(Đọc
tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo)
Đặng Văn Sinh
Sau 60 năm cầm bút, Trần Mạnh Hảo làm tuyển tập, một tuyển tập khá đồ sộ với đủ các thể loại, trong đó nhiều nhất vẫn là thơ tự do và lục bát. Tôi phải mất nửa tháng mới đọc hết 673 bài, và thực sự cảm phục bởi gia tài đáng nể của ông. Có thể nói, trong số các nhà thơ Việt Nam đã từng cầm súng trong cuộc chiến ý thức hệ hai miền Nam Bắc (1954-1975) ít người có được nội lực thâm hậu như ông. Chưa nói đến thơ, bao gồm cả 3 tập trường ca, chỉ riêng tiểu thuyết “Ly thân” và tập phê bình “Thơ phản thơ” với những quan điểm khác người, Trần Mạnh Hảo đã một thời làm sôi động văn đàn Việt, trong đó có cả nhưng ý kiến bất đồng gay gắt.
Tuy
nhiên, theo tôi, thơ ca mới làm nên sự nghiệp Trần Mạnh Hảo, mà mảng đề tài
khiến ông có vị trí xứng đáng trên thi đàn là thơ công dân, được hiểu như lòng
yêu nước biểu đạt dưới những dạng thức khác nhau. Nói cách khác, thơ Trần Mạnh
Hảo yêu nước “đến băng hoại cả đời” như lời đề từ tuyển tập được rút ra từ bài
“Nhân xem phim ‘Sám hối’ nghĩ về Boris Pasternak”.
Không
chịu hòa nhập vào đám đông, Trần Mạnh Hảo, ngay từ lúc mới nhập môn đã chọn cho
mình lối đi riêng, dần dần đã trở thành phong cách. Đó là kiểu tư duy trực cảm
kết hợp với những suy ngẫm mang tinh thần triết lý nhưng lại được phu diễn
trong không gian tình yêu giầu sắc thái. Được như vậy là bởi, ngoài tài năng
thiên bẩm, người cầm bút còn phải thăng hoa cảm xúc, có khi vọt lên như ngọn
sóng dâng trào. Trong khoảnh khắc ấy, tứ thơ bất chợt hình thành, những con chữ
hiển thị như có bàn tay huyền bí nào dẫn dắt. Ở lĩnh vực này, không một tác giả
đương đại nào có thể sánh với ông, nhất là mỗi bài thơ, thậm chí mỗi đoạn thơ
đều văng vẳng đâu đây hồn thiêng sông núi. Với Trần Mạnh Hảo, Tổ Quốc luôn là
mẫu số chung cho mọi cảm xúc sáng tạo. Mỗi vần thơ công dân với ông đều là máu
thịt được viết nên từ tình yêu cháy bỏng. Nó da diết, chân thành khác hẳn thứ
ngôn ngữ thớ lợ đầu môi chót lưỡi của những kẻ đạo đức giả dùng thơ làm phương
tiện tiến thân.
Xem
Tổ Quốc là mẫu số chung nên mỗi bài thơ Trần Mạnh Hảo đều có xu hướng quy chiếu
vào lịch sử. Lịch sử là điểm tựa vững chắc cho tứ thơ, và mỗi điểm tham chiếu
tác giả đều chọn được những lát cắt có ý nghĩa khái quát để từ đó hình thành
chiến lược diễn ngôn. Lịch sử, đất nước và con người là đề tài vô tận nếu người
cầm bút biết khai thác. Nó giống như vỉa trầm tích có bề dày đáng kể, trong đó
ẩn tàng kim loại quý nên rất cần những nghệ nhân có bàn tay vàng biết cách tìm
ngọc trong đá.
Thơ
công dân tưởng dễ mà khó. Dễ với type nhà thơ theo trường phái cổ động, nhằm
phục vụ cho một giai đoạn “cách mạng” hay một phong trào "thi đua yêu
nước" nào đó đã được các nhà quản lý văn hóa, văn nghệ định hướng. Nói
cách khác, đấy là những bài thơ tự sướng, véo von ca ngợi thứ không hề tồn tại,
làm rối loạn nhận thức thẩm mỹ công chúng. Chỉ cần tham khảo hai đoạn thơ sau,
chúng ta sẽ hiểu ngay tính khuynh tả thái quá đã làm mất đi sự khách quan của
ngòi bút:
“Chào
61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta
đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
Trông
lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông
Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!”
(Bài
ca mùa xuân 61)
Và
đây nữa:
“Hỡi
sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ
quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
-
Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi
Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn
Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”
(Tổ
quốc bao giờ đẹp thế này chăng)
Cho
dù là nhịp điệu lên bổng xuống trầm, câu thơ được kiến tạo bằng nhiều hình ảnh
hoành tráng, người đọc vẫn nhận ra sự sáo rỗng, thiếu cảm xúc chân thành bởi
chúng được viết bằng kỹ xảo.
Trần
Mạnh Hảo thì khác. Thơ công dân của ông không giới hạn bởi tiêu chí yêu nước mà
luôn có xu hướng vươn tới cái đa bội, nghĩa là cùng một lúc bao quát nhiều tham
số để tạo nên một văn bản đa thanh. Vì thế, tác giả viết về lịch sử, đất nước,
nhân dân mà không khô khan như bài học luân lý. Điều này không ai làm tốt hơn
ông, bởi vì, ông có nền tảng triết mỹ vững chắc mà một trong số đó là ngôn ngữ
nghệ thuật. Những bài “Sông Hồng”, “Tổ Quốc, con âm thầm yêu mẹ”, “Tổ Quốc của
tình yêu”, “Gửi Lai Châu”, “Những dòng sông miền Trung”, “Tổ Quốc – Đêm cuối cùng
Huyền Trân”, “Sông Lam”, “Đất Quảng”, “Gió Ngàn Hống”, “Thanh Hóa”, “Nỗi buồn
Huế”, “Lời Trưng Nữ vương”, “Đêm phương Bắc nhớ về Tổ Quốc”… đều mang nội hàm
trên.
Trước
hết, cách nói về Tổ Quốc, đất nước, trong thơ mình, Trần Mạnh Hảo thường sử
dụng danh xưng “tôi”, “anh” hay “con” làm chủ thể trữ tình, khác hẳn cái “ta”
quan phương trong thơ Chế Lan Viên hay Tố Hữu. Nếu cái “ta” ở vị thế thay mặt
đám đông từ trên cao nhìn xuống một cách ngạo nghễ, thì cái “tôi” lại hòa mình
vào đám đông, của đám đông và mang thân phận đám đông. Với tâm thế ấy, cái tôi
(mà phái sinh của nó là “anh”, “con”) có lúc còn phải lặn ngụp trong kiếp nhân
sinh để biết thế nào là cảnh cơ hàn. Đó chính là điều kiện tiên quyết để thơ
Trần Mạnh Hảo mang tiếng nói của nhân dân, đôi khi lại ở phần u uất nhất. Chẳng
hạn, khi Chế Lan viết những lời đao to búa lớn bằng kỹ thuật siêu hạng: “Ôi Tổ
quốc, ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha ta, như vợ như chồng/ Ôi Tổ quốc, nếu
cần, ta chết/ Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông” thì Trần Mạnh Hảo không
ngại chỉ ra hiện tượng yêu nước đáng nghi ngờ của những kẻ xanh vỏ đỏ lòng: “Có
ai đó hay bàn về Tổ Quốc/ Nằm trong vỏ ốc nói hy sinh/ Ai mặc ấm mà ngồi thương
mẹ rét/ Trước khi yêu Tổ Quốc họ yêu mình”. Rất dị ứng với thứ ngôn từ lấp lánh
trang kim sặc mùi hàng mã, Tổ Quốc của Trần Mạnh Hảo không bao giờ là khái niệm
trừu tượng mà hầu hết là những sinh thể trong mối tương quan với lịch sử, đất
nước và con người. Vì thế, trong mỗi cá thể đều mang bóng dáng của dân tộc, mỗi
con sông, ngọn núi đều mang hình hài Tổ Quốc:
“Con
mới hiểu biển vì sao khát nước
Triệu
năm còn ừng ực uống dòng sông
Vì
sao Lạc Long Quân lấy sông Hồng làm đuốc
Soi
nước Văn Lang từng bước Tiên Rồng”.
(Sông
Hồng)
Cũng
là kiểu tư duy trực cảm, nhưng với “Gửi Lai Châu” thì khái niệm Tổ Quốc lại
được nhìn nhận từ hình ảnh đám mây bay trong thau nước gội đầu của cô gái Thái:
“Trái
tim đập không một ai nhìn thấy
Ở
ven trời Tây Bắc có Lai Châu
Hoa
ban nở thành người con gái Thái
Đám
mây bay trong thau nước gội đầu”
Bài
thơ giống như bức tranh toàn cảnh miền sơn cước qua cái nhìn đầy chiêm nghiệm
của chủ thể trữ tình. Mạch cảm xúc hứng khởi tạo ra sự biến hóa linh hoạt khiến
cho mỗi khổ thơ mang một nhịp điệu riêng, lúc tràn đầy niềm kiêu hãnh, tự hào,
khi lại là những dòng cảm thán về thân phận con người bé mọn:
“Ơi
dấu tích còn ghi thời thống khổ
Cô
gái xòe xưa lao mình xuống sông Đà
Chỗ
em khóc sân vua Đèo giờ biếc cỏ
Anh
đi tìm ngước mắt gặp lời ca”
Tổ
Quốc đối với Trần Mạnh Hảo trước hết là những dòng sông. Yêu những dòng sông
nghĩa là yêu nước, nên khi viết bao giờ ông cũng tỏ thái độ trận trọng, biết ơn
chẳng khác gì người mẹ từng mang nặng đẻ đau ra mình. Lại nữa, những dòng sông
của Trần Mạnh Hảo bao giờ cũng vạm vỡ như một cơ thể cường tráng nhưng không
phải vật vô tri mà có một tâm hồn vô cùng nhạy cảm. Đấy là những dòng sông
huyền thoại làm nên bản sắc dân tộc. Sông Hồng, sông Mã, sông Chu, sông Lam,
sông Hương, sông Thu Bồn…, là những trường hợp điển hình. Với “Sông Hồng”, tác
giả có một hình ảnh khi đọc rồi ta chẳng thể quên: “Sông Hồng lụt cả ca dao/
Con cò bị bão giạt vào lời ru”. Còn “Những dòng sông miền Trung” thì mỗi dòng
một số phận, nhưng tất cả đều mang vẻ đẹp văn hóa vùng miền chảy không ngừng
nghỉ cả ngàn năm ra biển:
“Sông
Mã
Chảy
như chạy trốn núi rừng
Sông
mải miết một đời Thanh Hóa
Để
Nguyễn Hoàng đi mở đất phương Nam
Sông
Chu ơi những Ngàn Sâu, Ngàn Phố
Nghe
sông đi ngỡ đất rập rình
Sông
La hét lúc giao tình sông Cả
Hỡi
sông Lam ta đã yêu mình”
(…)
“Sông
có là nước mắt
Mà
nghe Nhật Lệ sao đành
Quảng
Trị từ xưa đất đã chiến trường
Thạch
Hãn u u tiếng tù và quân gió rúc”
Và
cuối cùng, dòng Thu Bồn, qua cái nhìn lãng mạn hóa, tác giả đem đến cho người
đọc sự bất ngờ ngoài sức tưởng tượng: “Ai đã lấy nước sông làm mực/ Viết đời
mình xuống cát Quảng Nam”.
Không
có cảm xúc về Tổ Quốc theo cả nghĩa trực tiếp và nghĩa hình tượng, Chắc chắn
Trần Mạnh Hảo chẳng bao giờ viết được “Sông Lam”. Sông Lam trở thành hình ảnh
hoán dụ tính cách người Nghệ với giai thoại “con cá gỗ” không mấy dễ chịu nhưng
lại là niềm tự hảo của cái nôi xuất sinh những tài năng quán thế. Điểm nhìn của
Trần Mạnh Hảo là nhìn từ bên trong, làm hiển thị bản chất của một vùng văn hóa,
khác hẳn cái nhìn trịch thượng của các thi sĩ quan phương ngồi Volga đen “cưỡi
ngựa xem hoa” vẫy tay phủ dụ chúng sinh. Theo tôi, “Sông Lam” là áng thơ thuộc
vào loại hay nhất trong tuyển tập Trần Mạnh Hảo. Nó hay bởi những hình ảnh về
con sông được chuyển hóa qua bộ lọc thẩm mỹ vừa cá biệt lại vừa có giá trị phổ
quát: “Con cò mặc áo tơi đi học/ Cá sông Lam còi cọc toát mồ hôi” và “Gió hào
kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh/ Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài”, như một chiều kích đưa
Xứ Nghệ đi vào lịch sử: “Để rú Quyết lặng thầm đi cứu nước/ Sông veo veo trời
đất thoắt sen vàng”. Như bạn đọc đã biết, ở mảng đề tài này, Trần Mạnh Hảo ít
khi chấp nhận với thứ ngôn ngữ dễ dãi mà ông luôn tìm cách nói bằng hình ảnh
thông qua ngôn ngữ nghệ thuật đã được tái cấu trúc khiến câu thơ mang diện mạo
khác hẳn, trong đó bao hàm cả trò chơi chữ: “Sông vắt kiệt lòng mình nuôi đất
cát/ Thương đất nghèo sông xanh rớt mồng tơi”.
Ở
Trần Mạnh Hảo, yếu tố duy lý và duy cảm thường không phân biệt, nhiều khi chúng
kết hợp với nhau như là ngẫu nhiên nhưng lại tạo ra nguồn năng lượng đột biến:
Gió
Lào thổi mây dòn bánh đa nướng
Sông
Lam nuôi nứt nẻ mấy hạt vàng
Gió
lập ngôn đầu hồi luồng lĩnh xướng
Khoai
lang gàn luống dọc thích bò ngang”
Có
thể nói những từ ngữ “mây dòn bánh đa nướng”, “gió lập ngôn”, “luồng lĩnh
xướng”, “khoai lang gàn”… đều là những hình ảnh ở cấp độ thẩm mỹ không phải nhà
thơ nào cũng có được trong đời cầm bút. Viết “Sông Lam” hẳn là, lúc ấy dòng cảm
xúc vượt ra ngoài giới hạn của cái hữu thức, và trong khoảnh khắc thăng hoa,
Trần Mạnh Hảo hạ lời kết bằng khổ thơ khiến người đọc luôn bị ám ảnh:
“Sông
Lam ăn cát mà xanh, uống trời mà mát
Trăng
chảy hết lòng sâu quyết liệt cả cơ hàn
Người
giàu có nên đất nghèo xơ xác
Kìa
gió Lào thổi cong sông Lam…”
Không
thể phủ nhận“Gió Lào thổi cong sông Lam” là một câu thơ hay, nhưng ngoài hình
ảnh được thi vị hóa qua thủ pháp ẩn dụ, tác giả dường như còn gài vào đó một triết
lý sống của con người ở vùng đất khắc nghiệt mà làm nên nhiều kỳ tích.
Cũng
với tâm thức như vậy, Trần Mạnh Hảo còn có những câu thơ viết về sông Hương đẹp
đến nao lòng. Phải yêu Huế lắm ông mới chạm đến được nỗi buồn vùng đất Cố Đô mà
không hẳn chỉ vì một người phụ nữ:
“Sông
Hương đẹp trong nỗi niềm sơn cước
Mắt
em tình u uẩn hút hồn sông
Huế
chỉ đẹp trong nỗi buồn sông nước
Cả
hoàng thành ngơ ngẩn bước cha ông”
Không
chỉ sông, Trần Mạnh Hảo còn viết những bài thơ để đời về núi mà một trong số đó
là “Gió Ngàn Hống”, mỗi khi đọc lên, ta như nhìn thấy cảnh “dâu bể tang thương”
của một vùng địa linh nhân kiệt:
“Gió
Ngàn Hống thổi vênh trời Hà Tĩnh
Chín
mươi chín cột kê làm núi đỡ trời
Sông
Lam vẫn ú tim cùng Hồng Lĩnh
Bến
Giang Đình cát bụi mù khơi”
(…)
Nhớ
Miền Trung tìm Nguyễn Du tôi khát
Sóng
Nam Đài trằn trọc cát Thanh Hiên
Ngàn
Hống thở hồng trần bay lục bát
Thúy
Kiều ơi bầm nát gió Tiên Điền”
Có
thể nói, đây là bài thơ “cổ điển” cả về hình thức lẫn nội dung, nhưng cho dù
đọc diễn cảm trước đám đông cử tọa, hay dõi theo từng dòng bằng mắt, chúng ta
đều bị mê hoặc, trước hết chưa phải ở nhịp điệu, mà là lớp từ ngữ giàu hình ảnh
được tổ hợp theo luật bằng trắc tối ưu tương tác lẫn nhau như phản ứng dây
chuyền, từ đó phát sinh hiệu ứng.
Khác
với “Gió Ngàn Hống”, bài “Thanh Hóa” có một bộ xương khá gân guốc, với hai giả
thiết đặt ra cho lịch sử. Có điều lịch sử là những con số và sự kiện đã đóng
băng, hoàn toàn không có “nếu”. Vì thế, “nếu” ở đây chỉ là câu hỏi tu từ làm
tiền đề cho hàng loạt diễn giải như một cách khẳng định tầm quan trọng của xứ
Thanh Hoa xưa đối với vận mệnh dân tộc Việt:
“Phải
Thanh Hóa lịch sử còn mai phục
Bốn
lần cứu quê hương thoát ách giặc Tàu
Sông
linh hiển đất ngựa lồng, trâu húc
Tổ
Quốc còn Thanh Hóa sợ gì đâu”
Cho
dù tư duy thơ Trần Mạnh Hảo vẫn là lối tư duy nhị nguyên nhưng khả năng sáng
tạo ngôn từ của ông vô cùng phong phú, vì thế, những bài thơ yêu nước luôn có
khả năng chinh phục bạn đọc bằng cảm xúc chân thành của nhân vật trữ tình thông
qua thế giới hình tượng và điểm nhìn nghệ thuật hợp lý. Nhân vật trữ tình trong
thơ cũng biến hóa đa dạng, lúc là “tôi”, lúc lại xưng “anh”, và đối tượng có
khi là “mẹ” nhưng xuất hiện nhiều hơn cả vẫn là “em”. Tuy nhiên tất cả những
danh xưng ấy đều mang tính phiểm chỉ để nhân vật trữ tình bộc lộ quan điểm thẩm
mỹ. Chẳng hạn ở bài “Hến ơi”:
“Hến
còn ngoài bãi bơ vơ
Để
mồng tơi nhớ sững sờ bát canh
Mẹ
mò hến tận trời xanh
Tuổi
thơ yêu hến đến thành tương tư”
Vẫn
là “em” nhưng em trong “Gửi Lai Châu” lại mang nỗi khắc khoải, u hoài biên ải.
Những câu thơ chẳng khác gì cảnh giới miền cổ tích:
“Ơi
ngủ dậy núi đã đầy trong mắt
Trong
chiêm bao còn vọng tiếng nai chiều
Tiếng
ngựa thồ gõ vào mây rậm rịch
Em
gội đầu để suối suốt đời reo”
Sẽ
là khiếm khuyết nếu viết về tình yêu quê hương, đất nước trong thơ Trần Mạnh
Hảo mà thiếu đi những bài về cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Tuy số lượng được
tuyển không nhiều nhưng chỉ cần “Tết cửa rừng xưa” là đủ. Bài thơ được viết vào
tháng hai năm 2015 khi sự kiện đã trở thành hồi ức, trong đó có một khổ đọc lên
tôi chợt lạnh người:
“Anh
trú ẩn trong hầm hào mộng mị
Lòng
như căn cứ cũ cỏ oan hồn
Bom
đổ xuống đêm giao thừa như bánh tét
Khoác
mai vàng đi chết để rừng chôn”
Trần
Mạnh Hảo là vậy. Thơ cổ điển, thậm chí rất cổ điển. Không cách tân, không sướt
mướt não tình, hay thương vay khóc mướn với những “hoang hoải”, “chênh chao”,
“nắng gầy”, “mưa gầy”, “hoàng hôn tím”, “thao thiết”…, mà ông chọn cho mình mô
hình thẩm mỹ riêng. Đó là phong cách thơ công dân lấy tình yêu Tổ Quốc làm điểm
tựa để bộc lộ quan điểm thẩm mỹ.
Nhâm
Dần, đầu thu, ngày lành
Đ.V.S.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét