Thụy Khuê
Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia
Long
Chương 4
Tác phẩm của John
Barrow (1764-1848)
Phần 1
Vào Google đánh chữ
Olivier de Puymanel, Wikipédia Pháp, thấy ghi: "Olivier de Puymanel
"là một nhà kiến thiết và là người tổ chức quân đội Việt Nam dưới triều
đại nhà Nguyễn". Wikipédia Việt, ghi: "Olivier de Puymanel là
người giám sát thi công toà thành bát quái, theo thiết kế của kỹ sư người Pháp,
Théodore Lebrun", ông "đã huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn, còn
Jean-Marie Dayot thì lo về thuỷ quân". Ý chính được truyền tụng khắp
nơi trên thế giới, trở thành "sự thực" cho đến ngày nay là: "Puymanel
là cha đẻ của các thành trì xây theo kiểu Vauban tại Việt Nam trong thế kỷ XIX".
Tất cả những
"thông tin" loại này thoát thai từ sự xác định của các sử gia thuộc
địa, cách đây hơn 100 năm, rằng Bá Đa Lộc và những "sĩ quan" Pháp đã
giúp Gia Long "dựng lại cơ đồ".
Đã đến lúc chúng ta
cần phải khảo sát lại những "công trạng" này. Đâu là sự thực? Đâu là
huyền thoại?
Những học giả Pháp
như Maybon, Cadière, đều trách Đại Nam Thực Lục, không nhắc nhở đủ đến công
trạng của những người Pháp này.
Vậy chúng ta cũng
phải điều tra xem Thực Lục và Liệt truyện thiếu sót ở chỗ nào.
Công việc đầu tiên
của sự khảo sát này là tìm xem, những tác giả Tây phương đương thời viết gì về
giai đoạn này.
John Barrow và cuốn
A Voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà)
Một trong những tác
phẩm sớm nhất của người ngoại quốc viết về giai đoạn Gia Long dựng nghiệp, là
cuốn sách của John Barrow (1764-1848), in tại Luân Đôn, năm 1806, tựa đề -theo
lối của thời ấy, tên sách rất dài- như sau:
A Voyage to
Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the
valuable productions and the political importance of this flourishing Kingdom;
and also of such European settlements as were visited on the voyage; with
sketchs of the Manners, Character and Condition of their several inhabitants,
to which in annexed an Account of a Journey made in the year1801 and 1802 to
the Residence of the Chief of the Booshuana nation... (London,
1806).
Sách này được Malte-Brun dịch và chú giải sang tiếng
Pháp, tựa đề: Voyage à la Cochinchine par les Iles de Madère, de Ténériffe
et du Cap Verd, Le Brésil et l'Ile de Java, contenant des renseignements
nouveaux et authentiques sur l'Etat naturel et civil de ces divers pays...
(Paris, 1807).
Dịch: Hành trình sang nước Nam qua các đảo Madère,
Ténériffe, Mũi Verd, Brésil, đảo Java, với những thông tin mới và xác thực về
tình trạng thiên nhiên và dân sự ở những xứ khác nhau này...
John Barrow (19/6/1764 - 23/11/1848) là nhà thám hiểm,
nhà quản trị và ngoại giao Anh. Khoảng 1792-1794, ông giữ chức thị vệ của
George Macartney, sứ thần Anh đầu tiên ở Trung Quốc. Hạm đội chở phái đoàn sứ
thần Anh đến Trung Hoa, ngừng lại ở Đà Nẵng từ 14/5 đến 16/6/1793, dưới triều vua
Cảnh Thịnh. Tác phẩm viết trong khoảng 1797-1798, tức là 4 năm sau khi Barrow
rời Đà Nẵng.
Cuốn sách được nhiều người trích dẫn khi viết về Việt Nam.
Bản dịch Pháp văn gồm 2 tập: Tập I (do Imprimerie de
Jeunehomme in ở Paris,
1806) và Tập II (Arthus- Bertrand, 1807), đều viết về các xứ kể tên ở trên,
dưới dạng hồi ký lịch sử, địa lý, kinh tế và chính trị.
Sách in kèm với một tập hình gồm 18 bức khắc họa ghi
lại chuyến đi, do Tardieu thực hiện, trong đó có một bức vẽ Hội An với những
kiểu tầu, thuyền mà tác giả mô tả trong sách.
Chúng tôi giới thiệu phần Barrow viết về Việt Nam, trong
chương IX, X và XI (t. 182- 361), tập II, qua bản dịch Pháp văn của Malte-Brun,
trích dịch sang tiếng Việt, sẽ dẫn là Barrow II.
Để soạn ba chương này, Barrow cho biết, ông đã dựa vào
những nguồn tin sau đây:
"Hầu hết những chi tiết mà tôi vừa đưa ra hoặc sẽ
nói đến, thoát thai từ bản thảo hồi ký của Ô. Barisy, một sĩ quan Pháp giỏi
giang, đã quản một chiếc tầu phục vụ vua Gia Long. Chắc chắn phần thứ nhất [tức là phần nói về Quang Trung] hoàn toàn ăn khớp
với những gì tôi tiếp nhận được ở Đà Nẵng từ một người thư ký của chính phủ
Trung Hoa sống tại đây, được người thông ngôn của chúng tôi dịch lại. Những ký
sự của các vị thừa sai đã sống ở xứ này, cũng phù hợp [với những điều này]:
vì vậy, tôi hoàn toàn tin tưởng. Ngoài ra, những sự kiện chính còn được hai
người Anh sống ở Sài Gòn năm 1799-1800, xác nhận." (Barrow II, t.
221).
(Il est bon de dire au lecteur, que j'ai tiré la plus
grande partie des détails que je viens de donner, et de ceux qui vont suivre,
d'un mémoire manuscrit de M. Barisy, officier français d'un grand mérite, qui
commandoit une frégate au service de Caung-shung. Il est certain que la
première partie s'accorde parfaitement avec ce que nous avons appris dans la
baie de Turon, d'un secrétaire du gouvernement de la Chine, résident en ce
lieu, et dont les récits nous étaient transmis par notre interprète. Les
différentes relations des missionnaires qui ont résidé dans ce pays, s'y
accordent également: ainsi, je n'hésite pas à donner au reste la plus entière
confiance. D'ailleurs, les faits principaux m'ont encore été confirmés par le
témoignage de deux Anglais, qui ont été à Sai-gong dans les années 1799 à
1800). (Barrow II, t. 221).
Tóm lại, Barrow đã dựa vào:
- Bản thảo hồi ký của Barisy, một trong những người
lính Pháp giúp Nguyễn Ánh.
- Lời người thư ký làm việc cho chính phủ Trung
Hoa, ở Đà Nẵng (1793) kể lại, qua thông ngôn.
- Hai người Anh ở Sài Gòn năm 1799 và 1800.
- Và tư liệu trong các tập Les Nouvelles des
Missions Orientales (Tin tức các hội thừa sai Đông phương), in năm 1785,
1787, 1789, 1794 và 1797.
Câu "người thư ký làm việc cho chính phủ Trung
Hoa" này, Taboulet, khi trích dẫn Barrow, lại viết thành: "Một
người thư ký Tầu của chính phủ Việt Nam (Un secrétaire chinois du
gouvernement vietnamien) (Taboulet, La Geste Française en Indochine, Tome I,
note 1, trang 270).
Taboulet chỉ chép lại cái sai của Maybon: Thay vì "người
thư ký của chính phủ Tầu" lại đổi thành "người thư ký Tầu của
chính phủ Việt Nam."
(Maybon, Introduction, La relation de la Bissachère, trang 37, note 1).
Nhưng tệ hại hơn cả là cái sai của Tạ Chí Đại Trường.
Tạ Chí Đại Trường chép theo Taboulet, nhưng lại viết
như thế này: "John Barrow dựa trên các tài liệu của L. Barisy, của
một viên thư ký Tầu của chính quyền Gia Định (Trịnh Hoài Đức?) và các giáo
sĩ mà vẽ rõ một Nguyễn Ánh lúc đứng tuổi..." (TCĐT, Lịch sử nội chiến
Việt Nam,
trang 96, chúng tôi in đậm).
Không hiểu tại sao Tạ Chí Đại Trường lại thêm câu "chính
quyền Gia Định" vào, để móc nối với Trịnh Hoài Đức?
Barrow có đến Gia Định hồi nào đâu mà gặp Trịnh Hoài
Đức? Để rồi sau đó, Tạ Chí Đại Trường dẫn đến nhận xét: "sử quan" nhà
Nguyễn "không tiếc dịp đề cao hoàng đế của họ".
Chúng tôi xin nhắc lại: những điều viết về Gia Long
trong cuốn sách này là do Barrow viết ra, không phải do "sử quan nhà
Nguyễn" hay Trịnh Hoài Đức viết.
Để vẽ chân dung Gia Long, Barrow dựa vào hồi ký
Barisy, và 2 người Anh ở Sài Gòn năm 1799 và 1800, họ là những chứng nhân ngoại
quốc gần nhất của thời kỳ này. Riêng Barisy, nếu những điều ông kể trong mấy
bức thư [được Cadière sưu tập] là đúng, thì ông đã được gần Nguyễn Vương trong
nhiều năm. Barisy là người giúp vua mua bán máy móc, vũ khí, nguyên liệu ở nước
ngoài, ông hay đi đi về về Gia Định và ở bên Hoàng tử Cảnh, khi hoàng tử mất vì
bệnh đậu mùa, trong lúc vua đang đánh trận.
Còn về thuật đóng tầu và tầu chiến của Việt Nam,
Barrow quan sát tầu thuyền ở vịnh Đà Nẵng và Hội An, năm 1793 (một năm sau khi
Quang Trung mất).
Những điều Barrow viết về thuật đóng tầu ở Việt Nam
nói riêng, ở Trung Hoa và phương Đông nói chung, đã gián tiếp phản bác tất cả
những luận điệu cho rằng "các sĩ quan" Pháp đặc biệt Puymamel và Bá
Đa Lộc đã "dạy" Gia Long đóng tầu, đúc súng...
Có lẽ vì lý do đó, nên khi trích dẫn Barrow, Taboulet
đã bỏ hẳn hai đoạn quan trọng nhất, là đoạn kỹ thuật làm tầu chiến ở
Việt Nam
và đoạn Gia Long trực tiếp trông coi và điều khiển tất cả những công
xưởng đóng tầu và đúc súng ở Gia Định.
Maybon cũng loại trừ tác phẩm của Barrow bằng cách chỉ
trích những đoạn viết sai về lịch sử, chủ yếu về vụ Conway không chịu thi hành
hiệp ước cầu viện Versailles 28/11/1787; nhưng ông Maybon lại giữ lại một sai
lầm khác của Barrow để dùng, đó là việc Bá Đa Lộc "cứu sống" Nguyễn
Ánh năm 1777, cần thiết cho sự xác định "vị trí hàng đầu" của Bá Đa
Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh.
Sơ lược nội dung
tác phẩm A Voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà)
Phần viết về Việt Nam gồm ba
chương: IX, X và XI, in trong tập II.
Chương IX: Gồm hai
phần:
1- Xác định vị trí
nước Nam
và hoàn cảnh hạm đội Anh ghé Đà Nẵng (t. 182-191).
2- Lược khảo lịch
sử nước Nam,
tình hình tranh chấp lúc bấy giờ (t. 192-219). Hành trình Bá Đa Lộc (t. 200-
219) và Chân dung vua Gia Long (t. 220- 240).
Có thể nói, Barrow
đặc biệt chú ý đến hai người anh hùng của giai đoạn này, về vua Quang Trung,
ông đứng trong quan điểm chung lúc bấy giờ (kể cả Hoàng Lê nhất thông chí
của Ngô Thì Chí), đều gọi là ngụy, nhưng cũng không kém sự khâm phục, kính nể
thiên tài chính trị và quân sự.
Về chân dung vua Gia
Long, đây là một trong những bài viết rõ và có nhiều chi tiết nhất về vị vua
này. Barrow đặc biệt kính trọng vua Gia Long, coi Gia Long như một thiên tài,
đã khôi phục lại nhà Nguyễn sau nhiều năm bị Nguyễn Huệ đánh đuổi, không còn
mảnh giáp, phải sống lưu đầy, khốn khổ; lúc đầu chỉ có "một chiếc
thuyền" mà hơn 10 năm sau đã có cả một "hạm đội 1200 chiến
thuyền", không những giành lại miền Nam của tổ tiên các chúa Nguyễn mà còn
đánh ra Bắc thống nhất đất nước. Phần chân dung vua Gia Long, chúng tôi sẽ trích
dịch riêng, in trong chương năm, sắp tới).
Chương X: Lược
khảo đại cương về phong tục, tính tình và hoàn cảnh sống của dân Đà Nẵng. Triều
đình Cảnh Thịnh tiếp đãi hạm đội Anh (241- 306).
Chương XI: Những
lợi ích trong việc buôn bán với nước Nam (t. 307- 345).
*
Trong chương IX,
phần lược khảo lịch sử nước Nam,
Barrow viết về những việc:
Anh em Tây Sơn khởi
binh, 1774. Việc nội chiến (t. 192-193). Vua Lê sang Tầu cầu cứu. Quang Trung
thắng quân Thanh. Việc sắc phong và triều cống (t. 194-199). Bá Đa Lộc giúp
Nguyễn Ánh. Chiến tranh Nguyễn Ánh-Tây Sơn (t. 200-206). Bá Đa Lộc đưa hoàng tử
Cảnh sang Pháp cầu viện, hiệp ước Versailles
1787 (t. 207-211). Bá Đa Lộc gặp khó khăn ở Pondichéry với Conway. Bá Đa Lộc về Sài Gòn (t. 213-216).
Như phần lớn các tác
gia ngoại quốc không phải là chuyên gia lịch sử, khi viết về lịch sử Việt Nam, qua lời kể
lại của người Tầu, Barrow mắc những sai lầm không tránh được vì thiếu kiến thức
về lịch sử, văn hoá nước ta. Đoạn viết về Quang Trung, có sự lầm lộn giữa hai
nhân vật: Tôn Sĩ Nghị và Phúc Khang An (người Barrow gặp ở Bắc Kinh).
Tuy vậy, có một
thông tin đáng chú ý: Nguyễn Lữ là thầy tu (Barrow II, t. 192).
Barrow viết: "Người
lái buôn [Nguyễn Nhạc] xa xỉ trong tiệc tùng, lễ hội, đốt pháo bông. Ông
tướng [Nguyễn Huệ] thu phục quân đội và ông thầy tu [Nguyễn Lữ]
có tiếng nói của bọn giáo phái" (t. 192).
Sự kiện này, nếu
đúng, giải thích tại sao Nguyễn Lữ thường trốn việc đánh nhau và không có con.
Chương X: (t.
241-306) Đoạn Barrow viết về tập tục, tính tình, và tình trạng thiên nhiên ở Đà
Nẵng, Barrow đang kể chuyện các quan chức ở Đà Nẵng mời phái đoàn Anh dự hội
ngày 4/6, xem tuồng, hát, các trò chơi như chọi gà, đánh cờ và ăn tiệc. Có sự
chuyển động của quân lính Tây Sơn (hệ quả của vụ Manuel Duomé tuyên truyền tầu
Anh đến chiếm Đà Nẵng, sẽ nói đên sau) phía Anh cũng chuẩn bị giáp chiến, nhưng
cuối cùng không có chuyện gì; phái đoàn được mời xem hát tuồng, ăn uống vui vẻ
(t. 241-256).
Tiếp đó, ông nói về
tính tình người Việt: nhanh nhẹn, vui vẻ, nói nhiều... Barrow giữ một giọng
khách quan khi nói về người Việt và các tôn giáo, phong tục, tập quán của dân
Việt. Những gì ông cho là dở thì phê bình, như chuyện người Việt mê tín hoặc
hay ăn cắp vặt, nhưng cũng nói thêm là tôi ở không lâu, nên có thể phán đoán
sai lầm.
Ông viết về ngôn
ngữ, tôn giáo, nhà cửa, y phục, đạo đức, vị trí người phụ nữ: khá tự do và làm
mọi việc như đàn ông (t. 257- 276). Nhà cửa, sản phẩm, hải sản ở Đà Nẵng, lâm
sản, đồ ăn, hoa quả, sản xuất, việc thừa kế gia tài (t. 277- 287). Kỹ thuật
đóng tầu và tầu chiến của Việt Nam
(t. 287-293). Bản đối chiếu một số từ tiếng Anh, Hán, Việt (t. 295-297). So
sánh giữa người Tầu và người Việt. Người Việt theo đạo Phật, thờ thần, thờ Phật
trên cây; mê tín, lập bàn thờ ở những chỗ có tai nạn (t. 299-304). Về hình
luật, so sánh với Tầu, cùng chung luật, nhưng trong thời gian ông ở Đà Nẵng
không thấy áp dụng các hình phạt, còn ở Tầu, đi đâu cũng thấy tội nhân bị đánh
đập dã man, rên siết dưới gông cùm (t. 305-306).
Chương XI: Kê
khai những lợi ích trong việc buôn bán với nước Nam (t. 307-
345), phần này cũng sẽ được trích dẫn dài rộng ở dưới.
Tóm lại, tác phẩm
của John Barrow, phần có giá trị nhất, là những điều ông viết do mắt thấy tai
nghe hoặc do những nhân chứng nhân trực tiếp sống ở thời đại này. Chúng tội
trích dịch sau đây, những đoạn có ích đối với chúng ta, trong việc nghiên cứu
bối cảnh xã hội và lịch sử, ngoài những gì đã thấy trong chính sử Việt.
*
Lý do hạm đội Anh
ghé Đà Nẵng năm 1793
Phần đáng chú ý đầu
tiên là đoạn tác giả nói hoàn cảnh nào đã khiến hạm đội Anh ghé Đà Nẵng năm
1793, (trong chương IX), ông viết:
"Bởi vì lúc
bấy giờ phải nhờ thuận gió [mới đi được], và tình trạng sức khỏe của những
người bệnh bắt chúng tôi phải ghé lại đất liền.
Chúng tôi đành đỗ
lại ở một vịnh, đối diện với quần đảo Côn Lôn. Nhưng khi nhìn thấy các tầu lớn
của chúng tôi, người dân ở đây sợ quá, họ bỏ chạy lên núi, để lại chút lương
thực của họ trước cửa lều, rồi viết mấy chữ Hán, bảo chúng tôi cứ việc lấy hết
những gì họ có, nhưng tha cho những mái nhà khốn khổ của họ.
Thấy tình trạng của
đảo này, chúng tôi vội vã nhổ neo, trực chỉ một phần khác của Á Châu, phần này
đáng lẽ phải được biết đến nhiều hơn, và chúng tôi dám tiên đoán rằng chỉ trong
vài năm nữa, nó sẽ được một số nước Âu Châu biết đến" (Barrow II, t.
183).
Tiếp đó ông phản
bác quan niệm của Pinkerton, cho rằng vùng này (Lào, Mên, Việt) chẳng có gì
đáng chú ý cả; ngược lại vị trí chiến lược và sự phì nhiêu, giầu mạnh về thổ
sản khiến vùng này là một trong những vùng đất thiết yếu cần được quan tâm hơn.
Tuy nhiên trên bản đồ cũng như trong những mô tả địa lý, người ta [Anh] đã bỏ
qua vùng đất này. Những nhận xét của Barrow, vào lúc ấy, khá thức thời; nhưng
cũng nên biết rằng sự thức thời của ông để phục vụ đế quốc Anh và sự chinh phục
đất đai thuộc địa của người Anh. Trên đường đi, họ luôn luôn vấp phải trở lực
từ các nước Âu châu khác, hoặc ganh tỵ, chèn ép, hoặc phá hoại.
Khi đã thấy rõ điều
đó, chúng ta có thể hiểu tại sao vua Gia Long, rồi vua Minh Mạng, Thiệu trị, Tự
Đức, đều rất thận trọng không cho người Âu lập quan hệ ngoại giao và mở thương
điếm, bởi vì đằng sau lá bài thương điếm, là sự do thám, dẫn đường cho quân đội
viễn chinh.
Bờ biển nước Nam,
sự tiếp xúc đầu tiên
Barrow
viết:
"Những địa
danh được ghi trên các bản đồ của chúng ta [Anh] hoàn toàn không biết
đến phần đất này [chỉ Tonquin, Cochinchine, Tsiompa, Cambodia, tức là Bắc
Hà, Nam Hà, Chàm, Chân Lạp], trừ chữ Tung-quin [Bắc Hà]. Ba miền kia
được thay bằng tên An-Nam, và cả nước được chia thành ba vùng:
Vùng thứ nhất, từ
mỏm cực nam giáp vịnh Xiêm La, tức là từ vĩ độ 9 đến vĩ độ 12, được gọi là
Don-nai [Đồng Nai].
Vùng thứ nhì, từ vĩ
độ 12 đến vĩ độ 16, được gọi là Chang [Trung?]
Và vùng thứ ba, từ
vĩ độ 16 đến vĩ độ 17, gọi là Huế.
Sau đó là địa phận Tung-quin [Bắc Hà].
Bờ biển của ba miền này cống hiến những vịnh và những
hải cảng an toàn và thuận tiện. Con sông lớn Đồng Nai (trên bản đồ đề Cambodie)
được mô tả là các hạm đội lớn nhất đều có thể vào sâu trong đất liền đến 40 hải
dặm, nơi có thành phố Sai-gong [Sài
Gòn] với một bến tầu rộng lớn và thuận tiện, và một xưởng đóng tầu chiến
lớn.
Một người Anh trên đường từ Trung Hoa đến Ấn Độ đã đi
trên sông này trên một chiến hạm Bồ Đào Nha, nói với tôi rằng đó là dáng vẻ
hùng mạnh nhất. Con sông này chia làm nhiều nhánh rộng; nhưng nhánh mà anh ta
đã đi qua, khúc rộng thường không quá 2 dặm, và nhiều khúc chỉ khoảng 1 dặm.
(...).
Ở miền Chang [Trung?],
khoảng vĩ độ 13 phút 50 giây, về phiá bắc, có vịnh và hải cảng Chin-Cheu [Thị
Nại?]. Hải cảng rất rộng và hoàn toàn khuất gió; nhưng những chiến hạm lớn
phải đậu ngoài khơi, vì có một ghềnh đá xuyên ngang cửa lạch nối liền hải cảng
với vịnh ngoài, đầu hải cảng là thành phố Quin-nong [Quy Nhơn].
Thành phố chính trong địa phận Huế mang cùng tên; ở
trên bờ một dòng sông mà các chiến hạm có thể vào được, có một hải cảng lớn;
nhưng lại có một ghềnh cát xuyên ngang cửa biển. Vịnh Han-san [Cửa Hàn] phiá nam con sông này, trên bản đồ thường
được ghi là vịnh Turon [Tourane, Đà Nẵng].
Toàn thể phương Đông, khó có một vịnh nào sánh được về
tính an ninh và thuận tiện. Càng không có vịnh nào tốt hơn.
Chính vịnh này chúng tôi trực chỉ khi rời Côn Lôn.
Chúng tôi đến Đà Nẵng ngày 24/5 [1793]. Không có bản đồ để tra cứu, thấy giữa chúng
tôi và bờ biển là hàng hà sa số ghe chài lưới, chúng tôi bèn thả một cái xà-lúp
(chaloupe) để đi tìm một người lái thạo bờ biển (pilote-côtier) nhưng những
người đánh cá đã nhìn thấy [tầu chúng tôi] vội vàng giong buồm chạy lùi.
Cuối cùng chúng tôi cũng bắt được một chiếc ghe không
có buồm, lôi ra một ông già khốn khổ. Tôi chưa từng nhìn thấy ai khổ như thế
bao giờ, mặt ông đầy rãnh nhăn; đôi mắt lơ láo, hõm sâu trong sọ, da mặt mầu gỗ
sồi già, một vài lọn tóc xám lòi ra khỏi miếng khăn dơ quấn đầu; y phục vỏn vẹn
một chiếc áo cộc vá hai chục mảnh khác màu nhau, với chiếc quần rách rưới, xẻ
tung ra từng miếng như cái váy.
Mẫu người dân vừa thấy, không cho cho chúng tôi một
cảm giác tốt đẹp. Khi ông già khốn khổ này đặt chân lên tầu, ông ta có vẻ cực
kỳ dao động, dáo dác nhìn bốn xung quanh trên boong tầu; rồi nhìn những khẩu
đại bác lớn, ngạc nhiên khi thấy nhiều người như thế. Nhưng điều làm cho ông
già chú ý nhất, đó là những cột buồm cao. Ông ta vật vã khóc lóc. Chúng tôi
phải hết sức dỗ dành cho ông ta yên tâm, ra dấu cho ông ta hiểu chúng tôi muốn
gì và tại sao lại bắt ông ta lên tầu. Lúc đó, ông già mới chỉ tay cho biết lối
vào vịnh, thật khó cho những ai không biết đường. Vì trời dông bão, phải đến
tối hôm sau chúng tôi mới vào được vịnh.
Lý do chính thức thúc giục chúng tôi vào cửa
sông Đà Nẵng, sau khi đã gặp bất trắc ở Côn Lôn, là tình trạng tồi tệ mà bệnh
sốt rét và kiết lỵ đã cướp đi nhiều người bệnh. Trong thời gian ở Batavia [Jacarta], hầu hết chúng tôi đều bị mắc bệnh. Bạn
càng hiểu mối lo âu và buồn bã của chúng tôi, khi được người thuyền trưởng tầu
Bồ Đào Nha, đỗ ở trong vịnh cho biết, ở Nam Hà đang có giặc giã nổi dậy, cả
nước đói, rằng ở đây chẳng có gì để cung cấp lương thực mà chúng tôi cần kíp
cả. Ông ta khuyên chúng tôi nên đi thẳng tới Macao, hơn là mất thì giờ chờ đợi
ở đây vô ích, có thể người ta sẽ hứa hão, nhưng ông ta biết chắc họ chẳng có
thể cung cấp gì nổi.
Nhìn tình trạng khốn khổ của ông già đánh cá, tình
trạng chung bề ngoài của nơi này, và sau cùng tất cả những gì chúng tôi nhìn
thấy xác nhận lời tường thuật đáng buồn của ông Manuel Duomé.
Rất ít người bản xứ đến gần hạm đội chúng tôi. Họ có
vẻ lo ngại và ngờ vực. Sau cùng, khi chúng tôi lên bờ, họ có ý tránh. Không một
ai đến tầu trao tặng chút thực phẩm nào cả, và chúng tôi cũng phải khó khăn lắm
mới mua được ở trên bờ vài con gà, một chút hoa quả và vài củ khoai sắn.
Tuy nhiên, ngay ngày thứ nhì, có chợ, đầy đủ hơn, và
vài ngày sau, biết chúng tôi trả đúng giá, bằng tiền tốt, họ đem đến rất nhiều
đồ ăn, hoa quả, rau cỏ, đủ loại.
Những vị chức sắc ở đây bắt đầu hiện diện, có chút ân
cần đối với những thỉnh cầu của chúng tôi và tỏ ra lịch sự, lễ độ. Sau cùng, họ
lên thăm chúng tôi trên tầu và mời tất cả sĩ quan tối hôm ấy lên bờ, dự tiệc.
Từ hôm đó, mối liên hệ của chúng tôi với dân tộc này,
trở nên thẳng thắn và bền vững; có sự tin cẩn lẫn nhau; sau này chúng tôi mới
khám phá ra một điều ít vẻ vang cho ông bạn Manuel Duomé: đó là, ông bạn, nhà
buôn Bồ Đào Nha này, vì cạnh tranh thương mại, đã chính ông, gây sự nghi ngờ
cho người Việt, bằng cách mật báo cho họ rằng: hạm đội Anh đến đây thế nào cũng
có ý gây chiến; và dường như anh ta đã hết sức tuyên truyền ý tưởng này, hy
vọng rằng người Việt sẽ đóng cửa chợ không bán gì cho chúng tôi, bắt buộc chúng
tôi phải nhổ neo, để một mình anh ta buôn bán ở miền bờ biển này" (Barrow II, t. 185-191).
Sự tuyên truyền của người Bồ để đuổi tầu Anh
Về việc thuyền trưởng Bồ, Duomé, vu khống tầu Anh đến
để chiếm Đà Nẵng, Barrow còn viết thêm:
"Chúng ta đang ở muà xuân năm sau, 1793, khi hạm
đội Anh, trên đường đi Trung Hoa, ngừng lại vịnh Đà Nẵng. Lúc đó, cả miền Đồng
Nai đã về tay vua chính thống. Kẻ soán đoạt Nguyễn Nhạc vẫn ở miền Trung; và
vương quốc Huế, bao gồm những đất phụ thuộc vịnh Đà Nẵng, được con trai của
Quang Trung cai trị, như tôi [Barrow]
đã nói ở trên, ngự ở Huế. Trong hoàn cảnh này, ta không ngạc nhiên, khi hạm
đội của chúng tôi đến, người bạn Bồ Đào Nha, Manuel Duomé, đã khéo lợi dụng
hoàn cảnh, để gieo mối lo ngại và ngờ vực, khiến chúng tôi không thể [ở lại
để] làm hại việc buôn bán độc quyền và bèo bở, của y với dân bản xứ. Hình
như, đầu tiên hết, họ tưởng chúng tôi phục vụ vua chính thức, từ Sài Gòn ra với
ý định chiếm Đà Nẵng. Trong sự tin tưởng như vậy, họ đã hội tụ gần thành phố
một binh đội đáng kể, với nhiều voi trận. Tình hình gay go này kéo dài trong
nhiều ngày, sau mới thôi." (Barrow II, t. 219- 220).
Sự kiện này chứng tỏ, có sự tranh chấp quyền lợi gay
gắt giữa những người Âu thời bấy giờ, để chiếm độc quyền buôn bán trước, rồi
chiếm thuộc địa sau. Họ không từ một thủ đoạn nào để "đuổi" nhau ra
khỏi những vùng mà họ cho là "mầu mỡ".
Thụy
Khuê
(Còn tiếp)
© Copyright Thuy Khue 2014
http://thuykhue.free.fr/stt/gl/Chuong04-Barrow-1.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét