Dùng lý lẽ gì có
thể bênh vực kẻ ăn cắp?
Vũ Hoài Nam
(Luật sư Vũ Hoài Nam hiện đang là nghiên cứu sinh tại đại học Sorbonnes-
Pháp)
N
|
gày 17 tháng 8 tôi đọc được bài
viết “Tác giả Trần Trương: “Thi Vân Yên Tử” không phải “đạo” văn” trên báo Công
An Nhân Dân online của tác giả Thanh Hằng mà thấy buồn cho báo chí nước nhà,
cho nền văn hóa của đất nước đang bị những giá trị ảo và sự dối trá hợm mình
ngự trị.
Chúng ta cũng
nên một lần nữa quay lại nội dung của câu chuyện để hiểu dụng ý của tác giả bài
báo trên: Chuyện là có ông tiến sỹ tên Thuận nào đó một ngày đẹp trời bỗng tức ( bực) cảnh sinh
tình ‘chơi” liền một lúc vài chục bài thơ sau đó in thành sách. Cuốn sách này
được “biếu” rất chạy, nhất là tại các chùa chiền (chắc vì thế có người bảo các
bài thơ có chất “thiền”?). Chưa thỏa mãn với cái danh nhà thơ tự phong của
mình, ông tiến sỹ nọ còn vận động Hội nhà văn đứng ra tổ chức cả một buổi hội
thảo “hoành tráng” và thuê một số bồi bút bốc thơ của ông lên tận mây xanh. Và
đỉnh điểm của sự vĩ cuồng đó là ông bê cả tập thơ trình lên hội đồng giải
Nobel, những mong làm rạng danh nền văn học nước nhà và lưu danh thiên cổ.
Hỡi ôi, “hữu
xạ tự nhiên hương’’, tập thơ của ông “được” lọt vào mắt xanh của những người
phê bình có lương tâm và thế là những hạt sạn, những sự quái gở từ giá trị nghệ
thuật, những nghi ngờ về khả năng chép tay của một con người bình thường đến vi
phạm niêm luật Đường thi trong tập thơ của ông được mổ xẻ đến nơi đến chốn. Tuy
nhiên điều đó “chả ăn thua” vì có người sẽ nói rằng thưởng thức nghệ thuật ở ta
giờ đây cũng như “thày bói xem voi” mỗi người đưa ra một ý kiến khác nhau là
chuyện …bình thường. Miễn bàn!
Cục diện trận
đấu dường như chưa biết “mèo nào cắn mỉu nào” thì đùng một cái, một bài báo của
một luật sư với các dẫn chứng rành rành cho thấy, ông Thuận đã gần như bê y
nguyên các nội dung trong một cuốn sách
đã xuất bản trước đó về Yên Tử để đưa vào thành “thơ” của mình. Lộ liễu và
trắng trợn đến nỗi, nhiều câu thơ ông ta chả cần biên tập lại làm gì cho…mệt,
chỉ cần “bẻ” và “ngắt” vài đoạn trong sách rồi sắp xếp cho đủ 5 hoặc 7 chữ là
thành “thơ”. Như vậy sự thật khách quan đã rõ: tập thơ là một sản phẩm ăn cắp
lộ liễu và trắng trợn. Thế là những
tiếng nói của người có lương tâm đồng loạt lên tiếng phê phán và cục diện trận
đấu gần như đã nghiêng hẳn về phía những tiếng nói có lương tri.
Bị tấn công
dồn dập, biết là khó có thể ngồi yên, phe “trót” bốc thơm cũng phải tìm biện
pháp đối phó. Sau khi bàn đi tính lại thì thấy còn mỗi một “cửa” là phản bác lại luận điệu của phe tấn công
cho rằng cuốn sách là tác phẩm “đạo” văn. Lập luận đơn giản của họ là trong mối
quan hệ giữa kẻ cắp và nạn nhân thì chỉ cần nạn nhân “bỏ qua” cho là kẻ cắp
thoát tội. Như vậy con bài họ sử dụng ở
đây là tác giả cuốn sách bị đạo thành thơ và trong sự việc này chính là nạn
nhân của việc ăn cắp.
Như vậy một
kịch bản gần như đã được dàn dựng, tác giả của cuốn sách đó là ông Trần Trương
(hiện là công chức nhà nước và giữ vị trí Phó Trưởng ban Dân tộc tỉnh Quảng
Ninh) đã được mời phỏng vấn chỉ đề khẳng định một điều là ông ấy không trách
chuyện ông Thuận lấy (cắp) văn của ông ấy để chuyển thành thơ. Từ đó tác giả
giật một cái tít dõng dạc khẳng định “Tác giả Trần Trương: “Thi Vân Yên Tử”
không phải “đạo” văn”. Đọc bài báo bỗng thấy tác giả là một người có trình độ quá
nông cạn, chỉ ở dạng một thợ viết hạng mới học nghề không hiểu được thâm ý
người trả lời. Tác giả nên biết rằng một người viết ra được những câu văn trong
cuốn “Chùa Yên Tử”- Lịch sử - Truyền thuyết di tích và danh thắng” thì không
phải là một con người bình thường. Tôi biết khi bỗng dưng bị cuốn vào những chuyện “bất đắc dĩ” thế này,
một con người có cái tâm lý cả nể như ông Trương chắc hẳn chẳng thiết tha gì.
Hơn nữa ông biết mọi người chỉ chờ mỗi ý kiến của ông nữa thôi là hội tụ đủ yếu
tố để đưa kẻ cắp lên đoạn đầu đài. Do vậy là một người thâm thúy (hoặc có thể
có một sức ép nào đó) ông biết nên trả lời thế nào cho “phải đạo”.
Và như người
đọc đã thấy, trong bài phỏng vấn ông không bao giờ trực tiếp cho rằng ông Thuận
đạo văn nhưng sao hình ảnh của một kẻ cắp cứ hiện ra lồ lộ ví dụ: “Tôi chỉ là
người viết văn ở địa phương, nhưng khi viết cũng luôn chú ý chắt lọc ngôn từ để
có nhạc điệu, hình ảnh, thì người khác, khi diễn tả về điều đó, cũng phải dùng
những hình ảnh, từ ngữ đó mới nói được.”
Từ “dùng” ông Trương nói ở đây là ngôn ngữ đời thường, nhưng trong ngôn
ngữ luật pháp thì đó chính là “sử dụng” mà “sử dụng” khi chưa được phép theo
quy định của pháp luật sẽ dễ bị coi như “ăn cắp” lắm đấy .
Tôi cũng xin
nói để tác giả biết rằng, là một tờ báo ngành công an thì ít nhiều cũng là một
cơ quan bảo vệ pháp luật. Do đó mọi kết luận của một tờ báo cũng phải dựa trên
chứng cứ khách quan và cơ sở pháp lý, chứ không sẽ bị coi là một sự kết luận hồ
đồ vô lối. Chỉ qua mấy câu nói của ông
Trương mà chị đã hùng hồn giật tít tuyên bố là “Thi Vân Yên Tử” không phải
“đạo” văn” thì chúng tôi e rằng kết luận của một cơ quan bảo vệ pháp luật mới
chỉ dựa trên “lời khai” của đương sự mà
bỏ qua mọi “chứng cứ khách quan” liệu có
đáng tin?
Còn chúng tôi,
đại diện cho những người ủng hộ quan điểm cho rằng tác phẩm Thi Vân Yên Tử là
một tác phẩm đạo văn dựa trên những chứng cứ khách quan sau đây:
Trước khi ông
Thuận “sản xuất” tập thơ “Thi Vân Yên Tử
“ (1998) thì ông Trần Trương đã cho xuất bản cuốn “Chùa Yên Tử - Lịch sử -
Truyền thuyết di tích và danh thắng” (1997) và tặng lại cho ông Thuận một cuốn.
Như vậy xét về mặt thời gian thì tập thơ của ông Thuận ra đời sau cuốn sách của
ông Trương. Xét về mặt nội dung tập thơ của ông Thuận thì có quá nhiều ý tưởng
và câu chữ trong tập thơ của ông Thuận được lấy từ cuốn sách của ông Trương.
Như vậy có thể nói ông Thuận đã bị cuốn sách của ông Trương lôi cuốn và tạo ra
nhiều “cảm hứng’ và ông Thuận quyết định ra một tập thơ dựa trên ý tứ và từ ngữ
lấy trong tập sách của ông Trương. Trong bài phỏng vấn ông Trương cho đó là
“bình thường” vì “Khi chúng tôi có sự đồng điệu trong tâm hồn, lại cùng viết
văn làm thơ tả cảnh, thì việc sử dụng ngôn ngữ chung để nói về một điều thì chả
có gì lạ! Một bên tôi diễn đạt thành văn, còn một bên, anh Thuận, diễn đạt
thành thơ, thì sự trùng lặp sao gọi là “đạo” được?”. Vâng, cứ cho suy nghĩ và
cách nói như ông Trương là để bảo vệ cho một người bạn thì chúng tôi hoàn toàn
tôn trọng ông về mặt tình cảm. Tuy nhiên xét về mặt pháp lý thì chuyện không
đơn giản như ông nghĩ, nhất là khi tập thơ của ông Thuận đã được in thành sách
xuất bản và được gửi đi tham gia giải Nobel thì vấn đề không nằm trong chuyện
tình cảm của hai ông mà nó liên quan đến tinh thần tuân thủ pháp luật và lòng
tự trọng của trí thức nước nhà.
Thưc tế pháp
luật về SHTT không cấm các tác phẩm dạng như tập thơ của ông Thuận. Khi
ông Thuận “sản xuất” tập thơ Thi Vân Yên
Tử năm 1998 thì lúc đó Bộ Luật Dân Sự 1995 đang có hiệu lực và lúc đó các tác
phẩm dạng như của ông Thuận được gọi là “tác phẩm phóng tác” (điều 147 khoản 1
BLDS 2005) . Tuy nhiên để được công nhận là tác phẩm “phóng tác” thì tác giả
của nó cũng phải tuân thủ trình tự và điều kiện
mà pháp luật quy định. Cụ thể, theo điều 757. khoản 1 BLDS 1995 auy định
về các quyền của tác giả dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể, theo
đó “ Tác giả các tác phẩm phóng tác, biên soạn, cải biên, chuyển thể được hưởng
các quyền tác giả đối với tác phẩm đó theo quy định tại Điều 751 hoặc Điều 752
của Bộ luật này, nhưng phải được tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm gốc cho phép
và phải trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm gốc, nếu muốn thay đổi
nội dung tác phẩm gốc, thì phải được tác giả cho phép và phải ghi tên tác giả
và tên tác phẩm gốc”.
Như vậy muốn
phóng tác tác phẩm của ông Trương thành thơ thì theo luật ông Thuận phải “xin
phép” ông Trương, đồng thời ông Thuận phải “trả thù lao” cho ông Trương và ghi
rõ là tác phẩm được sáng tác dựa theo tác phẩm gốc thì mới được công nhận là
tác giả một cách hợp pháp.
Ở đây chúng ta
có thể “thông cảm” cho việc ông Thuận sản xuất thơ với mục đích để “biếu” nên
có thể bỏ qua chuyện “tiền nong” (với lại bạn bè mà!) nhưng tuyệt nhiên không
thấy việc ông cất lời nói với ông Trương là cho (phép) mình được sử dụng ý và
lời trong sách của ông để phóng tác (tái chế) thành thơ và không ghi tác giả và
tác phẩm gốc đã tạo cảm hứng cho mình. Như vậy cũng nên xem xét lại tư cách một
người tự xưng là “nhà khoa học” khi không đếm gì đến liêm sỉ của một kẻ làm
nghiên cứu khoa học chân chính.
Đôi điều cùng
tác giả Thanh Hằng
Vâng, thưa tác
giả Thanh Hằng, một người vào nhà chị thấy đồ vật gì đó “hay hay” thì cầm luôn
không hỏi ý kiến của chị sau đó “mông má” lại và đi khoe khoang bảo rằng đó là
“của mình” thì có được gọi là “ăn cắp” hay không? Nếu cứ nói như chị thì xã hội
mình tốt đẹp quá, tìm đỏ mắt cũng chẳng ra một thằng ăn cắp dưới mắt nhìn của
báo CAND Lập luận của chị như thế mà vẫn thuyết phục (lừa) được ông tổng biên
tập báo hay sao.
Vâng, có thể
dưới con mắt của một số người như ông Trương, như chị, như báo CAND thì ông
Thuận không phải thằng “ăn cắp”, nhưng với đa số những người có lương tri như
chúng tôi, bằng chứng cứ khách quan và suy luận logic của mình thì ông Thuận
không những là một kẻ cắp mà còn là một kẻ cắp mạt hạng nữa cơ (vì ăn cắp cũng
có nhiều loại ăn cắp chị ạ).
Chị cũng nên
nhớ rằng có hai loại pháp luật là pháp luật tự nhiên và pháp luật do con người
dựng nên trong đó pháp luật tự nhiên mà ta thường gọi là lẽ phải, là công lý sẽ
vượt lên trên tất cả những pháp luật nhân tạo (nhiều khi mang tính bất nhân do
con người tạo nên). Pháp luật nhân tạo
có thể không xử lý ông trọc phú Thuận
một cách thích đáng nhưng tôi tin rằng pháp luật tự nhiên sẽ trừng phạt ông ấy
và nỗi ô nhục này có thể mang theo ông ấy suốt đời này sang đời khác nếu ông ấy
không sớm tỉnh ngộ.
Còn về phần
chị, nếu chỉ bênh vực một con người ở dạng cá nhân thì không nói làm gì nhưng
chị mượn tên tuổi một tờ báo để thể hiện quan điểm bảo vệ cái xấu, cái ác một
cách trơ trẽn thì tôi e rằng chị đã làm xấu hổ bao nhiêu con người khác của báo
CAND nói riêng và của những người đã từng là độc giả của tờ báo này rồi đấy.
Chuyện ông Thuận bây giờ không chỉ là chuyện nội bộ của Hội nhà văn nữa khi mà
ông ấy đã gửi hồ sơ lên hội đồng giải Nobel rồi thì chắc chắn họ sẽ kiểm tra
nghiêm ngặt về quyền tác giả. Và chỉ cần một phép kiểm tra đơn giản nhất họ
cũng biết được tập thơ này là sản phẩm “ăn cắp” như thế nào. Và nếu không nhầm
thì đây là lần đầu tiên Việt Nam có tác phẩm dự giải thưởng Nobel trong lịch sử
thì cũng có thể sẽ là lần đầu tiên có tác phẩm được trao giải “Ben nô” dành cho
tác phẩm “đạo văn”. Ngoài ra, biết đâu một ngày chị thành nhà văn nổi tiếng và
có tác phẩm dự giải thưởng Nobel, nếu thấy quốc tịch chị là Việt Nam họ sẽ bắt
chị viết câu cam kết đầu tiên trong hồ sơ Dành cho các ứng viên đến từ Việt Nam
“tôi cam đoan tác phẩm này là chính tôi sáng tác, không phải là một sản phẩm
đạo văn” có khi chị lại phải bật lên câu “nhục thế ” mà đó chính là kết quả của
sự bao che ngụy biện như bài báo của chị hôm nay đấy chị ạ.
Đôi điều cuối
với ông Trần Trương
Ông có thể bảo
vệ ông Thuận bạn ông theo cách của ông nhưng tôi xin nhắc lại với ông rằng ông
đừng mạo muội đem so sánh ông Thuận với đại thi hào Nguyễn Du ông nhé vì như
thế khó lọt tai lắm. Với Nguyễn Du thì “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng
ta còn thì nước ta còn” còn ngược lại với ông Thuận kia nếu “Thi Vân Yên Tử còn
thì trí thức nhục mà trí thức thấy nhục là đất nước không yên đâu, ông ạ!
Paris, ngày 19 tháng 7 năm 2012
V.H.N.
Chúng ta phỉ nhổ tên Thuận, bởi trong thâm sâu tâm hồn mỗi trí thức Việt hiện nay đều có một tên Thuận ẩn nấp, một tên Thuận đã trở thành di căn trong mỗi chúng ta. Nếu gọi Thuận là điếm thì kẻ dắt gái vụ này là tên thi sỹ Dương Kỳ Anh, kẻ chơi gái Thuận mà vẫn được tiền là tên Hữu Thỉnh, Hữu Ước, những kẻ đứng ngoài vỗ tay có thưởng điển hình là Hữu Việt con Hữu Mai, Đỗ Ngọc Yên vốn xưa ở Viện Triết học, và đặc biệt có một bàn tay khác bẩn thỉu mang danh hàn lâm của tên PGS.TS. Viện phó Viện Văn học Nguyễn Hữu Sơn, v.v...
Trả lờiXóaChúng ta phỉ nhổ tên Thuận chính là ghê tởm, phỉ nhổ cái phần điếm mang tên Hoàng Quang Thuận trong mỗi người Việt còn tý chút tự trọng, còn tý chút nhân cách, có tí chút được dạy dỗ còn dớt lại từ thuở hồng hoang nào đó xa xăm. Hoàng Quang Thuận là phần tăm tối bẩn thỉu nhất trong tâm hồn Việt.
Nguyễn Văn Cảnh