Khảo sát công trạng của những người
Pháp giúp vua Gia Long
Thụy Khuê
Chương 2
Giới thiệu bộ sử Nguyễn Văn Tường của
Nguyễn Quốc Trị
Bộ
sách lịch sử "Nguyễn Văn Tường (1824-1886) và cuộc chiến chống đô hộ
Pháp của nhà Nguyễn" xin gọi tắt là Nguyễn Văn Tường của Nguyễn
Quốc Trị, do tác giả xuất bản năm 2013 tại Maryland, Hoa Kỳ, đáp ứng đúng nhu
cầu nhìn lại và viết lại lịch sử.
Cảm tưởng đầu tiên của người đọc là sự ngạc nhiên
trước một công trình nghiên cứu mới mà từ lâu những người quan tâm đến lịch sử
vẫn hằng chờ đợi, không chỉ đối với giai đoạn hiện đại, mà cả về cuộc chiến
chống Pháp của nhà Nguyễn, bởi hầu hết chúng ta, vì thiếu sách sử, vì không đọc
được chữ Hán, vì kém Pháp văn, đã trưởng thành trong tình trạng thiếu hiểu biết
lịch sử nước mình.
Nguyễn Quốc Trị, sinh năm 1929, xuất thân Đại học
Quốc gia Hành chánh và Đại học Luật khoa Sài Gòn. Là viện trưởng cuối cùng của
Học viện Quốc gia Hành chánh. Là cháu đời thứ ba của quan phụ chính đại thần
Nguyễn Văn Tường. Với mục đích tìm hiểu những gì "ông cố" đã làm để
gây tiếng xấu trong lịch sử, Nguyễn Quốc Trị không những đã truy tìm hành trình
đích thực của Nguyễn Văn Tường mà còn điều tra lại những sự kiện lịch sử xẩy ra
dưới triều Nguyễn, đánh đổ những thành kiến sai lầm về các vua Gia Long, Minh
Mạng, Tự Đức. Ông tố cáo những giả trá trong cách hành xử của các nhà chính
trị, quân sự, giáo sĩ Pháp, sự bóp méo lịch sử của những ngòi bút thuộc địa và
giáo hội thừa sai, sự cố tình bôi nhọ triều Nguyễn nói chung, Nguyễn Văn Tường
và Tôn Thất Thuyết nói riêng, cốt để trình bầy một bộ mặt lịch sử có lợi cho
chế độ thực dân.
Nhờ những bản tấu của Nguyễn Văn Tường, do ba người
cháu nội của quan phụ chính sao chép lại từ các bộ, viện và được phổ biến trong
cuộc hội hội thảo chủ đề Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế cuối thế kỷ XIX,
tổ chức tại Đại học Sư phạm, Sài Gòn, ngày 12/11/1991, mà người ta biết rằng
chính Nguyễn Văn Tường là tác giả sách lược "hòa để thủ, thủ để mưu
chiến", mà các triều Tự Đức, Kiến Phúc và Hàm Nghi đã ứng dụng để đối
phó với cuộc xâm lăng của Pháp.
Từ năm 2002, Nguyễn Quốc Trị đã chuyên tâm nghiên
cứu, sao lục tài liệu ở các tàng thư Pháp, Mỹ, đối chiếu với kho tư liệu Việt.
Bộ sách của ông đồ sộ, đưa ra nhiều vấn đề, đi vào nhiều chi tiết nhưng cách
sắp đặt chưa thật sự được hệ thống. Nếu tác giả chia sách làm nhiều quyển (hoặc
nhiều chương mục), sắp xếp theo chủ đề, hoặc theo từng nhân vật, hoặc theo thứ
tự ngày tháng, có lẽ độc giả dễ tiếp nhận hơn.
Ngoài ra, sách viết với chủ ý bạch hoá những vấn đề
đưa ra, cho nên phần diễn lại lịch sử đích thực đôi khi bị chìm đi. Có lẽ sau
khi đã đẩy lui những thông tin sai lầm, thiết
tưởng tác giả nên tóm tắt lại mỗi vấn đề, mỗi sự kiện, để làm nổi trội bộ mặt
lịch sử sau khi đã được tìm tòi, phân tích, minh chứng một cách khoa học. Ở trong
nước, Trần Xuân An, hậu duệ đời thứ năm của Nguyễn Văn Tường có viết bộ truyện
ký tựa đề Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (nxb Văn Nghệ tpHCM, 2004)
theo lối lịch sử tiểu thuyết, dựa trên những sự kiện có thật ghi trong Đại Nam
Thực Lục, tiếc rằng bộ sách này không mấy giá trị.
*
Bộ sách Nguyễn Văn Tường dày 1138 trang khổ lớn
(21x27) chia làm hai tập, viết về sự nghiệp Nguyễn Văn Tường, vị phụ chính đại
thần đã bôn ba lo việc nước nhưng bị các sử gia Pháp Việt chôn vùi như một
người "tham ô, hà lạm" thậm chí "bán nước" vì đã ký hòa ước
Giáp Thân 1884, nhận sự bảo hộ của Pháp. Tác giả trình bầy sách lược chống Pháp
của Nguyễn Văn Tường: "hòa để thủ, thủ để mưu chiến", mà theo
ông, đã được vua Tự Đức chấp nhận; đồng thời mở rộng thêm nhiều vấn đề khác,
giải mã những sai lầm về các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, tìm
hiểu những khúc mắc trong mối quan hệ chính trị, ngoại giao và quân sự của
triều Nguyễn với Pháp.
Tập I, gồm những
chương:
1- Chương một, tựa
đề Nguyễn Văn Tường và sách lược chống đô hộ Pháp:
Tác giả dẫn lại
hành trình Nguyễn Văn Tường từ 1862 đến 1886, khi ông mất.
Khi Nguyễn Văn
Tường bắt đầu có trách nhiệm chính trị và ngoại giao, thì vua Tự Đức đã phải ký
hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862), nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, cốt yên
mặt Nam, để Nguyễn Tri Phương ra Bắc dẹp loạn.
Sau khi đã bình
định ba tỉnh chiếm được, bất chấp hiệp ước Nhâm Tuất, năm 1867, Pháp chiếm nốt
ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
Năm sau, 1868,
Nguyễn Văn Tường dâng kiến nghị đầu tiên lên vua Tự Đức, ngụ ý: thường thì phải
đánh rồi mới thủ, thủ rồi mới hòa; nhưng tình thế đã nguy ngập, ta phải hòa trước
để thủ, thủ rồi mới mưu chiến" (Bản tấu ngày
8/3/1868, Nguyễn Văn Tường I, t. 25).
Con đường mềm dẻo
trong chính trị và ngoại giao này sẽ được Nguyễn Văn Tường áp dụng gần 20 năm,
dưới triều Tự Đức, khi đánh khi hòa, mỗi chặng là một đương đầu, một khó khăn,
cho tới khi ông bị Pháp bắt, đầy đi Tahiti năm 1885 và mất năm 1886.
2- Chương hai: Sử
thuộc địa bôi lọ vua quan nhà Nguyễn và Nguyễn Văn Tường: Tác giả phản bác
những luận điểm của sử gia thuộc địa và một số điều được sử gia Việt chép lại.
Về "công ơn" của Bá Đa Lộc đối với vua Gia Long: ơn cứu mạng, ơn giúp
Nguyễn Ánh dựng lại cơ đồ, về những sự vu khống: vua Gia Long "tàn
bạo", "nhỏ nhen", đối xử tàn tệ với nhà Lê; vua Minh Mạng
"bội bạc" "quên ơn" Pháp, "giết đạo, giết hại công
thần, diệt dòng trưởng hoàng tử Cảnh"; Nguyễn Văn Tường "tư thông với
Học phi, giết Kiến Phúc", vv...
3- Chương ba: Nguyễn
Văn Tường và vua quan nhà Nguyễn tham lam: Tiếp tục giải mã những vu cáo
của sử gia và chính quyền thuộc địa đối với Nguyễn Văn Tường qua việc sử dụng
thông tin sai lầm và văn kiện giả mạo. Đồng thời đưa ra những chứng từ xác định
tư cách và hành động của các vua Thiệu Trị, Tự Đức, bị bôi nhọ là bạo chúa.
Tập II, tiếp tục
chứng minh những luận điểm xuyên tạc Nguyễn Văn Tường và các vua triều Nguyễn
qua các chương bốn và năm.
4- Chương bốn: Vua
quan nhà Nguyễn và Nguyễn Văn Tường tàn nhẫn? Tác giả phản bác sự quy kết
Nguyễn Văn Tường những tội: diệt đạo, đi với công giáo để giết Văn Thân, giết
công thần Trần Tiễn Thành, giết ba vua: Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc.
Những vần đề nêu
ra đều được tác giả giải quyết bằng sự đối chiếu văn bản: Trần Tiễn Thành bị Kỳ
ngoại hầu Hồng Chuyên giết chết. Dục Đức bị truất phế vì theo Pháp. Hiệp Hòa bị
giết vì mật thông với Khâm sứ de Champeaux để diệt phe chống Pháp. Vua Kiến
Phúc chết vì bệnh.
5- Chương năm: Ai
gian trá: Người Pháp hay vua quan triều Nguyễn? Nêu ra những thủ pháp bội
nhọ trong sách vở, ca dao, vè, viết lách xuyên tạc, không kiểm chứng. Đặc biệt
trong chương này, tác giả đã có những khám phá quan trọng:
a/ Vụ đánh Bắc Kỳ
lần thứ nhất: Khi Francis Garnier tấn công Hà Nội, không hề có tối hậu thư,
Nguyễn Tri Phương không ngờ Garnier dám động thủ, vì vua Tự Đức đang thương
lượng, không muốn dùng bạo lực. Giám mục Puginier huy động giáo dân tiếp tay
với Francis Garnier trong việc đánh chiếm Bắc Kỳ.
b/ Vụ đánh Bắc Kỳ
lần thứ hai: Henri Rivière bất chấp hiệp ước 1874, dùng thủ đoạn và sự nội công
của giới thừa sai.
Riêng chương năm
này đã là một cuốn sách nghiên cứu về hai sự kiện lịch sử chính trong cuộc
chiến Bằc Hà, gây ra cái chết của hai vị đại thần Nguyễn Tri Phương và Hoàng
Diệu, mà cho tới nay, vì thiếu sự giải thích minh bạch, chúng ta vẫn không hiểu
tại sao Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu lại có thể thua trận một cách dễ dàng
như thế, trước hai kẻ giang hồ như Francis Garnier và Henri Rivière.
Đặc biệt về việc
đại tướng Nguyễn Tri Phương để mất thành Hà Nội, như trên đã nói, Nguyễn Quốc
Trị chứng minh rằng vì Francis Garnier tấn công bất ngờ, không hề có tối hậu
thư như lời đồn đại, Nguyễn Tri Phương được lệnh vua không động thủ, để điều
đình.
Đây không phải là
lần đầu tiên quân Pháp dùng những thủ đoạn lừa gạt để tấn công. Khi đánh Đà
Nẵng lần đầu năm 1847, dưới thời vua Thiệu Trị, Lapierre và Rigault de
Genouilly cũng đã đánh lén: bất ngờ bắn phá tan 5 thuyền đồng của nước ta ở
vịnh Đà Nẵng, trong khi đang đợi thư vua trả lời. Lapierre đã đánh lén và nhờ
giám mục Forcade biện minh cho hành động nhơ nhuốc này như thế nào?
Chúng tôi sẽ trở
lại vấn đề này trong bài Tìm hiểu cuộc tấn công Đà Nẵng ngày 15/4/1847,
cuộc chiến đầu tiên của Pháp ở Việt Nam mà ít người để ý tới. Chính vì
trận ấy mà vua Thiệu Trị phẫn uất, mấy tháng sau mất và việc giao thiệp với
Pháp và người Âu bị đình chỉ trong gần 10 năm.
*
Thủ pháp bôi nhọ
các vua triều Nguyễn trực chỉ vua Minh Mạng, là biện pháp chung của các vị thừa
sai và các sử gia thuộc điạ. Tại sao vua Minh Mạng lại bị giới thừa sai và sử
gia thuộc địa cay độc kết án? Bởi ông là vị vua tài ba trong việc nội trị, cứng
rắn trong việc ngoại giao, chủ trương ngăn ngừa ngoại xâm bằng một đường lối
chính trị và quân sự vững chắc, chặt chẽ và toàn diện. Để bôi nhọ Minh Mạng,
sau khi mô tả việc xử linh mục Gagelin (bị thắt cổ), với những chi tiết cực kỳ
dã man (theo lời kể của các giáo sĩ), Gosselin còn thêm thắt:
"Tuy nhiên
Minh Mạng dấn thân vào đủ loại tội ác. Người ta xác định, nhưng tôi chưa thể
kiểm chứng sự xác thực của việc này, rằng ông ta loạn luân với chị dâu, vợ
hoàng tử Cảnh; khi bà này có mang trông thấy, ông ta kết án tử hình người đàn
bà bất hạnh cùng với hai con của bà, là cháu ruột ông ta, cho họ được hưởng
"tam ban triều điển" là đặc ân trong cái chết: ba thước lụa hồng để
thắt cổ hay treo cổ, một lọ thuốc độc và một thanh gươm để cắt cổ" (Gosselin,
L'Empire d'Annam, t. 116).
Lối trình bày
"sự kiện" như trên, thường thấy trong thư từ hoặc báo cáo của các vị
thừa sai gửi hội truyền giáo, và được người viết chia động từ trong thể điều
kiện (conditionnel), tức là chưa chắc hoặc ghi thêm nghe nói,
nhưng khi được các sử gia chép lại, nó trở thành sự thực! Việc "vua Minh
Mạng tư thông với chị dâu" đầu tiên là do Trương Vĩnh Ký (gần gũi giới
thừa sai) đưa ra, rồi Gosselin chép lại.
Nguyễn Quốc Trị
minh giải bằng những điều ghi rõ trong Đại Nam Thực Lục và Liệt Truyện: vợ
hoàng tử Cảnh là Tống Thị Quyên loạn luân với con trai Mỹ Đường (hoàng tôn
Đán). Lê Văn Duyệt biết chuyện tâu lên. Đây là một trong những tội nặng nhất về
hình sự. Vua Minh Mạng sai Lê Văn Duyệt dìm chết Tống Thị Quyên và cấm Mỹ Đường
không được vào chầu. Người em là Mỹ Thùy (hoàng tôn Kính) chết vì bệnh dịch tả.
Sau khi phạm thêm một tội nữa, Mỹ Đường bị biếm làm thường dân; mất năm 1849,
dưới thời Tự Đức. Con trai Mỹ Đường là Lệ Chung trông nom việc thờ cúng hoàng
tử Cảnh. (Nguyễn Quốc Trị, tập I, t. 432).
Ngoài việc phản
bác những sự bôi nhọ cá nhân, Nguyễn Quốc Trị còn khai quật những nghi vấn tầm
vóc quốc gia, như:
1- Bá Đa Lộc có
thực sự cứu Nguyễn Ánh khỏi chết không?
2- Sự giúp đỡ của
Bá Đa Lộc có quyết định sự nghiệp của Nguyễn Ánh không?
2- Vai trò của các
giáo sĩ Marchand (Mã Song hay Cố Du) và Taberd trong cuộc khởi loạn Lê Văn
Khôi.
3- Sự thật về sự
phế lập ở Huế.
5- Hồng Bảo (anh
vua Tự Đức) âm mưu đảo chánh, nhờ sự giúp đỡ của giới thừa sai và quân đội viễn
chinh.
6- Vai trò của các
giáo sĩ trong các cuộc nổi loạn ở Bắc, Trung,
Nam.
7- Những hiệp ước
quan trọng: Nhâm Tuất 5/6/1862; Giáp Tuất 15/3/1874; và Giáp Thân 6/6/1884, đã
được ký kết trong những điều kiện như thế nào?
Những câu hỏi mà
cho tới nay, chưa mấy ai đặt ra, hoặc chỉ viết lại những gì người trước đã đưa,
đôi khi là vài lời phán xét của Trần Trọng Kim có giá trị như một sự thật lịch
sử mà chính vị học giả cũng lại dựa vào những nguồn tin chưa phải là đáng tin
cậy.
Ví dụ việc phế
vua, giết vua, từ trước đến nay, sử gia đều đổ lên đầu hai ông Tường và Thuyết,
mà không đả động đến việc các vua Dục Đức, Hiệp Hoà thông đồng với Pháp.
Hoà ước Giáp Thân
6/6/1884, còn gọi là hoà ước Bảo hộ, đã được thiết lập trong điều kiện nào? Có
ai biết bản tiếng Pháp khác với bản chữ Hán? Nguyễn Văn Tường có chịu nhận hai
chữ bảo hộ hay không? Thủ tướng Pháp Jules Ferry đã dùng thủ đoạn gì để
ký hòa ước ấy? Tại sao Nguyễn Tri Phương để mất thành Hà Nội? Một đại tướng
xông pha cả đời trong chiến trận khiến quân Pháp nể trọng, sao chưa đánh mà
thua một kẻ vô danh tiểu tốt như Francis Garnier? Những mánh lới gì nằm sau vụ
Henri Rivière chiếm Hà Nội lần thứ nhì, nội ứng của giới thừa sai ra sao? Tại
sao Hoàng Diệu tuẫn tiết?...
Tất cả những câu
hỏi trên đây, đều được Nguyễn Quốc Trị giải đáp thoả đáng. Những sự thực bị che
đậy như thế, được trưng ra và ông đã phanh phui rất nhiều điểm tối của lịch sử.
*
Phần phụ lục ở
cuối tập II, t. (925-1138) có một số văn bản gốc chụp trong các kho tư liệu,
gồm nhiều thư từ trao đổi giữa các viên chức, giáo sĩ với nhà cầm quyền Pháp.
Đặc biệt có hai tài liệu quan trọng: Hoà ước Giáp Thân và lá thư
Silvestre gửi Lemaire.
1/ Hòa ước Giáp
Thân 6/6/1884, còn gọi là hòa ước Patenôtre hay hòa ước Bảo hộ
Trong lúc mọi sự
đang hết súc rối ren, thì vua Tự Đúc mất ngày 19/7/1883.
Một năm sau, ngày
6/6/1884, trong thế cùng, triều đình Huế phải ký với Pháp hoà ước Giáp thân hay
hoà ước Patenôtre còn gọi là hoà ước Bảo Hộ.
Đây là hoà ước
"nhục nhã" nhất của nước ta, vì với nó, nưóc ta chính thức mất chủ
quyền.
Trong đó chữ Protectorat
(Bảo hộ) ngụ cả ý ngoại giao lẫn nội trị. Có nghiã là Việt
Nam
hoàn toàn chịu sự bảo hộ hay đô hộ của người Pháp. Nguyễn Văn Tường, lúc
đó là phụ chính đại thần, đảm trách việc ký hòa ước này, dư luận cho rằng ông
đã theo Pháp mà ký một hiệp ước "bán nước".
Nguyễn Quốc Trị
đưa ra hình chụp nguyên bản hòa ước chữ Pháp và chữ Hán, để chứng minh sự khác
biệt giữa bản Pháp văn và Hán văn, và thủ đoạn của thủ tướng Pháp Jules
Ferry.
Xin nhắc lại một
số sự kiện:
- Chưa đầy một
tháng sau khi vua Tự Đức mất, vua Hiệp Hoà, dưới áp lực của Toàn quyền Harmand
và Khâm sứ De Champeaux, sai Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hiệp ký hoà ước Quí
Mùi ngày 25/8/1883, Pháp gọi là hoà ước Harmand.
- Hoà ước Harmand
chưa được chính phủ Pháp phê chuẩn và bị phe chống Pháp do Nguyễn Văn Tường và
Tôn Thất Thuyết cầm đầu quyết liệt phản đối.
- Vua Hiệp Hòa -đi
với Pháp, định diệt hai ông Tường và Thuyết- bị buộc phải uống thuốc độc chết
ngày 29/11/1883.
- Vua Kiến Phúc
lên ngôi.
- Pháp điều đình
với Tầu, ký hòa ước Thiên Tân 11/5/1884, để Tầu công nhận quyền bảo hộ của Pháp
ở Việt Nam.
- Patenôtre trên
đường đi Bắc Kinh nhận chức đại sứ, ghé Huế, ký một hiệp ước mới, thay thế hiệp
ước Harmand bị coi là quá khắt khe.
- Không ngờ hòa
ước Patenôtre còn tệ hơn hòa ước Harmand.
Vì vậy mà Nguyễn
Văn Tường, là người chủ chốt ký hoà ước này, đã bị coi là phản bội.
Nguyễn Quốc Trị
trình bầy sự gian lận của chính quyền Pháp bằng cách đối chiếu văn bản.
Chữ protectorat
(bảo hộ) xuất hiện lần đầu trong hòa ước Harmand, nguyên văn tiếng Pháp:
Article Premier: L'Annam reconnait et accepte le protectorat
de la France avec les conséquences de ce mode de rapports au point de vue du
droit diplomatique européen, c'est-à-dire que la France présidera aux relations
de toutes les puissances étrangères, y compris la Chine, avec le gouvernement
annamite, qui ne pourra communiquer diplomatiquement avec lesdites puissances
que par l'intermédiaire de la France seulement (Gosselin, Phụ lục số 9, t.
528).
Điều Một: Nước Nam nhìn nhận và chấp nhận sự bảo
hộ của nước Pháp, với những hậu quả của thể thức này theo luật ngoại giao
Âu châu, nghiã là nước Pháp sẽ điều khiển các mối giao thiệp của nước Nam với
tất cả các cường quốc bên ngoài, kể cả nước Tầu, chính phủ An Nam chỉ được quan
hệ ngoại giao với những cường quốc ấy qua trung gian của nước Pháp mà thôi.
Nhận xét: Chữ protectorat (bảo hộ) trong
hòa ước Harmand chỉ bao hàm ý nghiã ngoại giao.
Hòa ước Giáp Thân, ký ngày 6/6/1884, giữa Patenôtre
và Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Phan, mà Nguyễn Quốc Trị chụp lại
được bản chính viết tay, như sau:
Article I
L'Annam reconnait et accepte le protectorat de la France.
La France
représentera l'Annam dans toutes ses relations extérieures.
Les Annamites à l'étranger seront placés sous la
protection de la France.
(Nguyễn Văn Tường, Tập II, Phụ lục 4a, t. 936)
Điều I
Nước Nam
nhìn nhận và chấp nhận sự bảo hộ của nước Pháp.
Nước Pháp sẽ đại diện cho nước Nam trong tất
cả các mối bang giao bên ngoài.
Người An Nam ở nước ngoài sẽ được đặt dưới sự bảo hộ
của nước Pháp.
Nhận xét: điều I của hòa ước Harmand và hoà
ước Patenôtre hoàn toàn khác biệt:
Hòa ước Harmand viết điều I thành một câu hoàn
chỉnh với nghiã: Việt Nam
công nhận sự bảo hộ của Pháp về mặt ngoại giao.
Điều I của
hòa ước Patenôtre, có vẻ "bao dung" hơn, chiếu cố đến cả người Việt ở
nước ngoài; được chia làm 3 câu độc lập, mỗi câu một ý nghiã:
1- Nước Nam chấp nhận sự bảo hộ của Pháp (ngụ
ý cả nội trị và ngoại giao).
2- Nước Pháp sẽ đại diện cho nước Nam ở bên ngoài (ngụ ý về mặt ngoại giao không
còn nước Nam
nữa mà nước Pháp đã thay thế).
3- Người Việt ở nước ngoài sẽ được đặt dưới quyền bảo
hộ của Pháp (ngụ ý người Việt ở nước ngoài cũng trở thành công dân bảo
hộ).
Với mục đích thành lập một hòa ước mới, bớt khắt khe
hơn, để bên Việt chấp thuận, thì quả là hòa ước Patenôtre đã đi ngược lại: Từ
sự bảo hộ về ngoại giao, đã tiến sang, bảo hộ cả nội trị lẫn ngoại giao và
người Việt ở nước ngoài sẽ trở thành thuộc dân của Pháp.
Tại sao Nguyễn Văn Tường lại chịu ký một hòa ước như
vậy? Nếu nhìn bản Hán văn mà Nguyễn Quốc Trị chụp kèm theo (NQT, II, Phụ Lục
4b, t. 944-966), được dịch trong Đại Nam Thực Lục, thì điều I này được viết như
sau:
"Khoản thứ 1: nước Đại Nam tự nhận nước Đại Pháp
giúp đỡ, nghiã là nước Đại Nam có giao thông với nước nào, thì nước Đại Pháp
giúp đỡ công việc và nhân dân nước Đại Nam có ở nước ngoài thì Đại Pháp cũng
giúp đỡ." (NQT, I, t.
165).
Nhận xét: Khoản thứ 1 này hoàn toàn không có
nghiã như điều I trong bản tiếng Pháp.
Ngoài ra, bản tiếng Pháp, trong điều số 19,
còn ghi thêm:
"En cas de constestations, le texte français
fera seul foi" (Trong trường
hợp tranh chấp, chỉ bản tiếng Pháp là có giá trị).
Và đây là sự giải thích của Nguyễn Quốc Trị (Tập I,
t. 166-167):
1- Nguyễn Văn Tường và các quan nhất quyết đòi thay
chữ bảo hộ bằng chữ bảo trợ hay bang trợ, tức là giúp
đỡ chứ không nhận sự thống trị của Pháp trên nước Nam. Điều này được
xác định trong một văn kiện của triều đình Huế, dịch ra tiếng Pháp mang tên Projet
de la Cour de Huế, (Dự án của triều đình Huế) lưu trữ ở văn khố Bộ ngoại
giao Pháp, được Võ Đức Hạnh phát hiện và đăng lại trong cuốn La place du
Catholicisme dans les relations entre la France et le Vietnam de 1870 à 1886,
3 tomes. Berne, New York: P Lang, 1992.
2- Cuộc tranh luận về từ ngữ đưa đến bế tắc, không
bên nào chịu nhượng bộ. Patenôtre đánh điện xin chỉ thị của Paris, Jules Ferry trả lời trong một điện văn
mật (codé) gửi ngày 3/8/1884: "Le texte français faisant foi, vous pouvez
accepter le mot baluttro [bảo trợ] si vous jugez nécessaire, Ferry"
(Chỉ bản tiếng Pháp là có giá trị, ông có thể chấp nhận chữ bảo trợ nếu
cần, Ferry). Nguyễn Quốc Trị tìm thấy điện văn này trong văn khố Bộ ngoại
giao Pháp.
Như vậy, hòa ước này có hai bản, chỉ bản tiếng
Pháp là có giá trị mà thôi. Bản chữ Hán viết sao cũng được, miễn làm vừa
lòng phiá Việt.
Jules Ferry dùng thủ đoạn này, vì ông dự trù rằng khi
thi hành hoà ước thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết sẽ không còn ở ghế phụ
chánh nữa. Với một ông vua thân Pháp, thì sẽ không gặp trở ngại gì. Quả đúng
như vậy, đầu năm 1886, khi Nguyễn Văn Tường bị đầy đi Tahiti, Pháp mới đưa bản
hòa ước cho vua Đồng Khánh chuẩn y. Sau đó không ai nêu lại vấn đề khác biệt
giữa hai bản Pháp-Việt nữa.
3- Nguyễn Văn Tường có thể đã biết rõ âm mưu về
sự khác biệt giữa hai văn bản, nhưng đành phải ký, vì cũng như với hòa ước
Harmand, lần này Pháp cũng đem chiến thuyền vào uy hiếp Huế. Pháp đưa tối hậu
thư bắt buộc phải ký trong vòng 24 tiếng đồng hồ, nếu không họ sẽ dùng biện
pháp quân lực. Tại trung tâm văn khố hải ngoại Aix-en-Provence, Nguyễn Quốc Trị
tìm được tờ trình về bộ Hải Quân của viên đại tá, dưới quyền đề đốc Courbet,
cho biết: "Hòa ước Patenôtre chỉ được Nguyễn Văn Tường ký một cách miễn
cưỡng sau khi nhận được tối hậu thư 24 giờ của phiá Pháp".
Tối hậu thư này chưa từng thấy ghi lại ở đâu. Đọc kỹ
Thực Lục, Nguyễn Quốc Trị thấy có chỗ nói thoáng qua về việc người Pháp hăm
doạ sẽ để cho quan võ giải quyết vấn đề, và ngày hôm sau thì thủ tục ký kết
hòa ước đã bắt đầu, không thương thuyết gì nữa.
Tóm lại, hậu ý của công hàm Jules Ferry gửi cho
Patenôtre:
- Cứ cho viết bản chữ Nho, theo đúng ý của
triều đình Huế. Tức là Việt Nam
chỉ nhận sự bang trợ ngoại giao của Pháp.
- Còn bản tiếng Pháp ghi điều gian trá: Việt Nam chấp
nhận nền bảo hộ của Pháp. Và chua thêm trong điều 19 câu: khi
có tranh chấp, chỉ bản tiếng Pháp là có giá trị mà thôi.
- Dùng tối hậu thư đe dọa, để ép buộc triều đình phải
ký ngay, nếu không quân Pháp sẽ tấn công kinh thành: Ngoài 2 đại đội tháp tùng
Patenôtre, còn có quân Pháp đóng ở Thuận An và hạm đội của tổng tư lệnh Courbet
đóng ở ngoài khơi cửa Thuận.
Chỉ vài tháng sau khi hiệp ước Patenôtre 6/6/1884
được ký kết, Tổng trú sứ Rheinat dựa vào quyền "bảo hộ" đòi
truất phế vua Hàm Nghi, vì lên ngôi không được Pháp cho phép, rồi người kế
nhiệm Lemaire đòi thêm rằng sự bổ nhiệm Phụ chánh và Thượng thư cũng phải có sự
chấp thuận của Tổng trú sứ. Tất cả những uất ức này, dẫn Nguyễn Văn Tường và
Tôn Thất Thuyết đến quyết định chống Pháp: Tôn Thất Thuyết đi kháng chiến,
Nguyễn Văn Tường ở lại để nghị hoà.
Sau biến cố Mang Cá, 4-5/7/1885, kinh thành thất thủ,
vua Hàm Nghi xuất bôn kháng chiến trong ba năm, đến khi vua bị bắt năm 1888,
thì Việt Nam mới hoàn toàn mất quyền tự chủ, nhận sự bảo hộ của Pháp,
theo bản Pháp văn của hoà ước Patenôtre.
2- Bản chụp bức thư Silvestre gửi Lemaire
Tài liệu quý giá thứ nhì mà Nguyễn Quốc Trị tìm được
là bức thư viết tay của Silvestre gửi Lemaire:
Silveste, Giám đốc chính trị và dân sự, viết thư cho
Lemaire, Tổng trú sứ, ngày 19/11/1884, đề nghị kế hoạch truất phế vua Hàm
Nghi.
Thư này viết sau khi vua Hàm Nghi lên ngôi (ngày
2/8/1884) được 3 tháng rưỡi. Tài liệu quan trọng, chứa nhiều thông tin về tình
hình chính trị và quân sự sau khi vua Tự Đức mất.
Silvestre coi hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn
Thất Thuyết là đích danh thủ phạm chính sách chống Pháp.
Coi Nguyễn Văn Tường kẻ thù lợi hại hàng đầu,
Silvestre kể đủ mọi tội tham tiền, tham nhũng để bêu xấu Nguyễn Văn Tường: Tuy
không ra mặt nhưng cầm cương ở đằng sau, trách nhiệm tất cả những mưu đồ, liên
kết với quân Tầu làm mặt trận thống nhất chống Pháp. [Lúc này Fournier đã ký
với Lý Hồng Chương hiệp ước Thiên Tân (11/5/1884): Tầu công nhận VN là thuộc
địa của Pháp và sẽ rút quân về].
Sivestre khám phá chiến lược chống Pháp của triều
đình Huế qua hai nguồn tin đồng quy: tin tức tình báo và thư giám mục Puginier
gửi tổng tư lệnh quân đội viễn chinh ngày 6/11/1884, theo đó, thì cuộc nổi dậy
do Nguyễn Văn Tường bí mật chỉ đạo: Tôn Thất Thuyết sẽ đưa vua Hàm Nghi ra Cam
Lộ. Hoàng Kế Viêm, Đề đốc Ngô, Lưu Vĩnh Phúc... được giao trọng trách đánh
chiếm các vùng Hưng Hoá, Thanh Hoá, Ninh Bình, Sơn Tây, Tuyên Quang.
Silvestre đề nghị với Lemaire giải pháp: Nếu hai phụ
chính đưa vua Hàm Nghi rời Huế thì Pháp lập tức đưa Chánh Mông (sau là vua Đồng
Khánh) lên ngay, tuyên bố truất phế Hàm Nghi, lập chính phủ mới với 6 tên tuổi:
Đoàn Văn Bình, Nguyễn Thuật, Cao Hữu Sung, Lê Tấn Thông, Đặng Đức Địch, Nguyễn
Hữu Độ, là những người đã từng giữ chức tuần phủ hoặc thượng thư nhưng bị triều
đình giáng chức hoặc cách chức vì có tội.
Nửa năm sau, xẩy ra biến cố Mang Cá ngày 4-5/7/1885,
kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi ra Cam Lộ cầm đầu lực lượng kháng chiến trong
ba năm mới bị bắt, tất cả đã xẩy ra gần đúng như dự báo của Silvestre.
Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, thuộc Cơ Mật Viện
và Tôn Thất Đính (cha Tôn Thất Thuyết) bị bắt, đi đầy ở Tahiti.
Phạm Thận Duật chết trên tầu. Nguyễn Văn Tường và Tôn
Thất Đính, mất ở Tahiti năm sau (1886).
Phong trào Cần vương tiếp tục chống Pháp đến khi Phan
Đình Phùng mất (1895) mới tan rã.
Bộ sử Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị là một
công trình nghiên cứu thận trọng và chi tiết, mở đầu cho một khuynh hướng tìm
lại, viết lại và đọc lại lịch sử Việt Nam. Tác giả không chỉ quan tâm đến việc
kể lại sự kiện lịch sử, mà còn lật trái lật phải, xem những gì đã được viết về
sự kiện này, từ trước đến giờ, như thế nào, nếu nó sai, thì sai ở chỗ nào, tại
sao sai, người ta căn cứ vào đâu để đưa ra những luận chứng như thế. Tuy viết
về nhân vật chính là Nguyễn Văn Tường, nhưng thực sự Nguyễn Quốc Trị đã trải
dài lịch sử đến gần như cả ba triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nguyễn Văn Tường và cuộc chiến chống đô hộ Pháp của
nhà Nguyễn sẽ là tác phẩm sử học đầu
tiên viết theo lối nhìn mới thoát hẳn các khuôn mẫu cũ. Tác giả đã điều tra đến
tận nguồn nhiều sự việc, nhiều biến cố lịch sử; dĩ nhiên ông chưa làm được tất
cả, nhưng những gì ông đem ra ánh sáng cũng đủ khơi mào cho một khuynh hướng
nghiên cứu lại lịch sử, trung thực và đào sâu hơn, để trả lại giá trị cho đại
thần Nguyễn Văn Tường và triều đại nhà Nguyễn, nhất là vua Tự Đức, trong suốt
thời kỳ trị vì, đã tìm mọi cách chống lại sự xâm lăng của Pháp.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)
© Copyright Thuy Khue 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét