“Đất nước mình
ngộ quá phải không anh”, một câu hỏi lớn không lời đáp…
Đặng Văn Sinh
Điều dễ nhận thấy là bài thơ ra đời vào thời điểm
những bất cập xã hội đã vượt quá giới hạn chịu đựng của con người. Đó là những
dòng cảm xúc bất chợt dâng trào mà điểm nhấn của nó là hàng loạt câu hỏi như
những dòng cảm thán được hình thành từ tâm thức của một công dân quá yêu đất
nước mình.
Bố cục bài thơ gồm năm khổ, trong đó, mỗi khổ đều mở
đầu bằng một câu hỏi tu từ được thiết lập trong mối quan hệ đồng đẳng. Câu hỏi
tu từ, nghĩa là, hỏi chỉ để tạo ra hiệu ứng thẩm mỹ, không cần phải trả lời,
bởi câu trả lời đã nằm sẵn trong cấu trúc nội tại văn bản. Đây chính là nét đặc
trưng của thi pháp thơ truyền thống, không chỉ với người Việt mà cả với cộng
đồng nhân loại.
Các câu hỏi mở đầu cho mỗi khổ thơ “Đất nước mình ngộ quá phải không anh”, “Đất
nước mình lạ quá phải không anh”, “Đất nước mình buồn quá phải không anh”, “Đất
nước mình thương quá phải không anh”, “Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh?”,
được xem như cùng một cấu trúc ngữ pháp, sử dụng nhuần nhuyễn lớp từ vựng thông
tục, rất gần gũi với đời sống thường nhật, không chú ý đến các biện pháp tu sức
nhưng lại có khả năng biến thái linh hoạt, tạo nên giá trị biểu cảm không giới
hạn. Thông thường, với thể loại thơ thế sự cảm thán, những câu hỏi tu từ, luôn
được bố trí theo trình tự từ cụ thể đến trừu tượng, khái quát (hoặc ngược lại)
để diễn tả một hiện tượng xã hội, lịch sử hay văn hóa, cuối cùng, ý tưởng được
“gói” lại trong câu kết làm bài thơ bỗng sáng lên, tạo ấn tượng mạnh với người
tiếp nhận gọi là thủ pháp nghệ thuật ngôn từ. Ta có thể kiểm chứng đặc điểm này
qua bài “Chợ” của Nguyễn Duy với lời đề từ khá hài hước “Kính tặng vợ nhân đầu năm Con Khỉ”. Bài có bốn khổ thì ba khổ đầu sử
dụng câu hỏi tu từ ở cấp độ phi đồng đẳng tăng tiến theo trình tự từ cụ thể đến
trừu tượng tạo ra không gian cảm xúc đa chiều với nhiều cung bậc tâm trạng: “Có món ngon nào giá rẻ không em?”, “Có đam
mê nào giá rẻ không em?”, “Có yêu thương nào giá rẻ không em”, “Có hạnh phúc
nào giá rẻ không em?”. Và, cứ sau mỗi câu lại là một diễn ngôn trần tình
đầy chất bi hài, diễn tả tâm trạng ai oán của một nhà thơ được mẹ trót sinh ra
gắn với “câu sấm mệnh con cò”.
Như vậy, về mặt bố cục tổng thể cũng như đặc trưng thi
pháp, “Đất nước mình ngộ quá phải không anh” có vẻ như không mấy đúng với “niêm
luật” của loại hình thơ “thế sự” dùng các câu hỏi tu từ làm phương thức biểu
đạt ý tưởng thẩm mỹ nếu nhìn nhận nó qua cách phân tích quan phương. Sẽ rất sai
lầm, nếu chỉ tiếp cận bài thơ qua cái nhìn xã hội học dung tục, rồi vận dụng
phương pháp phê bình chỉ điểm. Bằng “công nghệ” này, người ta có thể chọn ra
không ít câu chữ vốn hiền lành nằm trong hệ thống logique ngữ nghĩa, nhưng được
cho là có dấu hiệu “vượt đèn đỏ”, phạm “kỵ húy”, rồi gán cho nó đủ thứ tội
danh, thậm chí còn dùng cả bộ máy công quyền răn đe tác giả. Đó luôn là cách
hành xử của những thể chế độc tài toàn
trị, ở tầm văn hóa thấp nhưng lại đầy quyền lực, muốn thâu tóm mọi lĩnh vực xã
hội để dễ bề cai trị, trong đó có văn học nghệ thuật, một loại hình được xếp
vào lĩnh vực tư tưởng nên rất dị ứng với chủ trương “đồng phục”.
Một vấn đề được đặt ra là, bài thơ bình thường như
“Đất nước mình ngộ quá phải không anh”, vì sao làm thổn thức hàng triệu con tìm
người dân đất Việt, vì sao tạo ra cơn chấn động tâm lý, qua đó hâm nóng tình
yêu đất nước, lay động cả dân tộc bỗng chốc bừng tỉnh về thân phận mình sau bao
nhiêu năm choáng ngợp bởi ánh hào quang quá khứ thẩm thấu vào mỗi đường gân thớ
thịt bằng đủ chiêu thức tinh vi của công nghệ tuyên truyền? Câu trả lời quá đơn
giản. Bài thơ được sáng tác trong một khoảnh khắc xuất thần được nâng đỡ bởi
niềm cảm xúc chân thành và lòng yêu nước vô bờ bến cộng với một chút năng khiếu
trời cho. Cái năng khiếu ấy chính là sự dung dị của những khổ thơ không cầu kỳ
làm dáng, không cố gò từ, ép vận, không làm lạ hóa câu chữ mà mấu chốt của nó
là sự liên kết đa chiều qua lớp từ vựng dân dã, tạo nên sự bùng nổ hiệu ứng thẩm mỹ. Cũng cần phải nói, ý tưởng
về bài thơ chắc là đã được tác giả ấp ủ từ lâu, nhưng chất xúc tác làm đẩy
nhanh quá trình hình thành tác phẩm có lẽ là hội chứng Formosa. Thứ chất độc không qua xử
lý hàng ngày thải ra làm tuyệt đường sinh sống của cả triệu ngư dân vùng biển
miền Trung, qua ngôn ngữ thơ, đã làm thức dậy phẩm giá con người vốn vẫn tiềm
tàng trong ý thức cộng đồng dân tộc.
Nếu đọc bài thơ bằng con mắt khác, tâm thế khác, ví
như dưới góc độ lịch sử hay triêt lý dân gian, chắc chắn sẽ còn tìm ra được những
thông điệp mới, trong đó có một vấn đề rất đáng quan tâm đó là “hằng số dân
tộc”. Để làm được điều này, trước hết chúng ta phải có đủ sự lương thiện của
người tử tế, không lệ thuộc vào câu chữ vốn luôn được các nhà kiểm dịch coi là
nhân tố quan trọng để đánh giá lập trường, tư tưởng người sáng tác, mà biết
nhìn vào cấu trúc tổng thể, loại trừ những định kiến xã hội, bài thơ sẽ hiện ra
dưới một diện mạo khác, hàm chứa yếu tố nhân văn, nhân ái như là một chiều kích
văn hóa. “Hằng số lịch sử” hay “hằng số dân tộc” là một khái niệm khá trừu
tượng nhưng có thật và rất quan trọng, nó song hành và chi phối mọi suy nghĩ,
hành động của cộng đồng Việt tộc suốt chiều dài mấy ngàn năm dựng nước và giữ
nước. Hằng số ấy chính là đặc trưng của nền văn hóa bao hàm các giá trị sống,
trong đó có không ít mặt khuyết tật cha ông ta di truyền lại. Có lẽ cũng vì thế
mà, Chế Lan Viên, sau mấy chục năm viết “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”,
trước khi qua đời ông lặng lẽ phản tỉnh bằng “Ảo tưởng” và “Bánh vẽ” hoặc “Ai?
Tôi?”, còn Tố Hữu thì ngậm ngùi với “Một tiếng đờn” vào tuổi xế chiều sau khi đã
mất hết mọi chức tước. Từ đó có thể thấy, cô giáo Trần Thị Lam không phải là
người đầu tiên và chắc chắn cũng không phải là người cuối cùng, hình tượng hóa
cái nét “đậm đà bản sắc” ấy thành thơ, đem đến cho công chúng một cái nhìn khác
về bản chất dân tộc mình.
Cái khác lạ của bài thơ chính là ở chỗ chỉ có các câu
hỏi mà không có lời đáp như Huy Cận đã từng viết trong “Các vị La Hán chùa Tây
Phương” vào những năm sáu mươi của thế kỷ XX. Đó là những câu hỏi không chỉ
dành cho lịch sử, nghĩa là một thời đã qua, mà còn hỏi về tương lai, một tương
lai đầy bất trắc khiến những kẻ lạc quan nhất của thời hiện tại cũng phải lắc
đầu. Nói một cách hình ảnh, “Đất nước mình ngộ quá phải không anh” chính là sự
ẩn dụ tư cách của dân tộc Việt về nỗi cay đắng cho số phận cứ mỗi thế hệ lại tự
làm mình lu mờ đi trước nền văn minh nhân loại. Xin đừng đổ cho vị trí địa
chính trị, thiên tai hay “suy thoái kinh tế toàn cầu” sau khi đã véo von tự
nâng lên mình lên “đỉnh cao muôn trượng” phóng tầm mắt thiển cận nhưng đầy ngạo
mạn “Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng/ Trông lại ngàn xưa trông tới mai sau/
Trông bắc trông nam trông cả địa cầu”. Về khoa “tướng số dân tộc”, có thể nói,
không ai vượt mặt Tản Đà. Cách đây 84 năm, nhà thơ từng công khai “đem văn
chương đi bán phố phường” này đã có lời phán “xanh rờn” gói gọn trong một mệnh
đề đơn giản những làm lạnh gáy các nhà cách mạng đang cổ xúy cho phong trào giữ
gìn quốc hồn quốc túy:
“Dân hai nhăm
triệu ai người lớn
Nước bốn ngàn
năm vẫn trẻ con”
(Mậu
Thìn xuân cảm, Khối tình con thứ ba, Tản Đà thư cục tùng thư, 1932)
Tuy nhiên, trước đó năm năm, ít ai biết được, nhà thơ
ngông ngạo xứ Đoài lại có lời tiên tri cho số phận dân tộc trong một bài thơ
chống tham nhũng đầu tiên ở Việt Nam, chỉ ra cái “hằng số” oái oăm
đó:
“Cũng bởi
thằng dân ngu quá lợn
Cho nên quân
nó dễ làm quan”
(Xem tiểu thuyết Tờ chúc thư cảm đề, An Nam
tạp chí, số 8, năm 1927)
Như vậy, trong bài thơ của mình, Trần Thị Lam đã sử
dụng ý tưởng của bậc tiền nhân để làm sáng tỏ một hiện tượng văn hóa Việt bằng
hai câu thơ đầy cảm khái:
“Bốn ngàn
tuổi mà không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi
mà vẫn còn bú mớm”
Đấy là sự thật nhưng không dễ chấp nhận bởi xưa nay
người Việt thường chỉ thích được khen, nếu không được khen thì sáng tác những
lời văn hoa mỹ, kêu như chuông khánh để tự sướng. Từ thói quen ấy đương nhiên người
ta xếp những đối tượng chê mình vào loại “suy thoái đạo đức” thậm chí “thế lực
thù địch”. Từ đó mới nảy nòi ra hàng loạt cây bút suốt đời chỉ viết tụng ca đến
nỗi có kẻ độc mồm độc miệng gọi là…bút nô!
Trong các giá trị sống được tích hợp từ nhiều thành
tố, đa số trong chúng ta có cái “đức” cao tót vời so với dân tộc khác là ít khi
dám nhận cái sai về mình, thường là đổ lỗi cho khách quan theo phương châm “Mất mùa là bởi thiên tai/ Được mùa bởi tại
thiên tài…”. Khi ta cúi đầu chân thành nhận lỗi trước người khác, nghĩa là,
trong sâu thẳm tâm hồn vẫn còn ý thức được phẩm giá. Không có cái đó con người
trở thành ích kỷ và vô cảm. Một dân tộc liệu có được xếp vào loại “tiên tiến,
đậm đà bản sắc” khi giẫm đạp lên nhau giành mảnh giấy in hình chiếc ấn ngụy tạo,
hay thẳng tay nện vào mặt nhau tranh cướp phẩm vật trong lễ hội Đền Gióng, Đền
Hùng mà có vị quan chức gọi là “cướp có văn hóa”? Hội chứng đám đông, những cơn
lên đồng tập thể từ hàng ngàn lễ hội phù phiếm nặng mùi chụp giật dường như đã đẩy
cả một cộng đồng người vào cơn mê muội. Đương nhiên, chính chúng ta, chứ chẳng
cần phải đợi đến các thế hệ mai sau sẽ lãnh đủ những hệ lụy theo quy luật nhân
quả nếu như trong tâm thức mỗi người vẫn nuôi ảo tưởng về những công trình thế
kỷ hoành tráng hay kỷ lục Guiness bệnh hoạn:
“Rừng đã hết
và biển thì đang chết
Những con
thuyền nằm nhớ sóng khơi xa…”
Bài thơ không quy “tội” cho ai mà chỉ nêu ra hàng loạt
câu hỏi tạo ra chuỗi liên kết ngoài văn bản ngôn từ. Lịch sử không thể lặp lại
cũng như không thể sửa chữa bởi nó đã thuộc về phía bên kia của trục thời gian.
Nhưng lịch sử là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội để con người hiện tại và
tương lai nhìn vào đó điều chỉnh hành vi của mình. Trớ trêu thay, đôi khi lịch
sử của dải đất hình chữ S này lại hiện diện không giống với chính nó mà được
phóng đại nhiều lần, làm mờ đi những tì vết, chỉ còn ánh hào quang rực rỡ. Bệnh
vĩ cuồng đang trở thành mốt thời đại. Ở một mức độ nào đấy, bài thơ ngầm chỉ
ra, chúng ta đang gặm nhấm dần thứ vinh quang ảo như một liều thuốc an thần xoa
dịu cơn đau có thật của hiện tại đắng chát bằng liệu pháp AQ.
Lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến, một dân tộc muốn
“cất cánh” thành rồng thành hổ, sánh vai cùng cường quốc năm châu, trước hết
không phải bằng sức mạnh quân sự mà bởi các giá trị văn hóa. Văn hóa suy đồi,
đạo đức xuống cấp, cho dù sở hữu vũ khí hạt nhân, dân chúng vẫn nhếch nhác đói nghèo. Ấy là chưa tính đến cấu
trúc xã hội lại xây dựng trên nền tảng học thuyết lạc hậu, không tưởng, chủ
trương kích động bạo lực. Thứ học thuyết ấy chính là liều doping tuyệt hảo,
giống như có dại gặp mưa xuân, tha hồ sinh sôi nảy nở những giá trị tiêu cực trong
môi trường chính trị vốn là sản phẩm nối dài của hệ ý thức phong kiến tập
quyền. Đây cũng chính là nỗi trăn trở của tác giả về một tương lai đầy bất
trắc:
“Di sản mai
sau có gì để cháu con trang trải
Đứng trước
năm châu mà không phải cúi đầu…”
Về vấn đề danh dự quốc thể này, Tổng Giám mục Ngô
Quang Kiệt đã công khai phát biểu trong cuộc họp với UBND thành phố Hà Nội vào
ngày 20 tháng 9 năm 2008, để rồi sau đó nhà cầm quyền Thủ đô cắt xén câu chữ,
hoán đổi nội hàm, dùng “quần chúng tự phát” công kích, gây sức ép, buộc đức cha phải rời nhiệm sở:
“Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ
chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ, chúng tôi mong
muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi
qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn
người Việt Nam
chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết,
thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh, đi đâu chúng ta cũng được kính
trọng”.
Tệ ăn cắp , thói ích kỷ và bệnh vô cảm chẳng những làm
cho cộng đồng người Việt mất đi sự gắn bó cho một dự án tương lai chung mà còn
khiến bạn bè quốc tế nhìn nhận chúng ta với thái độ nghi ngại. Quan chức ngoại
giao lợi dụng hộ chiếu đỏ buôn lậu sừng tê, ngà voi không còn là chuyện cá
biệt. Có ngài Đại sứ Việt Nam tại Liên Hợp Quốc chẳng thèm “nghĩ mình phương
diện quốc gia” cùng lái xe đi mò trộm sò ở khe suối East Hampton's Hog Creek,
bị bắt quả tang nhưng lại bao biện với cảnh sát sở tại rằng không biết tiếng
Anh (!?). Nữ phóng viên KT, nếu không phải là con gái rượu của Tổng giám đốc
Đài Truyền hình, chắc chắn sẽ ngồi bóc lịch dài dài trong nhà lao Thụy Điển hay
Anh Quốc vì trò chơi… đạo chích. Còn phi công, tiếp viên hàng không thì lập hẳn
một đường dây tiêu thụ hàng mỹ phẩm chôm chỉa được từ các siêu thị xứ Phù Tang.
Tình hình nghiêm trọng đến mức, không chỉ Nhật Bản mà cả Hàn Quốc, Mã Lai,
Singapore đến Thái Lan… đâu đâu cũng có những tấm biển cảnh báo người Việt về
tội trộm cắp bằng tiếng Việt, rất mất thể diện.
Trong năm câu hỏi tu từ thì bốn câu đầu có chung nội hàm
với chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa ngang nhau nhưng sắc thái biểu cảm khác
nhau, tạo nên sự liên kết bề mặt. Nếu chỉ dừng lại ở mức độ ấy thì bài thơ
không có mấy giá trị. Điểm mấu chốt tạo nên cái “thần” của tác phẩm lại nằm ở
ba câu tiếp sau như là sự nới rộng biên độ thẩm mỹ. Có thể xem đây chính là sự
trả lời qua thủ pháp ẩn dụ bằng một loạt sự kiện, hình ảnh được liệt kê, tác
động khá mạnh vào thị giác, thính giác, tri giác và linh giác người nghe.
Về mặt ngôn ngữ, đọc “Đất nước mình ngộ quá phải không
anh”, ta rất khó tìm được những câu chữ cầu kỳ, mới lạ. Những con chữ hiển hiện
trước mắt người đọc hầu hết đều dân dã, hiền lành như hạt lúa, củ khoai trong
đời sống thường nhật của người nông dân. Cấu trúc mỗi khổ xem ra lại càng “cũ”
chả khác gì thơ Huy Cận, Tố Hữu, Tế Hanh cách đây gần sáu mươi năm. Vậy thì cơn
cớ gì tác giả Trần Thị Lam bỗng chốc trở thành một hiện tượng trong làng thơ
Đất Việt? Câu trả lời là, ngoài những phần chúng tôi đã kiến giải về thi pháp ở
trên, còn có một yếu tố rất quan trọng đó là tâm thức người viết trung thực đến
tận cùng, đồng điệu với tâm thức nhân dân trong một thời điểm lịch sử nhạy cảm
của dân tộc. Cái độc đáo ở tác giả là chị đã dùng một thể thơ cũ, kết hợp với số
lượng từ ngữ phổ thông tối thiểu, nhưng lại tạo ra một cấu trúc văn bản với hiệu
ứng thẩm mỹ tối đa qua kỹ năng sắp đặt đầy sáng tạo. Rất dễ nhận thấy, bài thơ
không có câu chữ thừa. Tất các thành tố ngữ pháp, ngữ nghĩa luôn móc xích mới
nhau theo một trật tự tối ưu để cuối cùng có được một văn bản nghệ thuật hoàn
mỹ vừa gửi đi một thông điệp xót xa, đau đớn vừa uyển chuyển ở vần điệu, nhạc
điệu làm lay động biết bao trái tim bạn đọc.
Bài thơ sẽ sống mãi cùng với thời gian, bởi đã hơn một
lần nó làm cho cả dân tộc thức tỉnh sau cơn mê sảng triền miên bằng loạt câu
hỏi được coi như lương tâm thời đại:
“Câu hỏi gửi
trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời
dùm đất nước sẽ về đâu…”
Chí Linh, 2/6/2016
Đ.V.S.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét