Giáo sư Huệ Chi “đạo văn” hay là nhà phê bình
Nguyễn Hòa vu khống?
Đặng Văn Sinh
Vẫn biết, với những
ai không cùng chung một mặt bằng trong đối thoại, thì nhiều khi lên tiếng chất
vấn, công kích người khác lại trở thành độc thoại, và người bị công kích mà
không trả lời có thể càng thêm uy tín; nhưng sự im lặng của GS Nguyễn Huệ Chi
trước những câu hỏi có vẻ thách thức của ông Nguyễn Hòa khiến chúng tôi, một
người từ lâu có dõi theo con đường học thuật và hoạt động xã hội của GS Huệ Chi
mà không có hân hạnh quen ông, từ chỗ tò mò đến băn khoăn tìm hiểu, và thấy đã
đến lúc phải lên tiếng với công luận một đôi điều. Bài viết của chúng tôi gồm
hai phần, nhằm giải đáp hai câu hỏi trong số ba câu của ông Hòa, còn câu cuối,
ông mượn lại lời GS Nguyễn Đình Chú (một người thầy đáng kính), vì không phải
là người trong cuộc, xin nhường cho người khác có đủ thẩm quyền hơn mình, bởi
xét ra, câu hỏi ấy hẳn liên quan đến nội tình lịch sử một thời kỳ dài của Viện
Văn học.
I. - Sự khác nhau giữa Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ
Chi
I.1. - “Thượng sĩ hành trạng” của Trần Nhân Tông
là hồ sơ gốc về Trần Tung
Tuần
báo Văn nghệ số 41, trang 16 và 24,
ra ngày 12 tháng 10 năm 2013 có đăng bài “Đôi
điều gửi tới GS Nguyễn Huệ Chi” của nhà phê bình Nguyễn Hòa. Bài viết với
phong cách đao to búa lớn, phê phán cuốn sách Văn học cổ cận đại Việt Nam - Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật
của GS Nguyễn Huệ Chi vừa được NXB Giáo dục ấn hành đầu năm 2013. Trong bài,
Nguyễn Hòa gán cho GS Nguyễn Huệ Chi một số “tội” mà quan trọng nhất là “tội”
“đạo văn”. Sau những lời dẫn giải hết sức ngạo mạn về lý do không đến L’Espace
(24 Tràng Tiền, Hà Nội) dự tọa đàm trao đổi về cuốn sách, ngay ở mục 1, Nguyễn
Hòa thả một câu hỏi đầy khiêu khích: “GS Nguyễn Huệ Chi đạo văn hay phóng tác
từ tác phẩm của Trần Nhân Tông nhưng lờ đi, không nói rõ nguồn gốc, hoặc ông
bắt chước Nguyễn Lang (đoạn của Nguyễn Lang khá dài nên không dẫn lại, có thể
tìm đọc trong: Việt Nam Phật giáo sử luận,
Tập 1, NXB Lá bối, SG, 1973, từ tr.276 đến 279; và Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học, H, 2008, từ tr.256 đến
tr.258), rất mong GS Nguyễn Huệ Chi tường giải vấn đề này”.
Trước khi cầm bút, chúng tôi đã tìm đọc kỹ những phần có liên
quan đến các mục mà ông Nguyễn Hòa dẫn chứng trong bài viết đã dẫn, gồm cả bản
dịch và bản gốc (nguyên văn chữ Hán) như Đại
Việt sử ký toàn thư (Kỷ nhà Trần); Thượng
sĩ ngữ lục; An Nam chí lược của
Lê Trắc (dẫn Nguyên sử); Việt sử thông giám cương mục; Việt Nam Phật giáo sử luận (NXB Lá Bối,
Sài Gòn, 1973), chương 11: “Tuệ Trung Thượng sĩ”; Thơ văn Lý – Trần, Tập I, 1977; Thơ
văn Lý – Trần, Tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội, H., 1989; Tạp chí văn học số 3, 1977, với mục đích
để làm căn cứ cho việc phân tích dưới đây xem có đúng là GS Nguyễn Huệ Chi “đạo
văn” hay không.
Về
phía Nguyễn Hòa, muốn cho bạn đọc thấy là mình không “vu khống”, ông đã làm một
bảng so sánh hai văn bản, một bên rút từ “Thượng Sĩ hành trạng” trong Thượng Sĩ ngữ lục của Trần Nhân Tông
(khoảng 484 chữ) và một bên trích từ “Trần
Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền Lý – Trần” (khoảng 750 chữ) của
GS Nguyễn Huệ Chi. Sở dĩ số lượng chữ viết của Nguyễn Huệ Chi nhiều như thế,
theo Nguyễn Hòa, là bởi tác giả này “thành thạo thủ pháp huy động “mắm, muối,
gia vị thêm thắt cho dài dòng, màu mè mà thôi…”. Trên thực tế, quả thật hai văn
bản khá giống nhau, và không thể phủ nhận một điều, khi viết công trình của
mình, Nguyễn Huệ Chi đã tham khảo từ trước tác của Trần Nhân Tông. Nhưng nếu
chỉ căn cứ vào thao tác đó mà khẳng định Nguyễn Huệ Chi “đạo văn” từ Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục thì Nguyễn
Hòa đã bé cái nhầm. Chưa nói đến việc, GS đã có thái độ rất thận trọng của
một người làm khoa học khi ở cuối trang 376, ông ghi dòng chú thích nêu rõ xuất
xứ tư liệu: “(1) Nguyễn Huệ Chi dịch. Thơ
văn Lý –Trần, Tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội, H., 1989. Tài liệu về
Tuệ Trung Thượng sĩ sử dụng trong bài viết này rút từ Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, in chung với Tam tổ thực lục, 1903, A.2048, và Thơ văn Lý – Trần, Tập II, Q. thượng, 1989, Sđd”. Nhưng đấy chưa
phải là điểm chủ yếu. Điều cần nói ở đây là, những loại sách chúng tôi vừa nêu
đều được coi là “sách công cụ” không thể thiếu đối với người nghiên cứu khoa
học. Mà nếu đã là sách công cụ thì bất cứ ai cũng có quyền tham khảo, trích dẫn
cho công trình của mình miễn là có chú thích nguồn tư liệu gốc. Chắc chắn
Nguyễn Hòa thừa hiểu những điều sơ đẳng này, vậy mà nhà phê bình lại bị “sập
cái bẫy” do chính mình bày ra khi ông lớn tiếng tuyên bố “GS Nguyễn Huệ Chi đã
hì hục phá khóa một cánh cửa mà Nguyễn Lang đã mở sẵn từ 4 năm trước”. Bây giờ
để bạn đọc tường minh, chúng tôi lại áp dụng phương pháp đối chiếu, so sánh của
Nguyễn Hòa giữa “Thượng sĩ hành trạng” (của Trần Nhân Tông) và “Tuệ Trung
Thượng sĩ” (của Nguyễn Lang) xem ông có dám khẳng định Nguyễn Lang “đạo văn”
Trần Nhân Tông hay không. Và nếu không thì Nguyễn Hòa sẽ phải công khai xin lỗi
khi ông chót viết liều GS Nguyễn Huệ Chi “đạo văn” hay “phóng tác” công trình
của Trần Nhân Tông bằng hình ảnh không mấy lịch sự “Đại ngôn hoán cốt Thích
Thiền sư”:
Thượng Sĩ hành trạng
(Trần Nhân Tông)
Ngày kia, Thái hậu làm tiệc lớn đãi người. Người dự
tiệc, gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ, hỏi rằng: “Anh tu Thiền mà
ăn thịt thì thành Phật sao được?”. Thượng sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là
anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Cô chẳng nghe các
bậc cổ đức nói ‘Văn Thù là Văn thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?”.
Khi Thái hậu qua đời, vua Dụ Lăng thết cơm chay các vị sư ở
cung cấm. Nhân khi vào tiệc lần lượt mời các bậc danh tăng bốn phương mỗi
người làm một bài kệ ngắn để bày tỏ kiến giải của mình. Nhưng kết quả bài nào
cũng “ngầu bùn sũng nước”, chưa tỏ ngộ được. Dụ Lăng bèn đem giấy đến cho
Thượng sĩ. Thượng sĩ bèn viết một hơi bài tụng tự thuật như sau:
Kiến giải bày kiến giải,
Như dụi mắt
làm quái.
Dụi mắt làm
quái rồi.
Sáng sủa
thường tự tại.
Vua Dụ Lăng đọc xong liền viết tiếp:
Sáng sủa thường tự tại,
Cũng dụi mắt
làm quái.
Thấy quái
không thấy quái,
Quái kia liền
tự hoại.
Thượng sĩ rất tâm phục bài kệ ấy.
Khi vua Dụ Lăng ốm, Thượng sĩ viết thư hỏi thăm. Vua mở ra
xem, bài kệ trả lời của vua Dụ Lăng như sau:
Oi nồng hầm hập mồ hôi mướt,
Quần mẹ sinh
ta thấm được đâu.
Thượng sĩ đọc bài kệ, than thở giây lâu. Đến khi vua Dụ Lăng
trở bệnh nặng, Thượng sĩ tất tả tới cửa khuyết thì nhà vua đã quy tiên rồi.
Nay ta cũng nguyện đội ơn dạy dỗ của Thượng sĩ. Trước đây, khi
ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó có đi thỉnh
Thượng sĩ. Người trao cho hai bộ ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên. Ta cho
rằng quá tầm thường, sinh ngờ vực, bèn làm ra vẻ ngây thơ hỏi Thượng sĩ rằng:
“Chúng sinh quen cái nghiệp uống rượu và ăn thịt, thì làm sao tránh được tội
báo?”. Thượng sĩ liền giảng giải rằng: “Giá thử có một người đứng quay lưng
lại, thình lình có nhà vua đi qua phía sau, người kia không biết, hoặc có ném
vật gì vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như thế thì
biết rằng hai việc không liên quan gì đến nhau vậy”. Nói rồi Thượng sĩ đọc
hai bài kệ:
Mọi pháp đều biến diệt,
Tâm ngờ tội liền
sinh.
Xưa nay không
một vật,
Mầm mống hỏi
đâu thành.
Ngày ngày khi đối cảnh.
Cảnh cảnh từ
tâm ra.
Cảnh tâm không
có thật.
Chốn chốn ba
la mật.
Ta lĩnh ý, giây lâu bèn nói: “Tuy là như thế, nhưng tội phúc
đã rõ ràng thì làm thế nào?”.
Thượng sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:
Ăn thịt và ăn cỏ,
Tùy theo từng
loài đó.
Xuân về cây cỏ
sinh,
Họa phúc nào
đâu có.
Ta nói: “Nếu vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút
xao lãng là để làm gì?”.
Thượng sĩ cười mà không đáp. Ta cố nài. Thượng sĩ lại đọc tiếp
hai bài kệ để ấn chứng cho ta:
Trì giới và nhẫn nhục,
Chuốc tội
chẳng chuốc phúc.
Muốn biết
không tội phúc,
Đừng trì giới
nhẫn nhục.
Như khi người leo cây,
Đang yên tự
tìm nguy.
Không trèo lên
cây nữa,
Trăng gió làm
được gì.
Đoạn người dặn kín ta: “Chớ có bảo cho người không đáng bảo”.
Vì vậy ta biết môn phong của Thượng sĩ thật là siêu việt.
Một ngày kia, ta hỏi người về cái gốc của tôn chỉ Thiền.
Thượng sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy quay nhìn lại cái gốc của mình chứ không
tìm đâu khác được”. Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo, thờ làm
thầy.
(Đỗ Văn Hỷ - Nguyễn Huệ Chi dịch, Thơ văn Lý – Trần, Tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội,
H., 1989)
|
Tuệ Trung Thượng sĩ
(Nguyễn
Lang)
Hồi em gái Tuệ Trung Hoàng hậu Thiên Cảm còn sống, một hôm ông
được bà mời vào cung ăn tiệc. Trên bàn có những món mặn và món chay, ông đã
gắp thức ăn một cách không phân biệt. Hoàng hậu hỏi: "Anh tu thiền mà ăn
thịt cá thì làm sao mà thành Phật được?". Ông cười đáp: "Phật là
Phật, anh là anh; anh không cần thành Phật. Phật không cần thành anh. Em
chẳng nghe cổ đức nói ‘Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó
sao?". Vua Nhân Tông hồi đó cũng có mặt trong bữa tiệc, và vua không
quên câu chuyện này, định một ngày kia sẽ hỏi Tuệ Trung cho ra lẽ. Năm vua 29
tuổi, mẹ mất. Vua Thánh Tông đang bối rối về cái chết của Hoàng hậu lại còn
bận tâm đối phó với một cuộc xâm lăng của quân Nguyên do Áo Lỗ Xích Ô Mã Nhi
và Phàn Tiếp chỉ huy, mới sai Nhân Tông đi đón Tuệ Trung, trước khi lên đường
về cung, Tuệ Trung trao cho Nhân Tông, lúc ấy đã lên ngôi gần 9 năm, hai bộ
ngữ lục Tuyết Ðậu và Dã Hiên, để đem về cung học tập những lúc rỗi rảnh. Vua
nhớ lại chuyện ăn thịt cá và tính cách "hòa lẫn thế tục" của Tuệ
Trung, liền làm bộ ngây thơ hỏi một cách gián tiếp:
"Bạch thượng sĩ, chúng sinh quen cái nghiệp ăn thịt uống
rựu thì làm thế nào mà thoát khỏi tội báo?".
Tuệ Trung đã trả lời như sau về vấn đề tội báo:
"Nếu có người đang đứng xây lưng lại, thình lình vua đi
qua sau lưng, người ấy không biết, cầm một vật gì ném nhằm vua. Thử hỏi:
người ấy có sợ không, ông vua có giận không? Nên biết hai việc ấy không dính
líu gì với nhau vậy". Rồi ông đọc hai bài kệ sau đây cho vua nghe:
Vạn pháp vô thường cả
Tâm ngờ tội
liền sinh
Xưa nay không
một vật:
Chẳng hạt,
chẳng mầm xanh.
Hàng ngày, khi đối cảnh
Cảnh đều do
tâm sinh
Tâm, cảnh đều
không tịch
Khắp chốn tự
viên thành[4].
Nhân Tông thưa với Tuệ Trung rằng ông đã hiểu lời dạy về tội
phúc. Nhưng Tuệ Trung biết là Nhân Tông còn thắc mắc. Ông đọc tiếp bài kệ sau
đây:
Có loài thì ăn cỏ
Có loài thì ăn
thịt
Xuân về thảo
mộc sinh
Tìm đâu thấy
tội phúc?(60)
Nhân Tông liền hỏi câu hỏi ông đã dành sẵn trong tâm tư lâu
nay: "Như vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để
làm gì?". Tuệ Trung cười không đáp. Vua cố nài. Tuệ Trung đọc hai bài kệ
sau đây:
Trì giới và nhẫn nhục
Thêm tội chẳng
được phúc
Muốn siêu việt
tội phúc
Ðừng trì giới,
nhẫn nhục.
Như người khi leo cây
Ðương yên tự
chuốc nguy
Nếu đừng leo
cây nữa
Trăng gió làm
được gì?[5]
Và dặn kỹ Nhân Tông "đừng bảo cho người không ra gì
biết". Ta nên nhớ rằng lúc bấy giờ Tuệ Trung đã 57 tuổi, và tư tưởng
thiền của ông đã đến giai đoạn chín chắn siêu việt. Ông mất năm 62 tuổi, vào
năm 1291.Vua Nhân Tông một hôm hỏi về tông chỉ thiền phái của Tuệ Trung. Ý
của Nhân Tông là muốn tìm hiểu bí quyết giác ngộ mà Tuệ Trung đã được thiền
sư Tiêu Diêu trao truyền, Tuệ Trung nói:
"Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể
đạt được từ ai khác".
(Nguyễn Lang, Việt Nam
Phật giáo sử luận, phần “Tuệ Trung Thượng sĩ”, NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1973;
langmai.org, chương 11 http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/thien-tap/viet-nam-phat-giao-su-luan/chuong-11-tue-trung-thuong-si)
|
Xin
hỏi ông Nguyễn Hòa nghĩ gì khi học giả Nguyễn Lang cũng tóm lược câu chuyện về
Tuệ Trung từ một gốc “Thượng sĩ hành trạng” của Trần Nhân Tông hệt như học giả
Nguyễn Huệ Chi chứ đâu có gì khác? Hay là người này đã tóm lược rồi thì người
kia mà “tóm” nữa ắt bị coi là... “đạo văn”? Tóm lược ý chính của một áng văn cổ
để tránh phải dịch toàn bộ mọi chi tíết không cần thiết, xưa nay là chuyện rất
bình thường, thế mà chính mình không hiểu, còn đưa ra những câu “tưng tửng” mà
ẩn phía sau là cả một dụng ý “định hướng dư luận” cho người bị chỉ trích hết
đường chối cãi, phải chăng đấy là “mực thước” của người cầm bút phê bình?
Vấn
đề Tuệ Trung Thượng sĩ, trước đây đã làm không ít nhà nghiên cứu lịch sử và văn
học băn khoăn về nhân thân của ông, trong đó có GS Nguyễn Huệ Chi. Tuy nhiên,
do uy tín Bùi Huy Bích quá lớn, nên mấy trăm năm qua các thế hệ nhà nho vẫn mặc
nhiên thừa nhận sự sai lầm này. Có thể nói, ở miền Bắc Nguyễn Huệ Chi là người
đầu tiên nêu nghi vấn Tuệ Trung Thượng sĩ không phải là Trần Quốc Tảng kể từ
năm 1973 trong bộ sách Thơ văn Lý – Trần
ở mục “Khảo luận văn bản” trang 113, 114, 115 do NXB Khoa học xã hội ấn hành
năm 1977 với hai dẫn chứng lấy trong Thượng
sĩ ngữ lục và “Lời bàn của sử thần Ngô Sĩ Liên” trong phần chép về vua Trần
Anh Tông của Đại Việt sử ký toàn thư.
Hai phát hiện này cũng trùng với các tư liệu của Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận, nhưng như
thế không có nghĩa là người viết “bắt chước Nguyễn Lang”, bởi vào thời kỳ ấy,
đất nước chiến tranh, hai miền Bắc - Nam chia cắt, mọi thông tin đều bị phong
tỏa, huống chi một cuốn sách Phật giáo ra đời từ NXB của “chế độ Sài Gòn thù
địch”, tác giả, vốn là Thích Nhất Hạnh nằm trong sổ đen “biệt kích thực dân mới”(1) của ngành an ninh văn hóa thuở ấy, làm
sao có thể lọt được vào thủ đô Hà Nội với tinh thần cảnh giác cách mạng cao?
Tuy
nhiên, Nguyễn Huệ Chi còn đi xa hơn sau khi đọc Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ XIII, xuất bản
từ năm 1968 của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm. Tác phẩm này đã gợi ý cho ông tìm
đọc Nguyên sử qua bộ An Nam chí lược của Lê Trắc. Và chính
đoạn văn ghi trong “Nguyên sử, Q. 96,
Liệt truyện, Ngoại di, An Nam” đã bổ sung điều kiện “đủ” với hai điều điện
“cần” ở trên để GS khẳng định chắc chắn Tuệ Trung Thượng sĩ là Trần Tung (khác
với Nguyễn Lang khẳng định là Trần Quốc Tung). Để cho công bằng, tốt nhất là
ông Nguyễn Hòa nên đọc lại Việt Nam Phật giáo
sử luận xem Nguyễn Lang có sự phát hiện này không? Trên tinh thần tương
kính, trong công trình của mình, Nguyễn Huệ Chi đã viết về Nguyễn Lang với thái
độ trân trọng: “Sau ngày đất nước thống nhất, chúng tôi được biết, một nhà
nghiên cứu Thiền học nổi tiếng hiện ở Pháp là Nguyễn Lang (Thiền sư Thích Nhất
Hạnh), cũng từng có những phát hiện thấu đáo trong bộ Việt Nam Phật giáo sử luận Tập I năm 1973”. Là nhà nghiên cứu lịch
sử phật giáo, đồng thời cũng là một Thiền sư, chắc chắn, ngay sau khi Thơ văn Lý – Trần của NXB Khoa học xã
hội ra đời năm 1977, Nguyễn Lang đã tìm đọc, nên mới “gửi từ Pháp qua đường
ngoại giao”(2) về tặng Nguyễn Huệ Chi
bộ sách Việt Nam Phật giáo sử luận
hai tập của mình, hơn thế nữa, còn trân trọng gọi tác giả là “giáo sư”, cho dù
mãi đến năm 1991 Nguyễn Huệ Chi mới được phong học hàm này. Thử nghĩ, một nhà
nghiên cứu bị chiếm đoạt công trình khoa học, liệu có ai lại đem tặng sách cho
đối thủ của mình với lời lẽ khiêm nhường như Nguyễn Lang? Và đáp lại, chính
Nguyễn Huệ Chi cũng là người đầu tiên chủ động tìm cách vượt qua mọi khó khăn
chắc chắn là không nhỏ thuở bấy giờ để in lại 3 tập Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang ở trong nước vào hai năm
1992 và 1994 với một bài giới thiệu công phu ở đầu sách mà ông Nguyễn Hòa chỉ
đọc được bản tái bản lần thứ mấy của NXB Văn học vào năm 2008 đó thôi(3). Lại thử nghĩ, nếu một người đã đạo văn
của người kia thì còn cố sức xóa bỏ dư luận không đúng về Thích Nhất Hạnh bằng
cách in bằng được cuốn sách mà mình “đạo” ra cho công chúng đọc làm gì để thêm
xấu mặt mình? Trước thực tế “nói có sách mách có chứng” như vậy, ông Nguyễn Hòa
không thấy ông đã rơi vào tình thế “lưỡng đao luận” hay sao?
Để
có thêm bằng cớ xác thực, chúng tôi cho đăng tải dưới đây tờ bìa hai cuốn sách
Nguyễn Lang tặng Nguyễn Huệ Chi kèm theo bút tích tác giả để bạn đọc tham khảo(4):
Viết
đến đây, chúng tôi biết, ông Nguyễn Hòa có thể sẽ đặt dấu hỏi nghi ngờ: bản
thảo Thơ văn Lý – Trần hoàn thành vào
cuối năm 1973, đưa vào nhà in năm 1974 nhưng mãi đến năm 1977 mới ra mắt bạn
đọc, vậy trong khoảng thời gian ba năm ấy, ai dám chắc nhóm biên soạn không sửa
chữa, bổ sung tư liệu? Để trả lời câu hỏi này, xin mời ông Nguyễn Hòa đọc đoạn
văn dưới đây của GS Nguyễn Huệ Chi trong bài “Những năm tháng với Phong Lê” đăng trên trang web talawas ngày 14
tháng 6 năm 2008:
“Chính
ra, sách (Thơ văn Lý – Trần, Tập I,
ĐVS nhấn mạnh) xong từ đầu năm 1974, hai GS Đặng Thai Mai và Cao Xuân Huy duyệt
trong nửa năm, đưa sang Nhà xuất bản Khoa học xã hội, họ chuyển cho Viện Sử học
đọc lại trong 3 tháng. Tháng 12-1974 viết Lời
tựa và đưa đi nhà in. Nhưng nhà in của chúng ta đã nấu sạch các khuôn chì
chữ Hán, lớp thợ in biết sắp chữ Hán cũng đã nghỉ hưu, lẽ thường đành phải in
bộ sách không có chữ Hán đi kèm. Tôi làm sao mà chịu được khi sách do tôi Chủ
biên có phần đối chiếu và khảo đính công phu tất cả mọi sai dị từ các văn bản
gốc; có phần chú giải ghi chép đầy đủ chữ Hán mọi câu văn kinh điển Nho Phật
Lão mà thơ văn Lý – Trần đã chịu ảnh
hưởng; có tên đất, tên người, tên tác phẩm có chữ Hán đi kèm; lại có đến 6, 7
bảng sách dẫn (index) để bạn đọc có thể tra cứu bất kỳ một thuật ngữ, điển cố,
tên đất, tên nhân vật, tên tác phẩm ở bất kỳ trang nào. Đó là cách làm của các
học giả Trường Viễn đông bác cổ Pháp mà tôi học được. Tôi quyết tìm ra giải
pháp. Tôi nài các bạn Băng Thanh, Tú Châu và Đỗ Văn Hỷ chịu khó cùng tôi chép
bằng hết khối lượng chữ Hán trong sách ra giấy, ước chừng ba trăm trang (thuở
bấy giờ đã có máy photocopy đâu), rồi xin giấy giới thiệu của Viện sang tòa báo
Tân Việt Hoa (Trung Quốc, đóng tại Hà
Nội) xin chữ. Họ vui lòng giúp đỡ, duy chỉ có kiểu chữ giản thể thì tôi đành
phải chịu thua. Đến ngày hẹn, tôi lếch thếch chở một xe xích-lô từ báo Tân Việt Hoa đem đến thẳng nhà in Thống
nhất ở gần Bờ Hồ. Và luôn trong 3 năm trời, cả tôi, Băng Thanh, Tú Châu (anh Hỷ
tuổi cao được miễn) hàng ngày đến nhà in nằm bò ra giữa sàn, xếp chữ Hán xen
vào khuôn chữ Việt. Thợ nhà in cứ tủm tỉm cười thầm, cho chúng tôi là những
người làm sách kỳ quặc nhất trước giờ chưa thấy. Sách in bị chậm lại đến 3 năm
chính là vì thế. Chỉ đến khi sách ra mắt cả Viện mới biết lý do vì sao sách chậm
trễ, còn Ủy ban Khoa học xã hội thì cắt khen thưởng của tôi trong liền 3 năm”(5).
Xin lưu
ý rằng ở đoạn trích trên, tác giả có nói rõ việc mình nảy sáng kiến đến mượn
chữ của tòa báo Tân Việt Hoa và mượn
được lối chữ giản thể, để in Thơ văn Lý –
Trần Tập I, được tiến hành ngay khi sách vừa đưa tới nhà in (1974); thì nay
lần giở lại ta thấy, ở mục khảo sát về Thượng
sĩ ngữ lục gồm 3 trang trong phần “Khảo luận” đầu cuốn sách – là những dẫn
giải cơ bản đưa đến gợi ý Tuệ Trung Thượng sĩ chính là Trần Tung chứ không phải
Trần Quốc Tảng (cũng không phải là Trần Quốc Tung như Nguyễn Lang) – đã có đầy
đủ chữ Hán giản thể in kèm vào những tên riêng như Thượng sĩ ngữ lục上士语彔, Tuệ Trung Thượng sĩ 慧忠上士, Tuệ Nguyên 慧源, Long Động龙峒, Yên Tử 安子, Thanh Cừ 清渠, Tĩnh Bang cảnh vật净邦景物, Đề dã thự 题野墅, Trần Quốc Tảng 陈国颡, Trần Liễu 陈柳, và cũng có cả chữ Hán giản thể bên cạnh cái
tên Trần Tung 陈嵩,... Thưa ông Nguyễn
Hòa, nếu còn nghi ngờ mời ông cứ đọc vào các trang 113, 114, 115 của Tập I bộ sách nổi tiếng này thì rõ.
I.2. - Huy
động “mắm, muối , gia vị” hay là làm rõ nhân thân Tuệ Trung Thượng sĩ?
Điểm cần làm sáng tỏ tiếp theo chính là vấn đề
mà Nguyễn Hòa gọi là “thủ pháp huy động mắm, muối, gia vị thêm thắt cho dài
dòng, màu mè”. Từ cách suy diễn và lập luận theo kiểu nói lấy được, bất chấp
các chứng cứ lịch sử nằm trong nguồn thư tịch cổ, chúng tôi có quyền nghi
ngờ nhà phê bình Nguyễn Hòa hình như rất mù mờ về chữ Hán. Hơn nữa, ông cũng
không hiểu hoặc cố tình không hiểu, đối tượng nghiên cứu của Nguyễn Lang và
Nguyễn Huệ Chi thuộc hai lĩnh vực khác nhau. Một đằng là khảo luận về lịch sử
Phật giáo Việt Nam, một đằng là khảo cứu một tác gia văn học Việt Nam thời Lý – Trần. Đối tượng nghiên cứu khác nhau,
mục đích khác nhau, ắt hẳn phải dùng phương pháp phân tích khác nhau chứ. Chính
vì thế mà công trình của Nguyễn Lang viết về Tuệ Trung Thượng sĩ rất khái quát,
với những tiểu mục ngắn gọn, trong khi ấy, Nguyễn Huệ Chi lại viết rất cụ thể,
chi tiết từng luận điểm, thậm chí từng câu chữ, kể cả so sánh dị bản, kèm theo
phần chú giải rõ ràng bằng phong cách văn chương hàn lâm nhưng lại giàu hình
ảnh và truyền cảm, để chỉ ra được nét
phong phú độc đáo trong tư tưởng và cả trong cá tính sáng tạo của nhà thơ
Thiền Trần Tung có một thời Trần. Ông cứ chịu khó cầu thị đọc kỹ lại mà xem, đó
có phải là “thêm mắm thêm muối” không thưa ông?
Hơn
thế nữa, việc phân tích, dẫn chứng từ ba nguồn tư liệu chữ Hán của GS Nguyễn
Huệ Chi lại rất cần thiết cho bạn đọc, chẳng những với học sinh, sinh viên, mà
cũng hữu ích ngay cả với các nhà nghiên cứu văn học cổ, trung đại, bởi phần lớn
trong số này đều ít am hiểu Hán học. Chính GS Nguyễn Huệ Chi, qua những luận
điểm dẫn dắt sắc bén của mình, đã xóa bỏ được sự nhầm lẫn như một sự mặc định
từ mấy trăm năm nay về “diện mục” Tuệ Trung Thượng sĩ.
Với 3
trang phân tích văn bản cuốn Tuệ Trung
thượng sĩ ngữ lục trong Thơ văn Lý –
Trần Tập I, như đã nói, có thể xem như bước đầu ông đã đề xuất một cách
chừng mực Tuệ Trung Thượng sĩ là Trần Tung chứ không phải Trần Quốc Tung.
Chính nó là tiền đề mang tính khái quát,
gợi mở cho công trình nghiên cứu hoàn chỉnh của tác giả sau này khi ông tìm
được bằng chứng thứ ba trong An Nam chí lược
của Lê Trắc về nhân thân Tuệ Trung Thượng sĩ. Nguyên văn như sau: “Trong An Nam chí lược, Q.IV, Chinh thảo vận
hướng, nói về cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba của giặc Nguyên – Mông có chỗ chép rằng: Tháng Hai (năm
Mậu Tý, 1288), Thế tử (nước An Nam) phái người anh con bác ruột là Hưng Ninh
vương Trần Tung nhiều lần tới ước hẹn việc đầu hàng, cốt làm cho quân ta mệt
mỏi, rồi ban đêm cho quân cảm tử xông đến cướp doanh trại”(6). Như vậy, ở tư cách một người làm khoa
học, không phải tác giả Huệ Chi “huy động mắm, muối, gia vị” mà chính là bổ
sung tư liệu, mở rộng nội hàm, tìm kiếm và cân nhắc chứng cứ, cuối cùng quy nạp
sự kiện, kết luận vấn đề một cách khách quan, trung thực, đem đến cho người đọc
một nhận thức mới, xóa bỏ nghi án lịch sử bị người đời lầm lẫn một cách hệ
thống từ mấy thế kỷ qua. Nhận định về công trình nghiên cứu của GS Nguyễn Huệ
Chi, nhà văn Hoàng Quốc Hải đã viết một bài khá công phu trên báo Người Hà Nội số 42, ra ngày 18 tháng 10
năm 2013, nhan đề “Nguyễn Huệ Chi với cả
ngàn năm văn chương cổ-cận đại”, trong đó có những đoạn phân tích lý thú:
“Công việc tháo gỡ của Giáo sư Huệ Chi xem ra rất có lớp lang. Nếu không sẽ
không thuyết phục nổi giới khoa học. Bởi suốt hai thế kỷ, biết bao công trình
nghiên cứu đã gắn chặt cái tên Trần Quốc Tảng-Tuệ Trung Thượng sĩ là chủ sở hữu
của Phóng cuồng ca, của Thượng sĩ ngữ lục v.v… mà Bùi Huy Bích
đã ám thị khiến ít người dám nghĩ đến việc xem xét lại”. Ở đoạn khác ông viết
tiếp: “Tới đây có thể nói GS Nguyễn Huệ Chi đã giải mã hoàn toàn sự rắc rối văn
chương và lịch sử, và hoàn trả sự thật cho sự thật. Nghĩa là có một bậc chân tu
là Trần Tung có pháp danh Tuệ Trung Thượng sĩ do Trần Thánh Tông phong tặng,
đồng thời ngài có nhiều trước tác lưu danh hậu thế…”.
Với những dẫn chứng và
đối chiếu tuần tự của chúng tôi, trên cơ sở cứ liệu cũ mới còn lưu giữ trong
sách báo, cùng những nhận xét, đánh giá nghiêm chỉnh của một số nhà văn, nhà
khoa học như GS Vũ Khiêu, TS Đặng Thị Hảo, nhà văn Hoàng Quốc Hải, nhà nghiên
cứu Đỗ Quý Toàn(7)...,
thiết nghĩ, nhà phê bình Nguyễn Hòa nên bình
tĩnh đọc hết Văn học Cổ cận đại Việt Nam
– Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật. Có thể, sau khi đọc và nghiền
ngẫm trên tình thần của một
người cầm bút vì chân lý, cùng với thời gian, hy vọng ông sẽ có một cách nhìn
khác, công bằng hơn, bao dung, và độ lượng hơn so với cách đọc chộp vội từng
đoạn từng khúc (đoạn chương thủ nghĩa), với những ngôn từ “ném đá” trước đây
của ông.
(Còn tiếp)
Chí Linh 21 tháng 10 năm 2013
Đ.V.S.
Chú thích:
(1)
Nguyễn Huy Khánh: “Cùng nói về một cuộc “cách mạng xã hội”, nhưng lập luận của
các nhóm Lập trường, Sống đạo, Hành Trình, Thái độ, Ấn quang, v.v. đều khác
nhau. Nhóm thì đòi “cách mạng xã hội không cộng sản”, nhóm khác lại yêu cầu Mỹ
“làm lá chắn chống cộng sản” để họ làm “cách mạng xã hội”, v.v. Những nhóm nói
trên đều thuộc các phe phái khác nhau, đại điện cho các tập đoàn, các giai cấp
khâc nhau. Nhóm thì đại diện cho một tầng lớp nào đó của giai cấp tư sản, nhóm
khác thì chỉ là những tên tay chân của những tập đoàn ngụy quân ngụy quyền nào
đó mượn chiêu bài “cách mạng xã hội” để chống cộng, chống cách mạng, đồng thời kèn
cựa với Thiệu, vòi vĩnh với Mỹ. Cho nên, lập luận của Nhất Hạnh trong Nẻo về của ý, Đạo Phật hiện đại hóa rõ ràng không giống của Lý Chánh Trung trong Ba năm xáo trộn, của Thế Uyên trong Nghĩ trong một xã hội tan rã, v.v.” (“Mấy suy nghĩ về vấn đề nghiên cứu văn học
thực dân mới ở miền Nam”, Tạp chí văn
học, số 4 - 1977; tr.26); Thạch Phương: “Nếu từ 1963 trở về trước, tiếng
nói đả kích ồn ào, lì lợm với những trò vu khống, mạ lị thô bỉ kiểu hàng tôm
hàng cá là âm điệu chủ yếu của văn học chống cộng, thì từ 1964 về sau, biểu
hiện của nó tinh vi hơn, mềm dẻo hơn và cũng đa dạng hơn. Nhưng đồng thời sự
xảo quyệt ranh ma cũng tăng lên gập bội. Những điệp khúc quá nhàm tai như “cộng
sản độc tài khát máu, phi nhân cuồng tín”, “cộng sản bán nước phản dân tộc” cũng
như thứ văn chương “liều lĩnh đấm ăn xôi” [...] tuy không phải đã hết, nhưng nó
đã lùi xuống vị trí thứ yếu, nhường bước cho những trò “đối thoại” nhuốm màu
“huynh đệ”, cho những lời khuyên can lập lờ hai mặt của những người tự khoác áo
“trọng tài thánh thiện”, “không theo quốc gia mà cũng không theo giải phóng,
hay cái giọng điệu “chiêu hồi” tỉ tê, rỉ
rả vừa ngọt ngào vừa gian manh quỷ quyệt: “Con
rắn hổ mang uống xong giọt sương khuya trên đầu ngọn cỏ, bỗng cảm thấy tiêu tan
nọc độc trên lưỡi mình / Và những mũi tên tẩm thuốc độc của loài ma nở thành
hoa khi bay đến” (Nhất Hạnh: Chắp tay
nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện. Lá Bối xb, 1966)” (Khuynh hướng chống cộng, mũi xung kích của văn học thực dân mới, Tạp chí văn học, số 4 - 1977; tr.15);
Trần Trọng Đăng Đàn: “Một trong những vấn đề liên quan đến giới văn hóa văn
nghệ thực dân mới tại miền Nam trước đây là sự phục hồi, tân trang các thứ
triết học vốn có từ lâu ở bản xứ như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Nho giáo... và
du nhập vào, phát triển thêm các thứ triết học đang thịnh hành ở phương Tây,
chủ yếu là học thuyết Phờ-rớt và triết học
hiện sinh. [...] Và phải nói là dưới nhiều sự biến dạng, đôi khi trở nên
kỳ quái, triết học các loại đã thông qua các hoạt động văn hóa, các sáng tác
văn nghệ để phục vụ cho chính trị phản phản động của Mỹ-ngụy rất đắc lực. Nếu
như dưới ảnh hưởng của học thuyết
Phờ-rớt, với các biến dạng của nó [...] thì những người lợi dụng triết lý của
Phật giáo với nhiểu biến dạng của nó, lại thông qua một số văn nghệ sĩ miền Nam
để mưu toan cản bước cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của nhân dân bằng những lời
lẽ, những hành động giả đạo đức, giả nghĩa nhân như kiểu Thích Nhất Hạnh với Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện
(Nhà xuất bản Lá Bối, S., 1965) hay khuyên người ta lẩn tránh đấu tranh bằng
cách làm ngơ trước họa mất nước, ca tụng cuộc sống “thanh thoát” của các Thiền
sư thoát tục, coi cuộc sống xã hội chỉ như là một cảnh tượng xô bồ, cần xa lánh
để trở về với “thiên nhiên u tịch”...” (Văn
hóa văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam 1954 - 1975,
NXB Thông tin & NXB Long An, 1990; tr.147-146], v.v.
(2)
(4) (5) Hai
tấm ảnh trên cùng với các đoạn trích, chúng tôi lấy từ bài viết “Những năm tháng với Phong Lê” được đăng
trên talawas ngày 14 tháng 6 năm 2008. Đường dẫn đến bài viết như sau (cần vượt
qua tường lửa): http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=13412&rb=0102
(3) Xem Việt Nam Phật giáo sử luận, 2 tập, NXB Văn học, Hà Nội, 1992 và 3
tập, NXB Văn học, Hà Nội và TP HCM, 1994. Lời giới thiệu của Nguyễn Huệ Chi.
Hội đồng giám định gồm các GS Vũ Khiêu, Hà Văn Tấn, Nguyễn Huệ Chi và Hòa
thượng Thích Thanh Tứ.
(6) Nguyên văn:
二 月世子遣從兄興寧王陳嵩屢來約降。故老我師。夜乃遣其感死者劫諸營 (Nhị nguyệt,
Thế tử khiển tòng huynh Hưng Ninh vương Trần Tung lũ lai ước hàng, cố lão ngã
sư, dạ nãi khiển kỳ cảm tử giả kiếp chư doanh)
(7)
“Nguyễn Huệ Chi – Từ góc nhìn văn hóa đến
các mã nghệ thuật trong văn học Cổ cận đại Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 251, 25-8-2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét