là một đấng
quân vương anh minh trí dũng...Vua như thế, ít thời nào có được…
Tiểu Mai nói:
- Thưa Tướng công, tiếc rằng những người tài giỏi,
vừa mới xuất hiện thì đã gặp loài quỷ dữ. Không ai tin một nhà vua trẻ tuổi tài
cao như thế lại bị đột tử.
Nguyễn Trãi nói:
- Chiều qua nghe tin thuyền ngự bị mắc cạn khi qua mộ
Bạch Sư ở Cầu Bông, ta đã biết ngay điềm gở. Giá như lúc ấy ta có trong đoàn hộ
giá, ta sẽ tâu với Hoàng thượng trở lại thành Chí Linh…Nhưng đó là số mệnh, cưỡng
sao nổi.
Nguyên Phong đưa mắt cho Tiểu Mai. Nàng hiểu ngay
rằng chàng đang nghĩ tới ông nội Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, mà chàng mới kể
cho nàng nghe. Đúng rồi. Chỉ cần vào trấn Nghệ An, nơi ông già Đào công đang ẩn
dật là an toàn.
Nguyên Phong nói:
- Thưa Tướng
công. Đây là một âm mưu đã được bày đặt
sẵn. Giống như độc mưu với ông nội con chín năm trước. Đích của mũi tên tiếp
theo sẽ nhằm vào Tướng công…Chúng con không để Tướng công hệ luỵ…Ngay hôm nay,
con và Tiểu Mai sẽ đưa Tướng công vào Nghệ An. Tướng công hãy lánh đi một thời
gian xem sự thể ra sao…
- Lánh đi ư? - Nguyễn Trãi cả cười- Ta đã nghe thấy
tiếng vó ngựa, tiếng gươm khua đang đến gần…Cưỡng mà làm chi. “Thế sự dầu ai
buộc bện/ Sen nào có bén trong lầm…”(*)
Dưới nhà chợt có tiếng xôn xao. Rồi hai gia nhân hốt
hoảng chạy vào, nói không ra hơi:
- Bẩm Tướng công. Người đi chợ ngoài bãi Tranh đang
bàn tán xôn xao là Đức Bà giết vua. Quan quân triều đình sắp kéo về đây…
- Ta biết rồi - Nguyễn Trãi khoát tay cho hai gia
nhân – Các con xuống nhà giúp bà Mận
chuẩn bị hành lý. Bảo bà chỉ mang những
thứ thật cần dùng…
Rồi Ức Trai quay lại nói với Nguyên Phong và Tiểu Mai:
- Ta muốn nhờ các con hai việc. Một là đưa nàng Mẫn
đến Chu Đậu, chỗ tượng nhân Bùi Thị Hý và Đặng công. Ta sẽ viết thư cho hai
người đó. Hai là, khi ta đi rồi, các con hãy về chỗ Tiệp dư Ngọc Dao để phò giá
Hoàng tử Lê Tư Thành. Để thật an toàn, có thể phải chuyển Tiệp dư về vùng Hải Khẩu… Bằng mọi giá phải bảo vệ mẹ
con Hoàng tử…
Cả Nguyên Phong và Tiểu Mai cùng rạp người, lạy sống
Ức Trai:
- Chúng con cầu lạy Tướng công.Chúng con sẽ thực hiện
lời dạy của Người. Nhưng việc gấp lắm rồi, Người hãy lánh khỏi Côn Sơn… Vua đã
chết rồi thì Tướng công là cái gai mà
Hoàng hậu phải nhổ. Đừng để cho mụ ta
đắc chí. Người là rường cột của Đất nước, là nguyên khí Quốc gia. Chỉ cần Tướng
công sống mạnh khoẻ là xã tắc sẽ được nhờ. Lũ vô danh tiểu tốt chúng con có thể
chết, nhưng Tướng công và Đức bà phải sống…
- Ta phải về triều. Đức vua băng hà ta không thể vắng
mặt…Ngày mai ta sẽ thượng kinh. Còn hôm nay ta ở đây để đợi lệnh triều đình -
Nguyễn Trãi khẽ nhắm mắt, như nói với chính mình - Ta không phải trốn đi đâu
cả... Ta sẽ chứng minh với Hoàng Thái hậu là bà Lộ vợ ta vô tội. Một người phụ
nữ tài đức, đáng kính nhường ấy làm sao có thể phạm vào luân thường đạo lý, có
thể can tội giết vua? Các con yên tâm. Nếu có chết, âu cũng là số phận. Ta với
nàng Nguyễn Thị Lộ sẽ cùng chết… Thời thế này, sống thế là quá đủ rồi…
***
-------------
(*)Thuật hứng-25 - Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi.
Ngay trong đêm mồng 6 tháng 8, đêm phát tang Hoàng đế
Lê Thái Tông, một sắc chỉ được bí mật truyền từ tẩm cung của Hoàng Thái hậu đến
các đạo Hải Đông, Hải Tây, Hải Nam, đặc biệt là các trấn Nam Sách, Sơn Nam, các
hương Côn Sơn, Chi Ngải, Nhị Khê, Hải Triều…sức cho quan sở tại phải phối hợp
với các quan quân triều đình phái tới, bắt bằng hết già trẻ gái trai ba họ của
Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Trãi đóng gông giải về kinh đô.
Trước khi quân triều đình đến Côn Sơn nửa ngày, có
hai kỵ sĩ phóng ngựa như bay dọc bờ sông Thiên Đức. Đó là công tử Đinh Lân và
gia nô nhà quan Thái phó Đinh Liệt. Nhận được mật báo của chồng: “Có mấy cặp
bánh dày Quán Gánh, cất kỹ cho ta kẻo chó mèo ăn mất…”, Ngọc Kiều phu nhân ngẫm
nghĩ một lúc rồi rụng rời chân tay. Nàng gọi con trai Đinh Lân và hai gia nô
tin cẩn vào phòng, rỉ tai dặn dò. Ba con ngựa thắng yên cương sẵn được dắt ra
khỏi tàu. Một gia nô phóng về Nhị Khê, Đinh Lân và một gia nô khác phi như bay
về Côn Sơn.
Đinh Lân và gia nô vừa đến dốc, cả người và vật đẫm
ướt mồ hôi, chưa kịp xuống yên, Nguyên Phong và Tiểu Mai đã rút đoản côn xông
ra. Nhận ra công tử Đinh Lân, cả ba người trẻ tuổi nắm tay nhau thân thiết, rồi
Nguyên Phong đưa Đinh công tử vào gặp Ức Trai.
Đinh Lân quỳ sụp:
- Thưa Tướng công. Cha mẹ con cho tiểu tử đến cấp
báo. Tướng công và lệnh bà phải đi trốn ngay. Quan quân triều đình đang kéo về.
Sẽ có chuyện như với Tả tướng quốc năm nào…
Ức Trai đỡ Đinh Lân dậy.
- Cho ta cám ơn Lân Quốc công cùng lệnh bà và con. Ta
đang chuẩn bị về triều…
- Lạy Tướng công… Xin người đừng về. Cha con dặn,
bằng bất cứ giá nào, Tướng công cũng phải lánh đi.
- Ta hiểu rồi…Con về ngay đi, kẻo liên luỵ. Kìa, ta
nghe như tiếng quan quân triều đình đang tới…
Đoàn quan quân triều đình đến Côn Sơn theo hai đường,
đường sông và đường bộ, với ba thuyền chiến và một vệ quân kỵ mã, gươm giáo
sáng loà, xiềng gông lỉnh kỉnh.
Cả vùng Côn Sơn xao xác. Như ngày giỗ trận. Như thời
giặc Minh tràn đến. Già trẻ gái trai ai
cũng sụt sùi nước mắt, thương cho hai vị
quan nhất phẩm và tứ phẩm, tài danh đức độ vào bậc nhất triều đình.
Khi ba chiếc thuyền do đích thân Tư mã Lê Ê và Đô giám Lương Đăng chỉ huy từ sông Thiên Đức chuẩn bị vào cửa Lục Đầu, thì
Nguyên Phong vừa thảo xong lá thư gửi
ông nội. Chàng ngửa mặt lên trời, vỗ tay ba tiếng. Thư điểu sà xuống tay
chàng, nhận lạp thư bay đi.
Cũng vừa hay một chiếc thuyền chở gốm sứ cập bến Đá. Nhìn thấy thuyền, Tiểu Mai vai
quàng tay nải, tay kia dắt nàng Mẫn áo tứ thân, váy thâm, vội xuống bến. Nguyên Phong vác hòm xiểng cùng
gia nhân chạy xuống theo.
Trong khi người lái thuyền bắc cầu bằng một tấm ván
dài, thì từ dưới khoang thuyền một người đàn bà vận đồ đen, áo ngắn, quần chẽn,
mặt chùm kín khăn đen, nhảy vọt lên mui, rồi nhẹ nhàng chuyền lên bờ. Tiểu Mai
và Nguyên Phong cùng reo lên:
- Bùi Tượng nhân!
Đúng là nàng Vọng Nguyệt, “chàng” thư sinh giả trang
đi thi ngày nào.Vọng Nguyệt chắp tay thi lễ:
- Tiểu nữ kính chào Tướng công phu nhân. Tiểu Mai ơi,
gấp lắm rồi. Em đưa phu nhân lên thuyền đi.
Nàng Mẫn cúi đầu chàoVọng Nguyệt rồi ôm bụng đưa tay
cho Tiểu Mai đỡ lên thuyền.
Nàng Vọng Nguyệt nhìn quanh, giọng thảng thốt:
- Còn Tướng công? Nguyên Phong ơi,Tướng công đâu
hả em?
Nguyên Phong lắc đầu bất lực:
- Dạ, Tướng công nhất định không chịu đi, chị ạ.
Vọng Nguyệt khoát tay:
- Không được. Bọn chúng sẽ giết Tướng công mất.
Tiểu Mai lại bật khóc:
- Chúng em đã cầu xin hết nước. Nhưng Người
quyết ở lại. Chị gặp bây giờ cũng không
thuyết phục được đâu.
Nguyên Phong lấy thư đưa cho Vọng Nguyệt:
- Em sẽ quay lại thuyết phục Tướng công một lần nữa.
Đây là thư của Tướng công gửi Đặng Công
và phu nhân. Quan quân triều đình sắp đến rồi, xin nữ tượng nhân đưa lệnh bà đi
kẻo lỡ…
- Thế này nhé - Vọng Nguyệt nhíu mày suy nghĩ, rồi
quả quyết - Tiểu Mai đi cùng phu nhân vòng thuyền ra bến Rừng Thông đợi chị.
Chị và Nguyên Phong phải quay lại thuyết phục Tướng công một lần nữa. Đã đến
nước này thì không còn trung quân gì nữa. Còn vua đâu mà trung?Tấm gương các
bậc công thần Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn còn đó. Đến khi giải được oan thì
đã thành cát bụi. Nguyên Phong ơi, nếu không đón được Người thì chị em
mình cũng lạy chào bái biệt. Chị có tội
lớn với Ức Trai và Lễ nghi Học sĩ là chưa kịp hoàn thành bức hoạ hình hai người
trên bình gốm Chu Đậu… Chị linh cảm hôm nay có thể là cuộc vĩnh biệt…
Tiểu Mai lĩnh ý, rồi chạy lại, nắm tay Nguyên Phong,
nói nhỏ với chàng:
- Chàng hãy cùng chị Vọng Nguyệt trở lại thỉnh cầu
Tướng công một lần nữa. Có thế nào cũng ra thuyền với em nhé…Chúng mình sẽ cùng
đưa phu nhân đến Chu Đậu rồi nhanh
chóng trở về với Tướng
công…
Nói rồi Tiểu Mai nhún mình, nhẹ nhàng đáp lên mui
thuyền.
Thuyền quay mũi và từ từ dời bến.
Vọng Nguyệt cùng Nguyên Phong trở lại thư phòng Ức
Trai.
Họ đứng lặng trước hiên khi thấy Ức Trai đang tần
ngần lấy từng pho sách trên giá xuống, xếp vào bồ. Đó là những tạp bút, ghi
chép, thư từ, khế ước, biểu chương, thơ
văn, điển nhạc, khảo cứu… mà Người đã trước tác mấy chục năm qua. Đó là bản
thảo gốc hai công trình “Bình Ngô sách” phần một và “Bình Ngô sách” phần hai,
tức bộ “Quốc triều Hình luật”. Đó là những di sản văn hoá cha ông từ thời Hùng
Vương, thời Bắc thuộc, đến thời Lý, Trần mà giặc Minh mặc dù đã thu đốt và mang
về Bắc quốc, nhưng vẫn không thể cướp hết. Đó là những trước tác của ông ngoại,
quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn và của cha Nguyễn Phi Khanh. Đó là thư từ, thơ văn
thù tạc của văn hữu, bạn bè…Trải hai mươi năm Minh thuộc, rồi chuyển dời vì mưu
sinh, vì thời cuộc, đã thất lạc đi nhiều, nhưng những gì còn lại vẫn là tài sản
vô giá của Ức Trai, một tài sản mà chính Cúc Pha Nguyễn Mộng Tuân, người bạn
gần gũi của ngài , khi đến thăm, đã phải thốt lên “Nhất điều thuỷ lãnh Tri tam
quán/ Tứ bích gia bần phú lục kinh”( Lạnh lẽo một dòng quan cực phẩm. Xác xơ
bốn vách sách nghìn pho.)
- Thưa Tướng công…
Ức Trai giật mình, suýt đánh rơi pho sách khi nghe
tiếng Vọng Nguyệt.
- Dạ, con đến để đón Người… Người phải đi lánh ngay. Ông nội con vừa cho người xuống
mật báo, Triều đình…
Nguyễn Trãi lặng im giây lát, rồi khoát tay:
- Cám ơn nữ tượng nhân đã lo cho ta. Cám ơn quan Thái bảo Bùi Quốc Hưng đã nghĩ đến
ta… Nhưng ta phải về triều... Con và cả
Nguyên Phong cùng Tiểu Mai, ba chị em hãy đưa nàng Mẫn đi ngay mới kịp… Quan quân triều đình đang đến…Ta ở
đây để đợi lệnh của Hoàng Thái hậu…
Nhìn những kệ sách tầng tầng, Vọng Nguyệt bỗng kêu
lên:
- Tướng công cho phép vợ chồng con được lưu giữ những trước tác của người và quan Lễ nghi Học
sĩ. Đó là tài sản vô giá. Không thể để
rơi vào tay lũ người vô học. Chúng sẽ
đốt hết như lũ giặc Minh ngày trước…
- Ta đang soạn đây - Ức Trai nói – Nàng Lộ và ta có
thể chết, nhưng chữ Thánh hiền là di sản
của muôn đời…
Vọng Nguyệt quỳ xuống, bật khóc, lạy Ức Trai ba lạy:
- Con sẽ cho người mang cất giấu cả thư khố này trong những chum vại Chu Trang…Xin
Tướng công cho con lễ sống người để bái biệt. Suốt đời con và Đặng công cùng
dân chúng Chu Trang sẽ ân hận và có tội với Người cùng quan Lễ nghi Học sỹ là
đã không kịp hoạ hình hai người để lại cho hậu thế… Không ngờ sự đời lại quay
quắt đến thế…
Ức Trai tiễn nàng Vọng Nguyệt và giục Nguyên Phong đi
ngay ra bến đò.
Dù rằng đã linh cảm thấy, nhưng nàng Vọng Nguyệt Bùi
Thị Hý, không thể ngờ rằng đó là lần
chia tay cuối cùng với Ức Trai, vĩ nhân mọi thời của nước Việt mà nàng mơ ước
được tạc hình vĩnh viễn vào gốm sứ Chu Đậu, nhưng giờ thì đã muộn…
Chỉ trong vài khắc, Vọng Nguyệt và Nguyên Phong đã ra
đến bến Rừng Thông, đón kịp thuyền.
Họ không thể ngờ rằng, con thuyền chở nàng Phạm Thị Mẫn đi trốn ấy, là con thuyền
duy nhất thoát khỏi cuộc thảm sát của Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Đó là một con thuyền
cứu mệnh.
Cả dòng họ của quan đại thần Thừa chỉ Hành khiển Nguyễn Trãi, mấy ngày sau, tức
ngày 16 tháng tám năm Nhâm Thìn 1442, chỉ còn sót lại giọt máu trong bụng bà
Phạm Thị Mẫn, người được bí mật mang đi
trốn trên con thuyền chở gốm sứ kia.
Giọt máu ấy,hai mươi hai năm sau, vào mùa Thu, tháng
bẩy, năm Giáp thân, 1464, được vua Lê Thánh Tông cho người đi tìm, rồi ban cho
chức quan huyện, như để bày tỏ lòng thương xót và biết ơn người cha oan khuất.
Ông quan huyện
được chiếu cố ấy, là Nguyễn Anh Vũ.
***
Bây giờ lại nói về Nguyên Phong.
Chàng và Tiểu Mai không dám dừng ở Chu Trang lâu. Nơi
đó không phải là chốn tin cẩn. Vợ chồng tượng nhân Bùi Thị Hý quyết định đưa
nàng Phạm Thị Mẫn lánh xuống vùng cửa biến An Bang để nghe ngóng động tĩnh. Nếu
thấy bất lợi, có thể đưa tiếp xuống vùng An Lão, Hải Khẩu.
Khi cặp tình nhân về đến Côn Sơn, thì cảnh vật đã tan
hoang như vừa qua một trận bão lớn. Tư dinh của Ức Trai vốn thanh đạm, giản dị,
giờ đã bị đập phá, quăng quật, mấy nghìn pho sách ở thư trai cháy âm ỉ suốt hai
ngày. Cả hai chỉ nhìn nhau khóc. Nguyên Phong nắm tay đấm ngực bồm bộp, hận
không xé xác được bọn ưng khuyển lúc chúng đến bắt Tướng công.
Mối tình chớm nở của họ, bị vò nát trong những ngày đầu tháng tám nóng bức kinh
người và nhức buốt tiếng lương dân than khóc.
Hằng giờ, Nguyên Phong dõi lên bầu trời, trông ngóng.
Rồi cái chấm nhỏ thân yêu chờ đợi ấy cũng lượn vòng trên tít tầng xanh. Vậy là
điểu thư đã mang tin của ông nội từ Nghệ
An ra.
Con chim câu sà xuống hai bàn tay chàng. Lá thư của Đào công chỉ vỏn vẹn mấy chữ:
“Tính mạng Trần Văn chỉ còn đếm từng ngày. Phải bằng
mọi cách giải cứu. Ta sẽ ra ngay.”
Mệnh lệnh của ông nội cũng là quyết tâm sắt đá của cặp tình nhân.Nguyên Phong và Tiểu Mai
định trở về chùa Huy Văn nhờ cậy sư thầy Thích Chân Như, nhưng ngôi chùa giờ đã
tan hoang, sư thầy phải lánh sang chùa
làng Văn Chương.Đành quay sang tá túc ở chùa Long Đọi, làng Bắc Cầu, nơi từng
lưu giấu Tiệp dư Ngọc Dao và Hoàng tử Lê Tư Thành hơn nửa tháng trước.
Họ đóng giả một cặp vợ chồng bán rượu nếp cái hoa
vàng. Anh chồng khoèo một chân, đi cà nhắc, chị vợ mặt mũi nhem nhuốc, đội sùm
sụp chiếc nón mê. Sáng sớm họ đi đò qua sông Cái, lân la dò hỏi trong dân
chúng, đặc biệt là tin tức quanh toà đại hình và ngục Hoả Lò, nơi giam giữ hai
tử tù Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
Buổi chiều ngày thứ hai, gần quán gốc muỗm cạnh đề
lao, Nguyên Phong và Tiểu Mai bán rượu cho hai người lính cai ngục, một gầy như
que củi, một to cao, có bộ râu dê ngộ nghĩnh. Tiểu Mai hào phóng đãi họ hẳn một
bầu rượu để được nghe lỏm câu chuyện của hai đệ tử Lưu Ly.
Râu dê:
- Ban đầu tao cứ ngờ ngợ. Chẳng lẽ lão già cao gầy,
râu tóc bạc trắng mới bị tống ngục tối hôm kia, lại là quan Thừa chỉ Hành
khiển? Đến khi Hoàng hậu đi cùng mấy đại quan trong nội điện, bắt tao mở ngục
giải tù nhân ra, tao mới tá hoả.
Que củi:
- Thế là kẻ cắp bà già đã gặp nhau.Từ hôm nay bọn ta
phải gọi là Hoàng Thái hậu chứ gọi Hoàng hậu là khi quân,bị chém đầu tắp lự…
Râu dê:
- Lúc ấy tao cũng mới biết Hoàng…à Thái hậu. Đẹp
thật. Nhưng tao không dám nhìn lâu. Đôi mắt như hai lưỡi dao. Vừa lướt qua mặt,
đã thấy hơi tử khí ớn lạnh sau gáy.
Que củi:
- Kể nhanh lên. Họ nói với nhau thế nào?
Râu dê:
- Thái hậu bảo: “Ông Trãi, ả Thị Lộ đã khai hết rồi. Mấy ngày về Côn Sơn hai
người đã bày mưu tính kế thế nào, hai quan ở toà Đại hình, Thái phó Lê Liệt và
Thái uý Lê Thụ đã cho ghi chép hết cả rồi…Bà vợ yêu của ông, coi ông là nhất
trên đời,chỉ cần ta doạ giết ông là ả phun ra hết…Ả nói rằng, ông đã âm mưu cài
cắm mụ vào nội cung từ hai năm trước, rồi lại gợi ý cho vua phong chức Lễ nghi
Học sỹ cho ả để dễ bề lung lạc vua. Ả khai cả việc vợ chồng ông đã ăn của đút
của quan Thái bảo Ngô Từ để che giấu tội cho Ngô Thị Ngọc Dao, rồi đưa mẹ con
Ngọc Dao đi trốn. Thị Lộ bảo, ông thuyết phục vua phế Bang Cơ để lập Tư Thành
lên ngôi Đông cung Thái tử, nhưng vua không nghe, ông liền bày kế cho ả ta giết
vua…Chao ôi, ta không ngờ mang danh kẻ sĩ như ông, tự vỗ ngực mình là Nguyên
khí quốc gia như ông mà lòng lang dạ thú…He he…Hủ nho các ông chỉ là cục
phân…Các ông chỉ đánh lừa được đức Tiên đế chứ làm sao lừa nổi ta.”
Que củi:
- Chà chà…Nói như vậy mà cụ Nguyễn Trãi chịu im à?
Râu dê:
- Sao lại im? Cụ Nguyễn cả cười, nói với Thái hậu
rằng:“Lệnh Bà mới nắm quyền lực một ngày mà miệng lưỡi đã toàn đao búa gươm
giáo.Quan Lễ nghi Học sĩ không bao giờ nói những điều xằng bậy như vừa rồi. Ta
tin ở sự chính trực và liêm sỉ vốn là máu huyết trong con người nàng.Muốn giết
thì hãy ra tay đi. Ta chỉ tiếc đã không
sớm tin lời Đinh Thắng, Đinh Phúc. Ta không nghĩ rằng Lệnh Bà có thể dám cả gan
lừa dối cả Hoàng thượng?Bang Cơ không phải con ngài. Lệnh Bà biết quá rõ
điều đó…”
Que củi:
- Ức Trai dám nói cả những điều bọn trẻ con Kẻ Bưởi,
Kẻ Mui giễu nhại à?
Râu dê:
- Cụ Nguyễn vừa nói đến đó thì ba đại quan đi cùng
gầm lên: “Khi quân. Thằng giặc già này phải chém”.
Que củi:
- Đại quan nào? Chắc là ba vị đầu trò Tạ Thanh, Nguyễn Phù Lỗ và Lương Đăng?
Râu dê:
- Ông làm tôi mất hứng quá. Thì ba vị ấy chứ ai?Chuyện Lương Đăng bị cụ Nguyễn mắng vỗ mặt
giữa triều, ầm cả kinh thành, bây giờ mới đến lúc ông quan hoạn ấy trả thù.
Nhưng lúc này cụ Nguyễn vẫn bình thản, chỉ mặt hai người và nói: “Đô giám Lương
Đăng, tên Hán khuyển, chó săn nhà Minh kia, bây giờ thì mọi ý đồ của ngươi đã
đạt được rồi. Mục đích của ngươi đâu chỉ là điển nhạc, lễ phục, triều nghi? Cái
ngươi muốn đến là vâng theo lệnh Thiên triều từng bước Hán hoá Đại Việt, biến
nước Nam này thành thuộc quốc của chúng. Bây giờ thì triều đình đã về tay các
ngươi cả rồi. Ngươi và bọn Trần Phong,
Lương Nhữ Hốt …hãy sang Kim Lăng mà bẩm báo với chủ, rằng nước Việt này sắp
thành quận huyện của Đại Minh rồi… Còn Nội quan Tạ Thanh, ông tưởng ta không
biết gì về những ngày ông được đức Tiên đế sai coi giữ Nam vương Trần Cảo sao? Trần
Cảo đã chết, nhưng nàng Quyên vẫn sống và sinh con cho ông đó. Hay ông đã có
Lệnh Bà đây và đã quên nàng Quyên rồi…”
Que củi:
- Trời ơi, nói như thế thì sao tránh khỏi bị chém…
Tôi thương ông cụ quá, mà cũng phục cụ quá.
Râu dê:
- Tiếng Ức Trai sang sảng, vang khắp đại lao. Bọn
lính chúng tớ sợ rúm tứ túc. Thái hậu và Lương Đăng, Tạ Thanh, Nguyễn Phù Lỗ…
mặt tím như tiết trâu, vội hầm hầm bỏ đi…
Que củi tấm tắc:
- Trời ơi. Đúng là khí phách kẻ sĩ.
Râu dê thầm thì:
- Chính vì khí phách như thế mà
phiên toà có nguy cơ đảo chiều…
Que củi:
- Tức là sao?
Râu dê:
- Là Hoàng Thái hậu có nguy cơ bị kết tội khi quân,
dối chúa lừa chồng. Và lẽ dĩ nhiên Bang Cơ không thể nối ngôi. Ngôi báu phải
được trao cho Nghi Dân, hoặc Khắc Xương, hoặc Lê Tư Thành…
Que củi:
- Đời nào có chuyện đó?
Râu dê:
- Vậy nên phải giết ngay Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ.
Đã từng có bao cuộc giết ngýời diệt khẩu. Ðến nhý Lê Nguyên Sõn còn bị hạ thủ
gấp nữa là…Để Nguyễn Trãi sống ngày nào ngôi vua của Bang Cơ còn bị đe doạ ngày
đó. Vì thế mà Thái hậu đã quyết xử gấp, không cần toà pháp đình luận tội. Ông
biết không, các đề lao đầy ấp người Nhị Khê, Chi Ngãi rồi. Hai trăm mười bẩy
người của ba họ. Riêng trai đinh có bốn mươi chín người, còn toàn người già,
đàn bà, trẻ con. Thương nhất là thằng cháu nội Nguyễn Nghĩa Tương, con ông Cả
Khuê. Nó cứ khóc đòi ông nội cho đổi tên, vì lũ bạn cứ chê tên xấu, tương cà
mắm muối.
Que củi:
- Ông làm tôi bật khóc đây này…Ôi chao, kẻ độc tài
bất cần luật pháp. Chúng có quyền ngồi lên luật pháp mà ị…ị.
Câu chuyện của hai người lính đề lao khiến Nguyên
Phong và Tiểu Mai rụng rời. Kế hoạch cướp ngục của Nguyên Phong bị thất bại
ngay từ khi mới bắt đầu. Thời gian không
cho họ làm chuyện tày đình đó. Bởi đại lao nằm giữa kinh thành, tường cao hào
sâu, quân tướng bâu quanh đông như kiến cỏ.Một con chim, một con chuột cũng khó
qua lọt. Đến như Nguyên Phong, võ nghệ
siêu quần, thông thiên độn thổ như thế mà vẫn chưa tìm cách nào tiếp cận đại
lao. Phương án khả thi nhất chỉ có thể là đào hầm ngầm từ ngoài vào thẳng nơi
giam Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ như trước đây Nguyễn Khuê và lão Câm đã đào ở
chùa Huy Văn.
Nếu đường hầm chùa Huy Văn phải đào trong một tháng,
thì đường hầm vào đại lao là mịt mù vô định.
***
Chưa bao giờ Nguyên Phong mong gặp ông nội như những ngày này. Chỉ cần gặp ông nội,
nhìn ánh mắt ông, nghe một lời khuyên
của ông, chàng sẽ có thêm sức mạnh, có kế sách hay, biết mình phải làm gì. Với
Nguyên Phong, ông nội là một đại tướng
bách chiến bách thắng, là người có sức khoẻ vô địch, võ nghệ siêu quần và mưu
lược hơn người. Dường như chưa có bất cứ việc gì ông nội không làm được. Như một niềm tin với với đấng siêu
nhiên, chàng tin rằng cuộc giải cứu Ức Trai và Lễ nghi Học sỹ khỏi đại lao,với
những người khác là không thể, thì đối với ông nội có thể dễ như thò tay vào
trong túi lấy đồ vật.
Từ hôm điểu thư báo tin ông nội đang trên đường bắc
hành, không thấy một mẩu tin nào nữa,vì giữa kinh thành, điểu thư sẽ bị các cung thủ triều đình hạ gục. Phương tiện
truyền tin lợi hại đã không thể phát huy tác dụng, nhưng linh tính cho chàng
biết, Đào công đã có mặt ở kinh thành.
Nhưng ông nội giờ đang ở đâu, làm gì, bao giờ chàng có thể gặp, thì vẫn mịt mờ
bóng chim tăm cá.
Cho đến khi khắp kinh thành loan tin ngày 16 tháng
tám, án tru di ba họ Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ sẽ xử tại pháp trường Ô Cầu Bò
thì Nguyên Phong và Tiểu Mai cùng ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Trời hỡi
trời, ông xanh kia không có mắt!”
Cả hai dường như suy sụp. Hôm nay đã rằm. Chỉ còn một ngày nữa. Họ như chuột chạy cùng sào.
Không còn cách gì để cứu ngục được nữa rồi.
Bỗng có một người trẻ tuổi đến mua rượu. Vừa uống anh
ta vừa nhìn quanh quan sát và cố ý để
Nguyên Phong nhìn thấy một sợi dây vải màu hoa đào đeo ở cổ tay trái. Đây là
tín hiệu chứng tỏ người của ông nội phái đến. Lúc trả tiền, anh ta nói nhanh: “Đầu giờ Tuất hẹn
gặp ở gốc cây gạo bờ sông”.
Gốc cây gạo bờ sông, chính là nơi mọi
người hẹn nhau đưa Tiệp dư Ngọc Dao cùng Hoàng tử Tư
Thành trốn từ chùa Huy Văn sang làng Bắc Cầu. Chỉ những người có mặt buổi tối
hôm ấy mới biết gốc cây gạo. Vậy ai đã hẹn vào đầu giờ Tuất tối nay? Cả Khuê
hay mấy ni cô ở chùa Huy Văn, hay hai gia nhân nhà quan Thái bảo Ngô Từ? Nếu không có những
người kia thì tại sao ông nội lại biết gốc cây gạo và hẹn gặp? Nguyên Phong và Tiểu Mai cố phỏng
đoán. Nguyễn Khuê thì không phải. Ngay
sau hôm vừa ở Côn Sơn về, ông đã bị bắt
cùng bà mẹ kế Phùng Thị Nhạn và bầu đoàn
anh em, thê tử, cháu chắt họ Nguyễn ở Nhị Khê đông tới hơn trăm người.Cũng có
thể là hai gia nhân giỏi võ nghệ nhà quan Thái bảo Ngô Từ. Cũng có thể là những
ni cô ở chùa Huy Văn.
Đầu giờ Tuất, theo hẹn, Nguyên Phong và Tiểu Mai đến
gốc cây gạo bờ sông Cái. Đêm nay rằm Trung thu. Vậy mà cả hai đều quên bẵng.
Mấy hôm nay cả kinh thành Thăng Long hầu
như bị bóp chết bởi những cuộc lùng sục, bắt bớ, tra khảo.
Phố phường, quân doanh, chùa chiền, chợ búa…chỗ nào cũng như nhà ngục. Lam Sơn
hội, theo lệnh của Hội chủ Nguyễn Thị Anh cho người trà trộn khắp làng trên xóm
dưới để lùng bắt họ hàng, thân thích của hai kẻ giết vua. Nhiều bạn bè, đồng
liêu, đồng môn, thông gia của Nguyễn Trãi đều chối bỏ những mối quan hệ vốn có,
hoặc tình nguyện li khai. Nhiều học trò của Ức Trai bị bắt, bị bức cung, buộc
phải tố giác thầy, có người bị o ép quá, còn vu ra những điều tệ bạc… Thực sự
là Thăng Long như không có tết Trung thu. Thảng hoặc, đâu đó ở mấy làng ven
sông hình như cũng có tiếng trống ếch thì thùm của bọn trẻ con. Nhưng không ai
có thể vui được, khi ngày mai triều đình xử chém mấy trăm người, trong đó có
quan đầu triều Nguyễn Trãi và quan Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ.
Có vẻ như trời đang vần vụ một cơn bão xa. Trăng rằm
bị những đám mây rách tơi tả quét qua,
lúc mờ lúc tỏ.
Không thấy ông nội. Nguyên Phong chỉ thấy một đoàn
người ngựa chừng ba chục, cả nam và nữ, toàn những người trẻ tuổi, tay cầm binh
khí đủ loại. Họ chít khăn, bịt mặt, để không lộ diện.
Nguyên Phong bỗng nắm tay Tiểu Mai, ra hiệu, khi nhận
ra Đinh Lân, con trai Thái phó Đinh Liệt, Trịnh Công Diễm, con trai thứ chín
Thái uý Trịnh Khả, và Nguyễn Sư Hồi, con trai Quốc công Nguyễn Xí, ba chàng
công tử đã đến giải cứu cho Tiệp dư Ngọc Dao đêm 20 tháng bẩy vừa rồi. Thì ra
ngoài ba công tử họ Trịnh, họ Nguyễn, họ Đinh còn có các công tử con nhiều vị
công thần … cũng có mặt ở đây. Họ từng là đệ tử của quốc vương Tư Tề, học trò
của Trịnh Khả, Lê Quốc Hưng…, ai nấy đều võ nghệ cao cường, lại sẵn lòng nghĩa
hiệp...Nguyên Phong vội dắt Tiểu Mai đến thi lễ.
- Thưa các sư huynh. Chúng tôi là gia thần của quan
Thừa chỉ Hành khiển Nguyễn Trãi và Lễ
nghi Học sỹ Nguyễn Thị Lộ. Tướng công tôi và toàn gia bị oan ức tày trời…Rất mong được các
hảo hán vì đại nghĩa cứu giúp…
Công tử Trịnh Công Diễm ra hiệu cho mọi người chú ý,
rồi nói:
- Rất hân hạnh được hội ngộ cùng tráng sĩ và tiểu thư. Thưa các chiến hữu, đây là tráng
sĩ Đào Nguyên Phong và Tiểu Mai, hai hảo hán võ
nghệ siêu quần của trường phái
Trúc Lâm tam tổ… Vậy là từ giờ phút này, anh em chúng ta sẽ cùng hội cùng
thuyền. Đêm nay, dưới ánh trăng rằm Trung thu, bên dòng sông Nhĩ Hà chảy qua
kinh kỳ Thăng Long này, chúng ta nguyện thề sẽ xả thân vì đại nghĩa, quyết ra
tay cứu hai người con vĩ đại nhất của nước Việt…
***
Bây giờ nói về pháp trường Ô Cầu Bò. Đây vốn là đám đất rộng chừng hơn chục
mẫu ở phía tây nam kinh thành, là một
cửa ô của thành Đại La xưa. Nơi đây có
một con ngòi sâu chảy ra sông Tô Lịch. Qua ngòi là một chiếc cầu tre cao lênh
khênh, muốn qua, nhiều người phải bò, gọi là Cầu Bò. Thời thuộc Minh, đây là
khu trại lính, nay quân sĩ thường dùng làm nơi tập ngựa, luyện voi. Chọn nơi
đây làm pháp trường vì xung quanh đã có sẵn hào sâu và đê cao do quân Ngô để
lại. Chỉ cần làm hàng rào và cho quân trấn bốn cửa thì nội bất xuất, ngoại bất
nhập, tuyệt đối an toàn.
Một kỳ đài bằng tre gỗ được khẩn cấp dựng trên một gò
đất cao. Kỳ đài chia thành ba bậc. Bậc trên cùng cờ quạt, võng lọng, nghi
trượng, mao tiết ngợp trời, là nơi ngự của Vua và Hoàng Thái hậu cùng các đại
thần từ nhất phẩm đến tam phẩm. Bậc thứ hai là các quan tứ phẩm trở xuống. Bậc
thứ ba là nơi xử của Chánh toà và Hội thẩm Toà đại hình. Phía trước kỳ đài, là
một dải đất hình chữ nhật, nơi đã dựng sẵn hai trăm mười bẩy hàng cọc, cao thấp
khác nhau, ứng với từng lứa tuổi. Đặc biệt, có hai chiếc cọc được dựng tách ra
trên một vạt đất cao vượt. Đây sẽ là vị trí giành riêng cho hai tử tù nguy hiểm
nhất: Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
Mặc dù tới giờ Thìn pháp đình mới mở, nhưng từ nửa
đêm rằm Trung thu, dân chúng các ngả đã ùn ùn đổ về kinh. Tò mò. Hiếu kỳ. Muốn
xem mặt ông vua hai tuổi và bà Thái hậu mười tám tuổi đã goá chồng. Muốn nhìn
thấy mãng xà đội lốt người đàn bà giết vua. Muốn chứng kiến một cuộc thảm sát
ba họ lần đầu tiên trong lịch sử nước Việt. Muốn chia sẻ nỗi đau quá lớn. Muốn
tiễn biệt tác giả “Bình Ngô đại cáo” bất hủ…Đủ thứ lý do để đám người nghèo khổ
dắt díu nhau đi. Từng đoàn người đói rách, mặt đen sắt vì thiếu ăn, hoặc xanh
bủng vě bệnh tật. Những đứa trẻ không quần áo,bụng lép tới xương, hoặc bụng ỏng
đít beo, đêm qua ngồi bụi tre nhìn lên trời mơ được gặp chị Hằng. Những thân
thích họ hàng, người cùng làng cùng tổng ở tít vùng Hương Ngải, Côn Sơn, ở làng
chiếu Hới, Hải Triều, ở Nhị Khê, Khuyến Lương, Canh Hoạch, Phú Xuyên…Họ đi và
họ bị cuốn đi. Nhưng hầu hết những dòng
người ấy đều bị chặn lại tại các cửa ô. Quân lính đứng dàn hàng ngang, thành
mấy lớp. Gươm giáo tua tủa chĩa vào đoàn người. Tiếng loa ra rả: “
Loa…loa…loa…Hoàng Thái hậu lệnh cho dân chúng ai về nhà nấy. Pháp trường Ô Cầu
Bò không đủ sức chứa... Cần đảm bảo an toàn cho phiên toà, để không bị các thế
lực thù địch lợi dụng trà trộn…Ai cố tình đến pháp trường sẽ bị xử chém…” Thật
là chuyện ngược đời. Mở phiên toà mà lại không dám cho dân chúng dự. Việc đáng
ra phải thanh thiên bạch nhật mà lại giấu giếm vụng trộm… như mèo…Dân chúng la
ó, giễu nhại. Đa phần vì sợ hãi, vì chán nản, đành bỏ về, hoặc tụ bạ quanh gốc
đa, góc chợ nghe ngóng, bàn tán. Chỉ một số vì quá hiếu kỳ, vì quá thương cảm,
cố tìm cách luốn lách đến được vòng ngoài pháp trường.
Cho tới lúc Nguyên Phong và Tiểu Mai len vào tới hàng
rào tre, nơi ranh giới cuối cùng của pháp trường Ô Cầu Bò, thì bị một hàng rào
dày đặc cấm binh cản lại. Đám đông la ó muốn vượt qua khoảng trống để vào sát
đoạn đầu đài. Lập tức bốn thớt voi lừng lững tiến đến bốn phía, theo sau là
quân cấm binh. Vòi voi huơ đến đâu, đoàn người dẫm đè lên nhau lui tới đó. Chỗ
này lui thì chỗ kia tiến. Dù đã ngăn chặn các ngả, vẫn có tới cả một biển người
bao quanh, sẵn sàng tràn lên nuốt chửng cái khoảng trống mỗi ngày một thu hẹp.
Nguyên Phong và Tiểu Mai đau đáu nhìn về phía kỳ đài.
Trong đầu Nguyên Phong hình dung ra cảnh tượng của thời khắc sắp tới. Nhà vua,
Thái hậu và các đại thần sẽ từ phía kia tiến lên kỳ đài. Các quan toà đại hình
sẽ ngồi ở chỗ kia. Và xế đó là đội quân đao phủ, hai trăm mười bẩy tên trong
sắc phục quần đỏ áo đen, chân quấn sà cạp trắng, mỗi tên vác một thanh đao to
bản, ánh thép sáng loáng. Kỳ lạ nhất là đội đao phủ đeo toàn mặt nạ mười hai
con giáp. Những chiếc đầu trâu sừng cong vút, những mặt hổ phù dữ tợn, những
“Trư Bát Giới”, “Tôn Ngộ Không” như đồ đệ của Đường Tăng, những chú mèo, chú dê
láu cá, những con chuột ranh ma, con mãng xà quỷ quái…Đội quân ngục hình như
vừa từ dưới âm phủ chui lên.
Tướng công và Đức bà cùng bà Phùng Thị Nhạn, cụ Đồ
Thư, rồi Nguyễn Khuê, Nguyễn Tích, Nguyễn Bảng và bầu đoàn ba họ sẽ từ hướng
nào đi ra? Nguyên Phong và Tiểu Mai cùng căng mắt nhìn, phán đoán. Họ sẽ đi từ
góc kia. Cả ông bà già và trẻ con, có nhiều đứa còn ẵm ngửa, có thiếu phụ bụng
chửa vượt mặt. Ai cũng mặc đồ trắng, đeo gông và bị nối vào nhau bởi những dây
xích. Bọn trẻ nhìn xa như chơi trò dung giăng dung giẻ…
Tiểu Mai bỗng bật khóc. Nín đi, em! Nguyên Phong một
tay nắm chặt đoản côn, một tay bóp chặt bàn tay nàng. Chúng mình sắp làm việc
lớn...Chúng mình sẽ như Kinh Kha nhập Tần…
Đã quá giờ
Thìn. Mây vần vụ báo hiệu một cơn bão xa. Phía kỳ đài vẫn không thấy động tĩnh
gì. Tiểu Mai và Nguyên Phong như đứng trên đống kiến lửa, lặng lẽ dõi mắt tìm
kiếm khắp bốn phía pháp trường. Đào công đang ở đâu?Nguyên Phong tin chắc rằng
trong đám người đang bết lại như những đám giẻ rách kia, nhất định có một ông
già râu bạc, gương mặt như tạc bằng gỗ lim, đôi mắt tinh anh quắc thước vừa từ
xứ Nghệ ra. Nguyên Phong tin là ông nội đã nhận ra mình và Tiểu Mai. Ông nội
chỉ xuất hiện khi đến giờ động thủ. Còn các công tử Trịnh Công Diễm, Nguyễn Sư
Hồi, Đinh Lân và các tráng sĩ tối qua vừa họp bàn mưu kế giờ chắc cũng đang ở
quanh đây? Không thể nghi ngờ sự ngưỡng vọng Ức Trai và sĩ khí ở họ. Họ vẫn bí
mật tập kết ở một nơi nào đó hay cũng đang trà trộn trong đám dân chúng đen đặc
kia để chờ lúc động thủ?
Một hồi tù và bỗng rúc lên, lộng óc.
Đám dân chúng như chuyển động rùng rùng sẵn sàng lấp
tràn khoảng trống còn lại.
Một người hốt hoảng chen từ đâu đó tới gần chỗ Nguyên
Phong. Tiểu Mai bỗng nhận ra ông, khẽ kêu lên:
- Ông Cả Ngỗi.
Đúng là ông Cả Ngỗi, chủ quán rượu gần chùa Huy Văn.
Giả đò như không nghe tiếng Tiểu Mai, ông Cả Ngỗi nói
to cho mọi người cùng biết:
- Một đoàn công tử con các quan đại thần vừa phi ngựa
đến đây liền bị vây bắt hết . Nghe nói họ định cướp pháp trường.
Nguyên Phong thất kinh. Tiểu Mai lảo đảo ôm lấy
chàng. Cái ôm xiết thật thân yêu và đau đớn. Chưa bao giờ Nguyên Phong cảm thấy
tình yêu của Tiểu Mai dành cho chàng lại da diết như vậy.
- Loa loa…
Một viên quan võ từ phía sau kỳ đài thúc ngựa tiến
ra. Ông ta vừa cho ngựa đi nước kiệu vừa huơ chiếc loa dài ngoẵng ngoáy lên
trời.
- Loa loa…Bớ muôn dân trăm họ…Nghe lệnh truyền của
Hoàng Thái hậu: Vì lý do đột xuất, phiên toà xử trảm Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ
và ba họ tạm hoãn. Dân chúng giải
tán, ai về nhà nấy. Khi nào xử sẽ có lệnh truyền sau, loa…loa…loa…
Tiếng ông Cả Ngỗi lạc giữa biển người đang trào lên
như có cơn sóng thần:
- Triều đình sợ sự thật, sợ lẽ phải, sợ dân chúng bà
con ơi. Họ không dám xử công khai. Họ lừa chúng ta rồi!
***
Đúng như lời ông Cả Ngỗi, pháp trường Ô Cầu Bò chỉ là
pháp trường giả.
Cuộc hành quyết hai người con ưu tú của Đại Việt và
ba họ đã bí mật diễn ra vào giờ Dần, tức tờ mờ sáng ngày 16, trong quân doanh
phía tây thành, nơi làm bãi luyện voi của vệ quân thiết đột do Nhập nội kiểm
hiệu Thái bảo Lê Bôi đóng bản doanh.
Cơn mưa bão ập xuống, khi cuộc hành quyết vừa xong.
Đất trời quằn quại trong gió giật, mưa tuôn mờ mịt.
M áu theo nước mưa chảy thành dòng đỏ ối, tuôn như
suối, dồn về ba chiếc hố to mới đào, như ba cái ao.
Lính thu dọn pháp trường hất xác người xuống xuống ba
hố ấy. Xác người chồng lên nhau. Toàn những xác không đầu.
Theo lệnh của Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Anh, các thủ
cấp già trẻ trai gái ba họ được dựng trên những cọc tre, cắm xung quanh thành
trong một tháng. Riêng hai thủ cấp của tặc thần Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ
thì mang treo trước cửa thành phía Nam để bố cáo dân chúng. Kẻ nào dám đến lấy
thủ cấp, sẽ bị lăng trì.
Có một điều kỳ lạ: Ngay trong đêm mưa bão 16 tháng
tám ấy, hai thủ cấp bêu trước cửa Nam
thành bỗng không cánh mà bay.
Quan quân triều đình hốt hoảng bổ đi tìm suốt một
tháng ròng, nhưng bặt vô âm tín.
Cả mấy tháng, mấy năm sau dân thành Thăng Long
còn đồn đại mãi về chuyện lạ kỳ này.
Người thì cho rằng, hai hoạn quan Đinh Thắng, Đinh Phúc vì quá thương Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đã thuê người lén lấy trộm hai bộ thủ cấp đem
chôn. Việc này bị lộ, gần tháng sau hai hoạn quan này bị Nguyễn Thị Anh xử
chết. Có người lại nói như đinh đóng cột rằng, chính quan Tổng quản Hành quân
Thái uý Trịnh Khả và Tư không Trịnh Khắc Phục, vì quá ân hận không dám đứng ra
bảo vệ Đức Bà và Ức Trai, nên đã cho người làm việc này. Chín năm sau có kẻ tố
giác, cả hai võ quan đầu triều và hai con trai họ đều bị giết.
Duy có điều này, thì chỉ có Trời mới biết:
Chính cái đêm
mưa gió bão bùng ấy, có một ông già mặc chiếc áo tơi, đội nón Ma Lôi, khoác một
túi vải sau lưng, cùng một đôi trai gái, cả hai đẹp như thiên thần, lặng lẽ đi
gom hai chiếc thủ cấp. Lính cấm binh đứng canh đều tuốt gươn chém ba người,
nhưng chỉ bằng những đường đoản côn, bốn tên lính đều bị bay đầu như người ta
chặt chuối.
LỜI CUỐI SÁCH
Đúng ngày 16 tháng tám âm, ngày giỗ Ức Trai tiên sinh
và quan Lễ Nghi Học sĩ, cũng là ngày giỗ trận họ Nguyễn Nhị Khê, Chi Ngải, họ
Nguyễn Hải Triều cùng các họ Trần, họ Phùng, họ Lê…thì tác phẩm “ Long thành
tạp ký” của “Đoàn gia văn phái” do giáo sư Hoàng Nguyên và Thọt bỉ nhân Bùi La
Việt dịch và chuyển âm xong. Người mừng nhất, mừng hơn cả hai nhà văn hoá Đỗ
Chí Cao và Ngô Tháp, chính là chủ nhiệm Huỳnh Đạo. Ông thức hai ngày hai đêm
liền soạn email rồi lần lượt gửi thư điện tử cho các đại diện “Nguyễn Trãi
Club” trong nước và các châu lục.
Kế hoạch xuất bản và quảng bá, hội thảo, đã được lên
phương án chi tiết, chính xác từng ngày.
Bỗng từ làng
Động, một tin động trời: Đêm rằm Trung thu, kẻ
trộm đã dỡ ngói, chui từ trên trời xuống, đột nhập hậu cung điện thờ
đình làng, lấy đi hộp sắc cổ mang từ chùa Thái Cực về, trong đó có năm quyển
sách chữ nho, bản gốc của bộ “Long thành tạp ký”.
Rụng rời, choáng váng, hốt hoảng, rồi suy sụp trông
thấy là hai ông Thấp ông Cao, chuyên
viên văn hoá. Không phải hai ông sợ cánh buôn sách cổ Sài Gòn đòi lại tiền. Mà
nguy nhất là hai ông sợ đi tù. Chứ sao nữa? Nguỵ tạo ra “Long thành tạp ký”,
nguỵ tạo ra lịch sử, tội danh ghi rành rành trong bộ luật hình sự. Các cơ quan
chức năng bảo vệ văn hoá sẽ không để các
ông yên. Các ông cố tình nguỵ tạo ra một văn bản cổ, nguỵ tạo một trường phái
văn chương “ Đoàn gia văn phái” với những tác giả Đoàn Khâm, Đoàn Sinh, Đoàn
Lương, Đoàn Thiện Phổ….vô danh để viết lại lịch sử, bóp méo lịch sử. Rồi lại
mời những kẻ nhân thân không rõ ràng như
“Thọt bỉ nhân”, Hoàng Nguyên…, để chuyển âm, dịch nghĩa, hiệu đính. Rồi bói
toán, lên đồng, gọi hồn nữa chứ…Chà chà…cả một loạt vấn đề rắc rối.
Để thật chắc ăn và tránh gặp chuyện rầy rà, ông Cao
ông Thấp một mặt đề nghị hai dịch giả Hoàng Nguyên và Bùi La Việt tập trung
hoàn chỉnh thật tốt lại bản dịch, một mặt cùng trung tá Philip và ông Huỳnh Đạo
về làng Động. Trung tá Philip giờ đã chuyển về P90, cơ quan chuyên bảo vệ di
sản văn hoá phi vật thể. Một chuyên án
mang mã số LTTK- 01 được thành lập. Với vốn kinh nghiệm lâu năm, và đặc
biệt là tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, trung tá Philip tin rằng cơ
quan chức năng sẽ sớm tìm ra thủ phạm vụ trộm di sản văn hoá vô giá này.
Công việc tìm kiếm còn khó hơn mò kim đáy biển. Nhưng
chúng ta vẫn có quyền hy vọng rằng bản gốc “Long thành tạp ký” có ngày sẽ trở
về làng Động.
Rất may, bản photo “Long thành tạp ký” vẫn có giá trị
như một kỳ thư. Nhờ sự bảo trợ của các cơ quan Văn hoá, của “Nguyễn Trãi Club”,
đặc biệt là sự tận tình, giám chịu trách
nhiệm của Nhà Xuất bản X. cuối cùng “ Long thành tạp ký”, phần cốt lõi của tiểu
thuyết “Nguyên Khí”, với những chương, những đoạn in nghiêng trong tác phẩm, đã
đến tay bạn đọc.
Khởi thảo tại TP Hồ Chí Minh, 16 tháng 8 Nhâm thìn, ( 1.10.2012)
Hoàn thành tại Hà
Nội tháng 7, Quý tỵ,( 8. 2013)
HMT
1. Ứng nhân Đoàn Khâm --------------- 4
2. Nguyễn Khuê ------------------------- 19
3. Giáo sư
Hoàng Nguyên.------------- 40
4. Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh-------- 55
5. Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ----- 77.
6. Đô giám Lương Đăng.--------------- 102
7. Hoàng tử Lê Tư Thành.-------------- 122
8. Nội quan Tạ Thanh.------------------ 150
9 Ức Trai tiên sinh.---------------------- 165
10. Ni cô Tiểu Mai---------------------- 199.
11. Tượng nhân Bùi Thj Hý.---------- 220
12. Quốc cữu Nguyễn Phù Lỗ.------- 228
13. Vua Lê Nguyên Long-------------- 241.
14. Thái phó Đinh Liệt------------------ 274.
15. Vua Lê Nhân Tông.---------------- 290
16. Sử thần Ngô Sĩ Liên.-------------- 298
17. Chủ nhiệm
Huỳnh Đạo------------ 321.
18. Thọt Bỉ
nhân.----------------------- 344
7
19. Nguyên Phong. ---------------------
372
20. Lời
cuối sách.---------------------- 402
21. Lời
bạt.------------------------------ 405
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét