Nhân vụ luận văn của Nhã Thuyên, thử bàn một chút về sự tương tác
giữa chính trị và khoa học
Nguyễn Thế Duyên
Điều trước tiên phải nói ngay là tôi không thích
mà thậm chí còn rất dị ứng với thơ của nhóm mở miệng. Với tôi đấy không
phải là thơ và nó không đáng để cho ta phải phí thời gian và công sức để đọc
nó.
Nhưng!
Cho dù là không
thích, tôi vẫn cứ phải thừa nhận rằng : “Nhóm mở miệng đã tồn tại, đang tồn tại
và sẽ còn tồn tại cho đến khi nào những nguyên nhân tạo ra nó mất đi, bất chấp
sự phản ứng gay gắt của một bộ phận khá đông đảo người đọc. Thậm chí bất chấp
cả sự truy bức của chính quyền” Và còn một điều này nữa : Số người theo phong
cách của nhóm mở miệng đang gia tăng từng ngày.
Tại sao vậy? Câu hỏi
này dành cho những nhà khoa học về xã hội và nhân văn và có một người có lẽ đã
trả lời được một phần của câu hỏi này . Đó chính là Nhã Thuyên. Tại sao tôi lại
nói là có lẽ ? Vì rằng mặc dù tôi đã rất cố gắng nhưng tôi vẫn không sao có
được bản luận văn về nhóm “Mở miệng” khi tra nó trên google. Tôi chỉ biết nội
dung của nó qua nhưng bài viết phê phán
cũng như bảo vệ luận văn này.
Cũng cần phải nói ngay rằng : “ Bản luận văn này không phải
là một tác phẩm văn học. Nó là một công trình nghiên cứu khoa học”.
Nhiệm vụ của khoa học là gì? Nhiệm vụ của khoa học là nghiên cứu các quy luật vận động của vật chất
(Đối với khoa học tự nhiên) và quy luật vận động của xã hội( Đối với khoa học
xã hội và nhân văn) . Những quy luật vận động này là một tồn tại khách quan nằm
ngoài ý chí của con người. Nó đã nằm ngoài ý chí của con người thì làm sao có
cái khoa học “Nằm trong chính trị” như
một số ngài Giáo sư đã lớn tiếng dạy dỗ trong các bài phê phán luận văn
này được? Đọc những lời của các vị tiến sỹ ấy tôi lại nhớ đến phiên tòa xử án
của giáo hội thời trung cổ khi buộc Ga li lê phải thừa nhận mặt trời quay quanh
trái đất . Một phiên tòa điển hình cho cái gọi là “Khoa học nằm trong chính
trị”.
Cần phải khẳng định ngay là “Khoa học nằm ngoài chính
trị” vì chỉ khi đó nó mới nghiên cứu
được “ Những quy luật vận động khách quan” còn khi phải nằm trong chính
trị thì khi đó sự vận động ấy trở thành
sự vận động theo “Chủ quan của chính trị” và những nghiên cứu ấy chỉ dẫn đến
một tất yếu sai lầm và nếu sử dụng những kết quả nghiên cứu ấy vào trong chính
sách của nhà nước thì quả thật là một thảm họa.
Ôi xin lấy hai ví dụ minh họa cho điều này. Một ở nước ngoài
và một ở trong nước ta.
Ví dụ 1- ở Liên xô
trước kia trong lúc cả thế giới thừa nhận thuyết di truyền của Men Đen
trong sinh học thì nước Nga Xô viết lại
chỉ công nhận học thuyết của một ông thợ làm vườn Mit su rin và kết quả là , tại thời điểm đó, dù trong
các lĩnh vực khác có những lĩnh vực Liên
xô vượt xa các nước châu Âu và Mĩ (Thí dụ thám hiểm vũ trụ) nhưng về sinh học
và nông nghiệp Liên xô chậm sau các nước phương tây vài chục năm. Và rồi cuối
cùng “Sự vận động khách quan” đã chiến thắng “Ý chí chính trị” Liên xô đã công nhận học thuyết của Men đen
và bộ trưởng nông nghiệp Lư sen cô mất
chức
Ví dụ 2- Ở Việt Nam
Đó chính là khoán 10.
Khi Kim Ngọc đưa ra mô hình khoán ruộng đất đến người lao động ông đã bị
tổng bí thư Trường chinh, một nhà lý luận gạo cội của Đảng, cho lên bờ xuống
ruộng chỉ vì nó trái với “ Quy luật vận động theo chính trị” của chủ
nghĩa Mác Lê nin. Nhưng rồi lại một lần nữa “Quy luật vận động khách quan” đã chiến thắng và chỉ trong một thời gian
ngắn chúng ta đã làm nên được một kì tích Trở thành nước xuất khẩu gạo đứng
hàng thứ hai thế giới.
Từ các ví dụ trên cho ta thấy rằng Nếu khoa “Nằm trong chính
tri”, Nó sẽ làm khoa học bị biến dạng và
sẽ không còn là khoa học nữa mà trở thành điều mà đúng như các ông vẫn hoảng sợ
gào lên khi phê phán cái luận văn này “Giả khoa học”.
Khoa học là một tia sáng trắng.Nó chỉ đi theo đường thẳng
trong một môi trường trong suốt còn nếu như nó phải đi qua một lăng kính thì nó
sẽ bị khúc xạ không còn thẳng nữa. Mà cái lăng kính chính trị lại là một cái
lăng kính đặc biệt. Nó có thể uốn cong tất cả mọi thứ trên đời.
Quay lại với bản luận văn, tôi xin nhắc lại một lần nữa là
tôi không thể tìm được bản luận văn này trên mạng nên không thể phân tích cái
sai, cái đúng một cách chi tiết của bản
luận văn được nhưng thông qua những bài
phê phán bản luận văn thì tôi hiểu vấn đề như sau.
Thứ nhất—Bản luận văn dựa vào một lý thuyết của nước ngoài,
trung tâm và ngoại biên để đưa ra một nhận định.
Mở miệng đại diện cho một bộ phận ngoại biên cất lên tiếng nói phản kháng với những cái xưa cũ, trì trệ, bế tắc , sáo
mòn trong văn học và trong đời sống xã hội.
Nhận định này là đúng hay sai?
Tôi cho là đúng!
Thực ra cái ranh giới của trung tâm và ngoại biên là hơi mơ
hồ. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhà phê bình Trần Đình Sử đã nói nhưng ranh giới này phụ thuộc rất lớn vào “Ý
chí chính trị” Của các nhà lãnh đạo. Vì vậy cái trung tâm có thể biến thành
ngoại biên bất cứ lúc nào. Có lẽ Nhã Thuyên muốn “Tây hóa” bản luận văn của
mình nên cô dùng đến cái lý thuyết này.
Thực ra Việt Nam
ta có một khái niệm rất gần với lý thuyết này nhưng ranh giới của nó lại rất rõ
ràng đó là “Chính thống và phi chính thống”.
Dòng văn học chính thống là dòng văn học được chính quyền
ủng hộ. Tại sao nó được chính quyền ủng hộ? Vì nó ủng hộ chính quyền. Còn dòng
văn học phi chính thống thì ngược lại . Nó phản kháng lại chính quyền hiện tại
và vì vậy nó không được chính quyền ủng hộ.
Hai dòng văn học này luôn luôn tồn tại song hành ở mọi thời
điểm, ở mọi quốc gia chẳng phải chỉ ở Việt Nam mới có. Điều này là rất bình
thường và là một sự tồn tại khách quan vì rằng không có bất cứ một thể chế
chính trị nào có thể làm vừa lòng tất cả mọi bộ phận người dân và cái bộ phận
không vừa lòng ấy luôn luôn cất tiếng nó phản kháng của nó
bằng văn chương. Chỉ có điều
chính quyền có công nhận cái tiếng nói phản kháng ấy hay không mà thôi.
Dòng văn học hiện thực phê phán về bản chất nó chính là vùng
“ Ngoại biên” cất lên tiếng nói phản kháng. Nhưng nó lại được nhà nước bảo hộ
thừa nhận.
Truyện tiếu lâm, truyện trạng quỳnh chẳng phải là tiếng nói phản kháng của người
dân với chế độ đương thời hay sao? Và! Nổi bật hơn hết chính là Hồ Xuân Hương ,một tiếng nói phản kháng mạnh
mẽ nhất và cũng là tiếng nói phản kháng
được chúng ta nghiên cứu nhiều nhất.
Có một câu hỏi đặt ra là: Tại sao những tiếng nói phản kháng
phi chính thống chỉ trích các chế độ ngày xưa thì chúng ta nghiên cứu một cách
rất cẩn thận còn tiếng nói phản kháng chỉ trích chính chúng ta thì chúng ta lại
cố tình lờ đi làm như là nó không tồn tại?
Lẽ ra chúng ta phải làm ngược lại. Những tiếng nói chỉ trích
chúng ta chúng ta phải nghiên cứu thật cẩn thận. Nguyên nhân phát sinh? Đặc
điểm ? Tầng lớp tham gia ? vị trí và sự ảnh hưởng của nó trong nền văn học
đương đại? và cuối cùng là câu hỏi làm
thế nào để dập tắt đi những tiếng nói phản kháng ấy? bởi vì dù có nói ra hay
không thì không một thể chế chính trị nào lại
muốn tiếng nói phản khảng mình được ngày càng đông đảo người dân ủng hộ.
Vì không có toàn bộ bản luận văn của Nhã thuyên trong tay
nên tôi không thể biết bản luận văn có trả lời được tất cả những câu hỏi đó hay
không. Nhưng thông qua các bài phê phán bản luận văn thì tôi thấy bản luận văn
đã ít nhất trả lời được bốn trong năm câu hỏi nêu trên.
1-Nguyên nhân phát sinh—sự trì trệ, cùn mòn của nên văn học
đương đại, sự mất dân chủ trong sinh họat xã hội và cuối cùng là những vấn đề tồn tại trong
việc xuất bản.
2—Đặc điểm –dùng cái dung tục .Sử dụng lối nói lái, nói nhại
làm vũ khí.
3—Tầng lớp tham gia
–Những thanh niên trí thức trẻ.
4—Vị trí của nhóm mở miệng trong nền văn học đương đại –Có
ảnh hưởng không nhỏ trong dòng thơ hậu hiện đại đang thịnh hành.
Tôi không biết Nhã thuyên có trả lời được câu hỏi thứ năm
không. Nếu trả lời được thì bản luận văn được điểm mười là xứng đáng còn nếu
không trả lời được câu hỏi thứ năm thì bản luận văn được điểm mười quả có hơi
“Hào phóng” như một ông “Giáo sư “ Đã nhận xét. Cùng lắm bản luận văn chỉ đáng
được điểm 8.
Người ta trả lời được bốn câu hỏi khá lớn mà các vị còn bảo
“Bản luận văn không có tính khoa học”.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, chúng ta ít nhất đã
có ba lần phong trào phản kháng (Tôi nói phong trào chứ không nói đến những cá
nhân đơn lẻ) cất lên trong văn học. Lần đầu tiên đó chính là phong trào Nhân văn giai phẩm. Chúng ta đã
dập tắt tiếng nói phản kháng này bằng công cụ chuyên chính vô sản nhưng rất
tiếc sau mấy chục năm, tuy không chính thức, ta lại phải thừa nhận nó bằng cách
trao giải thưởng văn học cho chính những tác giả mà ta đã từng chối bỏ. Lần thứ
hai xuất hiện từ sau năm 1975 đến trước thời kì đổi mới. Một phong trào tiếu
lâm chính trị trải rộng suốt từ Bắc chí Nam và kéo dài
suốt hơn một chục năm mà nguyên nhân là sự đói kém đến cùng cực, hậu quả của
một chính sách kinh tế sai lầm. Lần này chúng ta không có cách nào dập tắt
được. Nó chỉ tự biến mất khi nguyên nhân tạo ra nó, sự đói khổ cùng cực, mất đi do chính sách đổi mới của Đảng. Và lần
này là nhóm mở miệng. Có một sự tương đồng giữa nhân văn giai phẩm và nhóm mở
miệng đó là họ đều là những người trí thức ,họ không “Khuyết danh” và cuối cùng
đó là nguyên nhân dẫn đến tiếng nói phản kháng của họ là tương đối giống nhau.
Họ chỉ khác nhau ở một điểm duy nhất đó là vũ khí dùng để phản kháng.
Tôi không bênh vực nhóm mở miệng mà tôi còn dị ứng với cách
viết của họ nhưng tôi bênh vực Nhã thuyên với tư cách là một người nghiên cứu
khoa học vì vậy tôi buộc lòng phải phân tích một chút về cái vũ khí mà nhóm mở
miệng đang dùng.
Chửi! đó là một đặc trưng văn hóa của người việt. Các ngài giáo sư khi phê phán bản luận văn
này có một nhầm lẫn hết sức tai hại . Các vị ấy cho rằng văn hóa phải là những cái đẹp, có tính mà theo ngôn
từ của các vị đó là “Mỹ học” . Sai! Văn hóa
là những đặc điểm riêng mà chỉ có ở một dân tộc, hay một bộ phận cư dân
duy nhất có. Nó chẳng liên quan gì đến cái từ to tát “Mĩ học” mà các vị giáo sư
mang ra làm con ngáo ộp để đe dọa mọi
người. Những phong tục tập quán đó có
thể là không “Mỹ học” nhưng nó gắn liền với lịch sử hình thành hoặc niềm tin
tôn giáo của dân tộc đó.Trong những đặc điểm riêng đó cái nào có thể gắn hai từ
“Mĩ học” Vào thì đó là điều quá tốt còn cái nào không gắn nổi hai từ “Mĩ học”
thì không phải vì thế mà ta bảo nó không phải là “Đặc trưng văn hóa”. Với cách
nhìn nhận như thế thì chửi là một đặc trưng văn hóa của riêng người việt . Nó
chủ yếu là cách phản kháng của người yếu
đối với kẻ mạnh. Độ tục của câu chửi là thước đo của sự phản kháng. Sự uất ức
càng lớn thì câu chửi càng tục. Và khi
chửi thì người Việt thường mang kẻ mạnh ví với những cái ( theo cách nghĩ của
người Việt) nhơ bẩn nhất như (Xin lỗi
mọi người) Lồn, buồi, cứt, đái. Truyện tiếu lâm của chúng ta cũng sử dụng
phương pháp này và đặc biệt Hồ xuân hương đã sử dụng phương pháp này đến cái độ
“Mỹ học”. Nhưng khác với truyện tiếu lâm hay hay Hồ xuân hương , nhóm mở miệng
dùng cách này với một cường độ bạo liệt
nó rất gần gũi với cách chửi thô tục ngoài cuộc đời. Chính vì điều này mà Nhã
thuyên đã đi đến kết luận
“chối bỏ quyết liệt”,
“lên tiếng đòi phá nốt những thành trì kiên cố của sự chuyên chế, khi niềm tin
vào chế độ và sự tự do đang có nguy cơ tan rã” “
Cái kết luận này là rất đúng đắn vì như tôi đã nói đọ tục
của câu chửi là thuốc đo sự uất ức của kẻ yếu đối với kẻ mạnh. Chỉ có điều ông giáo sư đã cố tình lập lờ . Đây là nhóm mở miệng
“Chối bỏ quyết liệt” chứ đâu phải là cô thạc sỹ Nhã Thuyên “ Chối bỏ quyết
liệt” mà lại đòi xét lại bản luận văn?
Vì tư tưởng chính trị?
Vị giáo sư này còn viết
Trong khoa học xã hội và nhân văn, có khi chỉ có thể nghiên
cứu đối tượng trong độ lùi cần thiết của lịch sử, khi sự việc, hiện tượng đã an
bài, xong xuôi, người nghiên cứu đã có đủ tư liệu chính xác để nhìn nhận thỏa
đáng các khía cạnh của vấn đề.
Đây không phải là tư
duy của một nhà khoa học. Đây là tư duy của một kẻ cơ hội trong khoa học.
Một trong những giá
trị cao nhất khiến cho loài người phải bỏ bao tiền của, công sức vào cho khoa
học đó chính là tính tiên đoán và dự báo. Giá trị của khoa học nằm ở chỗ đó. Nó
giúp cho các nhà hoạch định chính sách tránh đuộc những sai lầm. Gúp cho loài
người tránh đuộc những thảm họa có thể hoặc sắp xẩy ra. Kể cả những bộ môn khoa
học chỉ chuyên nghiên cứu về quá khứ như khảo cổ cũng phải có đặc tính này. Hóa ra ngài giáo sư này chỉ
chuyên nghiên cứu nhữn cái đã hai năm rõ mười, ai cũng biết. Vậy xin hỏi cái
nghiên cứu ấy dùng để làm gì? Chẳng làm gì cả! Nó chỉ là những tờ “Giấy vụn” .
Hay các ngài ấy có cổ phần trong nhà xuất bản “Giấy vụn “Của Bùi Chát và Lý
Đợi?
Ở các nước tiên tiến nhà nước thường đặt hàng cho các trường
đại học và các học viện nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến những chính
sách sắp ban hành.Có nghĩa là điều ấy chưa hề xẩy ra đã phải nghiên cứu rồi vì
giá trị tiên đoán và dự báo của khoa học. Còn với vị giáo sư này thì…..
Nói như vị giáo sư này thì ông Mác phải đợi đến bao giờ mới
nghiên cứu nổi lý thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học? Một nền tảng của Đảng ta? Chủ nghĩa này đến
bây giờ con người vẫn chưa đạt đến
Ông ta còn viết2.
Việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu cùng với các dữ kiện
nghiên cứu phải đáng tin cậy và hợp hiến
Với hai từ “Hợp hiến” Không biết ông giáo sư này muốn nói
điều gì? Phải chăng ông muốn nói có những điều không đuộc phép nghiên cứu cho dù nó đang tồn tại? Hay nói
khác đi ông muốn đặt khoa học nằm trong lòng chính trị?
Đúng là tư duy của một kẻ cơ hội. Phải khẳng định rằng không
có bất cứ một giới hạn nào cho nghiên cứu khoa học. Khoa học có thể nghiên cứu
từ những thứ không tưởng nhất như hố đen đến những thứ nhỏ nhặt nhất như con
kiến. Trong khoa học xã hội và nhân văn những chủ nghĩa phản động nhất như chủ
nghĩa phát xít, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hay nhưng lí thuyết cực kì vô
nhân tính như thuyết nhân mãn chúng ta đều phải nghiên cứu đầy đủ nhằn tránh
cho loài người dẫm vào vết xe đổ của quá khứ. Vậy tại sao một tiếng nói phản
kháng đã đang và sẽ tiếp tục phát triển lại không đuộc nghiên cứu?
Nhà nước quản lý khoa học bằng kế hoạch, dựa vào nhu cầu cấp thiết hay chưa cấp thiết
mà cuộc sống đòi hỏi mà định ra cái nghiên cứu nào nên làm trước, cái nghiên
cứu nào nên làm sau để rót ngân sách chứ không thể quản lý khoa học bằng cái
các ông vẫn gọi “Tư tưởng chính trị”
Khoa học nghiên cứu các quy luật vận động khách quan và
chính trị áp dụng những kết quả nhiên cứu ấy vào các chính sách của mính để
những chính sách đề ra đúng với quy luật vì vậy chỉ có “Những đường lối chính
sách của nhà nước được soi rọi dưới ánh sáng của khoa học” Chứ không thể có cái
điều nguộc lại như các ông giáo sư vẫn nghĩ
“Các nghiên cứu khoa
học đuộc chỉ đạo bằng các tư tưởng chính trj”.
“Lãnh đạo” Theo tiếng
hán việt có nghĩa đen là tìm ra,đưa ra vậy thì xin hỏi các ông Chính trị lãnh
đạo khoa học hay khoa học lãnh đạo chính trị?
Những đường lối lãnh đạo phi khoa học chỉ theo ý chí cá nhân
hay ta vẫn gọi khác đi là duy ý chí, chính là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của
hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sao đến tận bây giờ mà mấy ông tiến sỹ vẫn
chưa nhìn ra?
Ngày xưa mấy nhà lý luận các ông xúm vào đánh nhân văn giai
phẩm với chiêu bài phi chính trị , tuy là sai lầm những kể ra thì vẫn còn có
cái để bao biện được vì dù sao văn học vẫn có một thuộc tính đó là tuyên
truyền. Nhưng lần này mấy ông định mang chiêu bài này để đánh khoa học thì lại
là điều không thể chấp nhận. Tôi nói lại một lần nữa : Bản luận văn này không
phải là một tác phẩm văn chương. Nó là một đề tài khoa học. Có thể sai! Có thể đúng về mặt lý luận nhưng
không thể là sai hay đúng theo cái các ông gọi “Tư tưởng chính trị”. Mà một
nghiên cứu khoa học thì sai đúng đó là chuyện bình thường sao có thể cách chức
, cắt hợp đồng với người hướng dẫn và với Nhã thuyên?
Với cách hành xử như vậy liệu còn ai dám nghiên cứu khoa học
xã hội một cách trung thực? mà nghiên cứu khoa học xã hội không trung thực thì
Đảng dựa vào đâu để đưa ra những đường lối chính sách của mình? Cái chính sách
“Cộng hai điểm cho bà mẹ Việt Nam anh
hùng” đó chính là kết quả của cái tư duy “Khoa học trong chính trị” của các
ông. Nó quá đúng! Quá chính trị! Quá nhân văn. Nhưng! Lại vô tích sự .
Tôi đọc hồi kí của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh ông ta có than
thở rằng môn ngữ văn quá thiếu đề tài
nghiên cứu. Quanh đi Nam Cao, quẩn lại lại Chí phèo thế cho nên một thằng cha
lưu manh vô học lại đẻ ra được đến hơn trăm ông tiến sỹ (Chỉ tính riêng trường
đại học sư phạm đã có đến bốn mươi luận văn tiến sỹ về Nam Cao ) Thật là chuyện
cười ra nước mắt.
Tôi nghĩ : Thực ra chẳng thiếu đề tài đâu nhưng với cái tư
tưởng “Chính trị” Và “Cơ hội” như của các ông thì những đề tài như “Nền văn học hiện thực phê
phán đã đẻ ra Nam cao ông tổ của các tiến sỹ đương đại vậy tại sao nền văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta lại không thể sinh ra đuộc một nhà văn
bằng một nửa Nam cao? Cái gì tạo ra điều đó?”
Hay
Nền văn học chiến tranh cách mạng đã tương xứng chưa với
xương máu của hơn ba triệu con người đã ngã xuống. So với nền văn học chiến
tranh vệ quốc củaL iên xô xưa nền văn học chiến tranh cách mạng của chúng ta
như thế nào?
Hay
Đạo đức xã hội xuống cấp một cách thê thảm. Văn hóa đọc đang
dần biến mất. Tại sao? Và văn học chịu trách nhiệm đến đâu với tình trạng đó?
Những đề tài như thế đang rất cần những nhà khoa học nghiên
cứu nhưng ! Chỉ với một bản luận văn đề cập đến một nhóm thơ nhỏ xíu mà các ông
đã quy chụp thành “Phản động” Kích động lật đổ “ Thì những vấn đề rất lớn của
xã hội liệu ai còn dám nghiên cứu một cách thật sự để đưa ra những quy luật vận
động một cách khách quan thật sự giúp Đảng và nhà nước đưa ra đuộc những chính
sách đúng đắn đưa đất nước tiến lên?
Nguyễn Đăng Mạnh có nói đại ý là thời thơ mới có hàng trăm nhà thơ mà chỉ
có mỗi một Hoài Thanh nên ông rút ra kết luận “Phê bình văn học là một nghề
khó”
Điều này chỉ đúng một nửa. Khó! Khan hiếm chỉ với những nhà
phê bình thật sự tài năng, thật sự tâm huyết với nền văn học. Còn những nhà phê
bình như các ông thì không hiếm mà còn quá nhiều là đằng khác. Thử hỏi hiện nay
có bao nhiêu nhà thơ thực sự? Chắc chỉ dăm ba người? nhưng có bao nhiêu ông “Giáo sư tiến sỹ phê
bình và lý luận văn học”? Chắc cungx phải vài chục. Nguyễn Đăng Mạnh đã sai. Phải nói rằng “
Những kẻ muốn vào làng văn nhưng không viết được thì đi làm phê bình văn học”.
Sự dung tục đang lan vào trong văn học một cách mạnh mẽ
không thể nào cưỡng lại. Những tác phẩm như Hoan ca , Dị hương mà hội nhà văn
vừa trao giải về bản chất nó cũng là một tiếng nói phản kháng với cái sáo mòn,
cũ kĩ hiện nay của văn chương, một mong muốn đòi hỏi sự cách tân đổi mới cho
văn học đâu chỉ riêng có mở miệng. Chỉ có điều nhóm mở miệng dung tục đến cái
mức quyết liệt hơn, điển hình hơn. Mà trong nghiên cứu khoa học thì phải bắt
đầu nghiên cứu từ cái điển hình từ đó suy ra những hiện tượng ít điển hình hơn
thì các ông lại cho là “Cổ vũ” kích động lật đổ”. Nếu tác giả định “ Kích độnglật đổ” hay “Cổ súy” nhóm mở
miệng thì tác giả của nó đã tung bản luận văn này lên mạng từ lâu rồi. Tôi
không tìm thấy bản luận văn trên mạng chứng tỏ Nhã Thuyên là một người nghiêm
túc. Nhận định khác với cổ súy. Trong nhiên cứu khoa học tất phải đưa ra các
nhận định.Nhưng nhận định khác với cổ súy. Đã ba năm nay, không ai biết đến bản
luận văn này trừ một vài người trong hội đồng khoa học trường đại học sư phạm.
Nhưng nay thì nhờ các ông mà ai cũng biết đến nhóm mở miệng, và ai cũng đọc nó.
Vậy ai là người kích động lật đổ? Chính là các ông!
Xin nhắc lại một lần nữa.
Khoa học là một tia sáng. Nó chỉ có thể đi theo một đường
thẳng trong một môi trường trong suất không có vật cản”
Xin các ông đừng trở thành vật cản của khoa học.
Hà nội 7-8-2013
Nguồn: anhbasam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét