KÝ ĐINH QUANG ANH THÁI, NHỮNG KIẾP PHONG TRẦN...
Đặng Văn Sinh
Lần đầu được đọc tập ký hoàn chỉnh của nhà
báo Đinh Quang Anh Thái, một tác giả người Việt hải ngoại, tự nhiên trong đầu
tôi nảy ra sự so sánh với hàng ngàn vạn bài ký “mậu dịch” của hơn tám trăm tờ
báo dưới sự chăn dắt của Ban Tuyên giáo Trung ương. Hóa ra, đó toàn là những
sản phẩm đồng phục được chế tác bởi những tác giả, qua sự đào luyện của hệ
thống trường ốc, trong đó, cá tính đã được mài nhẵn, tư tưởng được kiểm soát
chặt chẽ, mọi phản biện xã hội đều bị giới hạn trong phạm vi cho phép, vì thế,
cái gọi là ký ấy chỉ là những văn bản véo von ca ngợi, tự sướng của những cây
bút thủ dâm chính trị, tự huyễn hoặc mình. Loại báo chí ấy chẳng những không có
lợi, mà trái lại, rất có hại, bởi nó thực chất là dối trá, lừa phỉnh nhân quần.
Dẫn chứng thì không thiếu, chỉ xin nêu ra trường hợp “Trong xà lim án chém”
(hồi ký của Phạm Hùng) và “Bất khuất”(hồi ký của Nguyễn Đức Thuận), mà chính
người được giao trách nhiệm viết là nhà văn Trần Đĩnh đã hơn một lần khẳng định
là bịa đặt theo sự chỉ đạo...
Vì thế, tiếp cận ký Đinh Quang Anh Thái,
người đọc nhận ra ngay, nó thuộc một hệ hình thẩm mỹ khác, một đẳng cấp khác,
cho dù văn bản vẫn nằm trong phạm trù Chủ nghĩa Hiện thực cổ điển mà những nhà
văn Việt Nam tiền chiến viết rất thành công như Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng, Tam
Lang...
Viết ký dễ mà lại khó. Dễ là viết theo
kiểu “người tốt việc tốt” ăn theo Nghị
quyết. Ai cũng có thể làm được miễn là đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ. Khó là
cần có một tư tưởng nào đó, một cá tính riêng biệt, và cuối cùng là chất văn.
Ký dù là báo chí hay văn chương, không có “văn” là vứt.
Theo tôi, ký Đinh Quang Anh Thái sống được
trong lòng độc giả là bởi, trước hết nó có tư tưởng, trong đó, bao hàm cả tư
tưởng thẩm mỹ bằng thứ văn mang đậm phong cách cổ điển, sang trọng, lịch lãm và
cô đọng. Văn bản của Đinh Quang Anh Thái dồn nén, đậm đặc đến mức hàm súc khiến
người đọc lắm lúc tiếc nuối bởi ông tỉnh lược đến mức tối đa những chi tiết,
tình tiết đáng lý ra phải được trình bày kỹ lưỡng cho dù nó chưa hẳn là cần
thiết. Trong ký, có một sự nghịch lý là, đôi khi những sự kiện không mấy quan
yếu lại tạo cho tác phẩm một sức hấp dẫn, một trường liên tưởng dẫn dụ người
đọc khám phá giá trị ngoài văn bản.
Đinh Quang Anh Thái có thế mạnh để viết
ký. Trước hết, ông đã từng lớn lên trong một chế độ xã hội tương đối cởi mở,
được tiếp cận một nền giáo dục khai phóng, không bị nhồi sọ những tư tưởng giáo
điều. Thứ nữa, ông đã từng là một chính trị phạm với hơn 6 năm bị đày đọa trong
các nhà tù “Bên thắng cuộc”. Vì thế, ông hiểu đến chân tơ kẽ tóc bản chất của Chủ
nghĩa Cộng sản kiểu Staline và Mao Trạch Đông. Trong cái rủi có cái may. Về một mặt nào đó, có thể nói, đây là môi
trường tuyệt hảo để ông múa bút viết những thiên hồi ký thấm đẫm tinh thần nhân
văn như “Nhớ thương cậu Tiến” hay “Bác Năm Tường Phi Lạc náo Chí Hòa”.
Cũng như “Nguyễn Tất Nhiên, chiếc quần mới
và bữa thịt chó cuối năm cũ” hay “Đỗ Ngọc Yến, con người bí ẩn”, các bài về Như
Phong Lê Văn Tiến hay Hồ Hữu Tường đều là tác phẩm ký họa chân dung nhưng mỗi
bài tác giả lại có cách diễn dịch riêng, khi thì khái quát, khi lại rất chi
tiết, cụ thể chỉ với mục địch khắc họa cho được cá tính nhân vật, đặc biệt là
nhân vật lớn có tầm ảnh hưởng trong xã hội.
Sự độc đáo của các nhân vật ấy lại được
tác giả chọn đúng hoàn cảnh nên hiệu ứng thẩm mỹ càng tăng lên gấp bội. Ấy là hoàn
cảnh trong tù. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Phải đặt vào tình trạng
cùng quẫn như thế ta mới thấy nhân cách của họ “cùng tắc biến” như thế nào. Chi
tiết bác Năm Tường nâng tô canh tù sứt mẻ lõng bõng nước húp cũng như phải chia
đều gói đậu phộng rang muối ít ỏi cho nhiều bữa ăn mới thấy chế độ nhà tù Cộng
sản khắc nghiệt, coi thường tính mệnh và nhân phẩm con người như thế nào.
Về mặt phương pháp sáng tác, ký Đinh Quang
Anh Thái không thiên về đổi mới hình thức, thậm chí còn cổ điển hơn cả cổ điển,
nhưng về nội dung biểu đạt, tác giả đã “kể” về nhân vật của mình thông qua một
hệ giá trị mới mà trọng tâm là sự trung thực đến tận cùng, tính nhân bản và
nhất là tạo được một dòng chảy ngầm chuyên chở tư tưởng thẩm mỹ. Bởi lẽ, ký
Đinh Quang Anh Thái luôn lược bỏ những chi tiết rườm rà, chỉ giữ lại phần tinh
chất, nên khi đọc, ta phải đào bới vào chiều sâu không gian, thời gian, thậm
chí cả chiều sâu tâm lý nữa mới nhìn ra bản chất sự kiện.
Cách “kể” của Đinh Quang Anh Thái cũng
không có gì khác người, chủ yếu vẫn nương theo trình tự thời gian tuyến tính
kết hợp với những đoạn hồi tưởng, nhưng ông toàn chọn được những chi tiết đắt
làm xương sống cho bài viết của mình. Với ký, càng nhiều chi tiết đắt tác phẩm
càng sáng giá. Chính vì thế, cái làm nên diện mạo Nguyễn Tất Nhiên đọng lại
trong ký ức chúng ta tất yếu phải là giấc mộng Nobel văn chương và bữa thịt chó
cuối năm bằng số tiền bán chiếc quần ông bố mới mua cho. Cái chết của Nguyễn
Tất Nhiên sau khi đã vượt biên sang Mỹ cũng là một bi kịch của lớp trí thức bị
sang chấn tinh thần sau khi đã nếm trải đủ nỗi cay đắng của một kiếp người nơi
cố quốc.
Cũng như vậy, hai nhân vật thuộc vào hàng
tinh hoa dân tộc, trí tuệ mẫn cán, nặng lòng với vận mệnh đất nước là Lê Văn
Tiến và Hồ Hữu Tường, được tác giả viết với thái độ vô cùng trân trọng nhưng
đâu đó vẫn chen vào những dòng hài hước, phúng dụ về sự hoang tưởng hay quá tự tin vào bản thân mà
chưa nhìn nhận thấu đáo về hiện trạng xã hội. Theo tôi, nguyên nhân là bởi, cả
hai ông đều sống dưới chính thể Việt Nam cộng hòa, ít nhiều đã được hưởng không
khí dân chủ, tự do bày tỏ chính kiến của mình mà không hiểu được bản chất của
nhà nước độc tài toàn trị núp dưới danh xưng “Chủ nghĩa xã hội”. Đó là một thể
chế chính trị luôn phủ nhận những giá trị phổ quát của nhân loại tiến bộ, chưa
bao giờ tôn trọng những giá trị cơ bản của con người, và, điều cốt lõi là, họ
không bao giờ chịu nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho bất thế lực chính trị nào. Những dự án về tương
lai đất nước của Lê Văn Tiến hay Hồ Hữu Tường thật ra đều chỉ là giả định.
Đương nhiên hai ông không phải là chính khách xa lông nhưng vì không hiểu thời
cuộc nên cách hành xử giống như chính khách xa lông.
Câu chuyện về Lê Văn Tiến và Hồ Hữu Tường
là những chuyện buồn, một người chết bởi chế độ hà khắc của nhà tù trong nước,
một người chết nơi tha hương, đều đươc tác giả kể lại với tư cách người trong
cuộc nên có độ tin cậy cao qua những chi tiết đắt giá. Chẳng hạn như chuyện
“bắt gà” trong trại giam. Từ chuyện “bắt gà" chuyển trại, chúng ta hiểu
thêm được cách thủ tiêu trọng phạm cũng như sự xáo trộn luân chuyển qua các
trại giam cách xa nhau là một chủ trương đã được lên kế hoạch từ cấp có thẩm
quyền, chỉ với mục đích cô lập, khuất phục làm tiêu ma ý chí phản kháng của người
tù. Trong hoàn cảnh bi đát như vậy mà Lê văn Tiến, Hồ Hữu Tường vẫn ung dung tự
tại, vẫn lạc quan truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ để họ tiếp tục đấu tranh vì một
Việt Nam tươi sáng trong tương lai thì quả là đáng kính phục. Đúng là bạo quyền
không khuất phục được những nhân cách lớn.
Với những người bạn cùng trang lứa thì
ngòi bút Đinh Quang Anh Thái đôi khi
nhấn mạnh vào những tính cách khác thường, có khi nghiêm túc nhưng cũng
không hiếm trường hợp tỏ ra hài hước. Câu chuyện Nguyễn Tất Nhiên mê con gái
Bắc Kỳ đến nỗi phải làm thơ để ký thác “lời nguyền truyền kiếp” là một ví dụ
khá điển hình. Còn Đỗ Ngọc Yến, “cháu Đỗ Mười” thì đúng là “con người bí ẩn”.
Chính con người lịch lãm, lễ phép ấy đã đặt nền móng cho “Người Việt”, tờ báo
lớn của cộng đồng người Việt Hải ngoại mà sau này Đinh Quang Anh Thái là người
trong ban quản trị. Theo tác giả, Đỗ Ngọc Yến là một tài năng thiên bẩm, giỏi
biện thuyết, giỏi lập kế hoạch, là kẻ tử thù trong mắt những người Cộng sản
nhưng lại có tật... đánh trống bỏ dùi. Với Đinh Quang Anh Thái, dù là vĩ nhân
cũng không bao giờ hoàn hảo, bởi như thế mới chính là con người. Tôi cho rằng,
đó là bản lĩnh của người cầm bút chân chính.
Ngoài những chân dung nhân vật từng sống
dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, hoặc bị tù đày sau khi Sài Gòn thất thủ, hoặc đã
vượt biên đến xứ sở tự do, được khắc họa từ nhiều góc độ khác nhau làm nổi bật
tính cách của họ như một kỷ niệm khó quên, Đinh Quang Anh Thái còn có những
trang hồi ký về cộng đồng lưu học sinh hay công nhân lao động miền Bắc trên đất
Đông Âu hay nước Nga sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Về mặt này, phải ghi nhận
tác giả là một tay lãng tử, một kẻ theo chủ nghĩa xê dịch còn hơn cả Nguyễn
Tuân. Chỉ riêng việc, đã nhiều lần, cứ vào dịp cuối năm, Đinh Quang Anh Thái
lại sang Tiệp ăn tết với đám bạn bè thậm chí chưa biết mặt cũng đã làm chúng ta
ngả mũ cúi chào.
“Đêm giao thừa trên đất Tiệp” và “Về một
chuyến đi Nga” là hai thiên ký sự nói về cuộc sống của cộng đồng người Việt sau
khi hệ thống Xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ và nước Nga Xô Viết giải thể sau
74 năm tồn tại. Khác với nguời Việt thuyền nhân trên lãnh thổ Hoa Kỳ, người
Việt Đông Âu và nước Nga thời Hậu Cộng sản hầu hết là lớp trẻ, trước khi “xuất
ngoại” đã được sàng lọc về thành phần giai cấp, “lý lịch trong sạch” và lập
trường cách mạng kiên định, nhưng sau một thời gian tiếp xúc với nền văn hóa,
văn minh nước sở tại, họ mới nhận ra rằng, hệ thống truyền thông đồ sộ trong
nước đã làm cho người dân ngu đi. Vậy là họ tự phản tỉnh, tự diễn biến, tự
chuyển hóa. Họ cũng tham gia biểu tình, cũng ra báo cổ xúy cho “Cách mạng Nhung”.
Quá trình vận động dân chủ Đông Âu đã thức tỉnh người Việt, thậm chí một Bí thư
chi bộ, xuất thân từ một gia đình “có truyền thống cách mạng” lại là người hăng
hái nhất chủ trường tờ “Điểm tin báo chí”, hay một anh bạn dân tộc thiểu số
Nông Đình Bửu còn giải thiêng thần tượng bằng bài hát “chế” trong đó có câu
“Bác kính yêu đang cùng bác gái hành quân” rồi rú lên “đéo tin thì thôi”.
Cũng qua các thiên ký sự, người đọc thấy
được thân phận người Việt xa xứ đầy bất trắc, mỗi người một số phận, và cũng
không hiếm trường hợp bế tắc phải tìm đến cái chết để giải thoát như Cù Lần
Trần Hồng Hà kết thúc cuộc đời bằng cách treo cổ trong một khu rừng gần Praha.
Qua cách kể của Đinh Quang Anh Thái, hẳn
là có dụng ý nhưng không phải ai cũng nhận ra về sự khu biệt giữa người Việt ở
Nga và người Việt Đông Âu. Các nước Đông Âu Xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế khá
hơn, công nghiệp tiêu dùng phát triển hơn nước Nga Xô Viết nên con người sống
bớt nhếch nhác hơn. Và điều cơ bản là, ý thức đấu tranh dân chủ của Đông Âu
mạnh hơn Nga Xô Viết, tác động sâu sắc hơn đến tâm lý người Việt. Chính vì thế
Đông Âu (bao gồm cả Đông Đức) mới có “Cánh én”, “Diễn đàn” rồi “Điểm tin báo
chí”...
Trong khi ấy, nước Nga Xô Viết, sau khi
tan rã, cuộc sống cộng đồng người Việt vô cùng phức tạp. Chỉ riêng chi tiết tác
giả bay từ Mỹ sang mà không tìm được đồ ăn ngay cả trong khách sạn bốn sao tại
thủ đô Moscou cũng làm người đọc giật mình về sự nhếch nhác của một cường quốc
từng cầm đầu phe Xã hội chủ nghĩa.
Những đáng sợ nhất vẫn là những hệ lụy
phát sinh sau khi chính thể Xã hội chủ nghĩa Liên Bang Xô Viết cáo chung. Tệ
nạn tham nhũng hoành hành ngay tại phi trường quốc tế. Nhân viên hải quan, nhân
viên an ninh vòi ngoại tệ, bọn lưu manh được công an bảo kê bắt chẹt khách,
chúng sẵn sàng đâm thủng lốp taxi, thậm chí giết người mà vẫn vô can. Trong
khách sạn thì nhân viên lễ tân kiêm gái điếm, chèo kéo khách bằng ngoại tệ mạnh
với giá trên trời. Nước Nga trở thành một nhà nước vô chính phủ do bọn mafia
điều hành. Đó chính là nguyên nhân, đồng thời cũng là động lực để cộng đồng
người Việt biến ốp Búa Liềm thành một
cái chợ tạp pí lù với đủ loại hình kinh doanh kể cả nấu rượu lậu, thịt chó và
gá bạc. Các mánh khóe làm ăn của người Việt tại nước Nga thời Hậu Cộng sản nổi
tiếng đến nỗi, một phụ nữ Nga, cô Janna Menshikova đã phải thốt lên khi tác giả hỏi về đồng bào mình: “Có chứ, chẳng có gì tốt đẹp về họ cả. Buôn chui bán
lận, gấu ó lẫn nhau là tất cả chuyện về họ”.
Nhưng thật ra, “Về một chuyến đi Nga”,
Đinh Quang Anh Thái không chủ trương nói về người Việt mà chỉ dùng người Việt
như một nhịp cầu để phản ánh về một nước Nga tàn tạ, suy sụp bởi hiệu ứng
domino “Bức tường Berlin sụp đổ”. Chỉ cần nhìn qua 5 tiểu mục người đọc dễ dàng
nhận ra điều này: “Aeroflot: Một lần cho biết”, “Intourist: Có tiền mua tiên...
thì được; thực phẩm... thì không”, “Ốp Búa Liềm: Một khía cạnh sinh hoạt của
người Việt trên đất Nga”; “Ở tận sông Hồng em có biết... quê hương Nga hổng có
gì ăn”; “Quảng Trường Đỏ và phố Arbat”. Ở mỗi tiểu mục như vậy, tác giả đều ghim
một điểm nhấn qua cái nhìn khái quát về thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội Nga
vào lúc chính trị khủng hoảng. Ở đó, trong mọi lĩnh vực sinh hoạt, đồng rouble mất
giả thảm hại, người Nga đói ăn, bất chấp sĩ diện, coi “tờ xanh” (dollar) như là
biểu tượng của nền văn minh thế giới nhưng vẫn biểu tình và rủ nhau giật đổ
tượng đài Lenine.
Ký Đinh Quang Anh Thái luôn có cái nhìn sắc
sảo bằng cặp mắt của người từng trải, hiểu rộng, biết nhiều nhưng khi viết
không bao giờ cực đoan mà ngòi bút luôn độ lượng ngay cả với những kẻ đã hành
hạ mình trong nhà tù Cộng sản. Văn ông đầy nội lực nhưng không đao to búa lớn, đầy
tâm trạng nhưng lại hóm hỉnh trào lộng tạo nên sự liên tưởng đa chiều về kiếp
người trong cõi nhân gian dâu bể. Qua những trang văn, dù là thấp thoáng vài
chân dung bạn bè tha hương hay những con số thống kê cơ học về một xã hội tôn
sùng bạo lực, giam cầm, đày ải chính công dân của mình, chúng ta đều nhận ra
phẩm chất đáng quý của một người cầm bút có trách nhiệm với đất nước và dân tộc
Việt Nam.
Sống ở miền đất hứa, quyền con người được tôn
trọng đến mức tối đa nhưng Đinh Quang Anh Thái không quên Tổ Quốc, cho dù chính
mảnh đất quê hương đã buộc ông phải trở thành “thuyền nhân”.
Chí Linh, 10.7.2019, những ngày hè nóng
bỏng
Đ.V.S.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét