Nhãn

Thứ Bảy, 2 tháng 3, 2019

RƯỢU THI NHÂN, CÁI NGÔNG TÚY LÚY CÀN KHÔN




Đặng Văn Sinh


Những ngày cuối cùng của năm Mậu Tý, Nguyễn Lâm Cẩn trình làng tập thơ mới “Rượu thi nhân” do nhà xuất bản Hội Nhà văn cấp giấy phép. Đây là tập sách thứ chín của nhà thơ Xứ Nghệ, một thi phẩm khá độc đáo bởi tất cả đều có chung một chủ đề RƯỢU.
Tập thơ gồm 59 bài, trong đó 40 bài lục bát, 19 bài còn lại là thất ngôn, ngũ ngôn hoặc thơ tự do. Tuy cùng một nội hàm “rượu” nhưng cấu trúc văn bản và phong cách diễn đạt là “mỗi bài một vẻ”, mỗi bài đều có ít nhất một tứ chuyển tải tư tưởng thẩm mỹ đến với người đọc.

Nguyễn Lâm Cẩn viết thơ ở nhiều thể loại, loại nào cũng có những bài xuất sắc nhưng sở trường của ông phải kể đến lục bát. Là người Xứ Nghệ nhưng Nguyễn Lâm Cẩn sống và làm việc khá lâu ở đất cảng Hải Phòng. Mà Hải Phòng lại thành phố có lắm anh tài về lục bát như Phạm Xuân Trường bố, Phạm Xuân Trường con, Đồng Đức Bốn… Ngoài sự trùng lặp ngẫu nhiên, rất có thể còn yếu tố tâm linh. Phong Thủy thành phố Hoa Phượng từ lâu đã đào luyện nên các chuyên gia lục bát.
Từ xa xưa, rượu vốn đã là chất liệu của thi ca. Rượu và thơ trở thành cặp đối ứng hay song sinh vừa là khách thể vừa là chủ thể của các tiên thi, thánh thi thời Đường, Tống. Lý Bạch, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Thôi Hiệu, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị…, đều có những áng thơ rất đáng nể về rượu. Rượu, từ một thực thể vật chất dần dần trở thành một thứ phi vật thể mang tính ước lệ tham gia vào quá trình hình thành văn bản thơ như một chất men kích thích óc sáng tạo. Bài “Ẩm tửu khán mẫu đơn” của Lưu Vũ Tích, “Nguyệt hạ độc chước”,“Tương tiến tửu” và “Bả tửu vấn nguyệt” của Lý Bạch ít nhiều đều mang tinh thần trên.
Không gian của rượu và thơ, cho dù là thơ hiện đại, bao giờ cũng mang dáng vẻ trầm mặc, trang trọng, u nhã. Nó như một vũ trụ thu nhỏ, tạo sự khởi phát cho vần, tứ và hình ảnh trong sự liên tưởng đến thế giới nội tâm cũng như ngoại cảnh.
Đương nhiên, cho dù với danh nghĩa nào thì chủ thể của những bài thơ rượu vẫn là tác giả. Cái tôi trữ tình trong “Rượu thi nhân” luôn bất biến nhưng khách thể thì lại khả biến. Trong miền chữ nghĩa, Nguyễn Lâm Cẩn rong chơi như một kẻ lãng du, lách vào tận nơi sâu thẳm tâm hồn tìm tri âm tri kỷ hay đảo ngược hành trình hướng ngoại, tri nhận thế giới con người, thế giới đồ vật, hoa lá cỏ cây bằng con mắt… NGÔNG! Vì thế, ta có thể xem “Rượu thi nhân” là tập thơ thế sự mà trong đó cảm hứng chủ đạo là những diễn ngôn về nhân tình thế thái ở thời mạt pháp, là sự suy thoái đạo đức truyền thống, sự băng hoại các giá trị văn hóa.


1 – TÂM THẾ CỦA CHỦ THỂ TRỮ TÌNH
Nhất định là, tâm thế của chủ thể tập thơ phải là tâm thế của kẻ sĩ. Từ tư cách này, rất có thể, tác giả nhìn cuộc thế đảo điên qua màn sương mờ ảo của hơi cay. Đây là thứ rượu được chưng cất từ nhiều nguyên liệu quý, và qua năm tháng ủ trong tiềm thức hay linh giác, nay đã chuyển hóa thành… rượu thi nhân.
Tác giả ở đây vừa là chủ thể tự sự, chủ thể cảm xúc vừa là chứng nhân lịch sử, lặn sâu xuống đáy cuộc nhân sinh để mà trải nghiệm. Vì thế, mỗi câu thơ của ông đều được rút ra từ gan ruột, thẫm đẫm mồ hôi và nước mắt của kiếp người. Đó dường như còn là tâm thế của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu “Tài cao phận thấp chí khí uất/Giang hồ mê chơi quên quê hương”, bởi cuộc đời hiện hữu đầy sự vô lý, những thứ rều rác thì ngoi lên làm kẻ giầu sang phú quý, còn con người thật, tài cao chí lớn lại biến thành rều rác trôi nổi.
Cái nhìn cuộc đời của Nguyễn Lâm Cẩn qua “con mắt thơ” khi cơn NGÔNG kịch phát thì nghiệt ngã, khinh bỉ, nhưng lúc trở về với tâm trạng thư thái lại xót xa, yêu thương đến tận cùng của một tâm hồn trân trọng những giá trị sống. Như một kẻ sĩ chân chính, một bậc quân tử đúng nghĩa, Nguyễn Lâm Cẩn đốt cháy đến tận cùng nguồn năng lượng, say đến mức túy lúy càn khôn và yêu cũng đến tận cùng những thứ mà trời đất ban cho.
Đấy chính là tư cách của người nghệ sĩ không bao giờ khom lưng trước cường quyền, không bán rẻ linh hồn để mang về những thứ hão huyền.


2 – CÁI NGÔNG
Lục bát Nguyến Lâm Cẩn gần như đạt đến cảnh giới thượng thừa của nghệ thuật thi ca. Thơ ông vừa “dĩ ngôn chí” vừa "dĩ ngôn tâm". Hai yếu tố “ngôn chí” và “ngôn tâm” tạo thành một chỉnh thể cân đối hài hòa. Không ít bài lục bát, Nguyễn Lâm Cẩn nhìn đời một cách cao ngạo cho dù lúc nào tác giả cũng chọn cho mình một vị trí đứng khá khiêm nhường trong đám nhân quần ở nấc thang tận cùng xã hội (“Mơ hầu rượu cụ Tản Đà”, “Chiều Vinh nâng chén bạn mời”, “Đêm rượu”,, “Say” 2). Nhưng phần lớn thi nhân vốn luôn nhạy cảm trước thời cuộc. Họ có lối tư duy khác người thường, đôi khi lập dị nhưng luôn có những dự cảm mới mẻ về thời cuộc, không chịu bó buộc trong vòng cương tỏa của những thiết chế độc tài toàn trị.
Một trong những biểu hiện của cái "ngông" là sự giễu cợt bằng ngôn ngữ và hình ảnh thơ. "Ngông" ở cấp độ cao sự giễu cợt càng đậm đặc. Chính cách nói bằng hình tượng ấy đã làm không ít “đối tượng” nhảy cẫng lên như bị ong chích mà vẫn phải nuốt bồ hòn làm ngọt. “Ngông” còn có một cách giải thích nữa là sự khác đời, đặc biệt là ở phương pháp luận về cách nhìn nhận thế giới khách quan. Tuy nhiên trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ bàn đến cái "ngông" trong thơ. Lại nữa, cái "ngông" tuyệt nhiên không ở người thơ mà nó toát lên từ toàn bộ cấu trúc văn bản thông qua tứ thơ, vần điệu thơ, hình ảnh thơ và nhất là khí thơ.
Một trong những chỉ dấu của “thi pháp ngông" của Nguyễn Lâm Cẩn là ông mời rượu đủ các đối tượng từ những tiên thi, thánh thi đã thành người thiên cổ cả ngàn năm trước đến bạn bè đồng trang lứa, thậm chí còn có những cuộc rượu càn khôn túy lúy với bạn vong niên. Bên chén rượu, mà cũng rất có thể chỉ là biểu tượng rượu, những ý tưởng đột nhiên xuất hiện như một ân huệ trời cho, khoảnh khắc được bài thơ "ngông" để đời (“Khóc Hòa Vang”, “Rượu tri âm”, “Mời rượu thằng đời”, “Lục bát thằng Bờm”):
Tôi, Vang hai đứa cùng hèn
Bút nghiên đèo đẹt ngọn đèn li ti
Văn chương là cái chi chi
Mà đầu lõm xuống bò quỳ… bốn chân!
Dấn thân vào chốn nợ nần
Trả vay vay trả cù lần đó thôi!
(Khóc Hòa Vang)
Khách thể của tác giả còn thấp thoáng bóng giai nhân, lúc là người vợ tảo tần, lúc là người tình tưởng tượng, lúc lại là một người đẹp thoáng qua giữa đám chúng sinh bụi bặm. Họ được mời nâng chén như một tri âm tri kỷ, làm nền cho bức tranh ngôn từ điểm xuyết bằng những thanh âm trầm lắng và sắc màu huyền ảo lúc xuân sang (“Mời rượu em”, “Lục bát xin em”, “Rượu với hoa mai”, “Chén rượu đầu năm”). Và đây là những vần thơ rất trẻ cho dù người viết đã vào cái tuổi “cổ lai hy”:
Rượu xuân ta rót mời mình
Ấy là thuốc lú đựng bình bùa mê
Cạn ly quên phắt đường về
Khư khư buộc chặt lời thề cổ tay.
(Mời rượu em)
Rượu chay giọt giọt… em ơi
Cái say chắt gạn…lời mời làm sang
Chén cay khi đã tàng tàng
Ơ hờ chạm vía mỏng tang.. vẫn tình.
(Mời rượu em)
Sự khác người trong “Rượu thi nhân” còn được ghi nhận ở động thái Nguyễn Lâm Cẩn giao tiếp với thế giới tự nhiên qua cái cách ông mời rượu núi, mây, gió, trăng, mùa xuân…Tất cả những khách thể vô tri ấy được nhà thơ thổi hồn vào biến thành tri giác rồi giao tiếp với chúng như những thực thể có khả năng ngôn ngữ, tư duy và ảm xúc. Đương nhiên, núi sông mây gió trăng sao hay mùa xuân chỉ mang tính ước lệ, chỉ là cái cớ để tác giả ký tác cái chí, cái tình của mỉnh. Xét đến cùng tất cả những bài thơ thuộc dạng này chỉ là độc thoại, nhưng nếu nghĩ rộng ra, ta hoàn toàn có thể hiểu “độc thoại” này chính là đối thoại tư tưởng thông qua hình tượng thơ để thể hiện qian điểm vũ trụ và nhân sinh (Mời khói uống rượu”, “Mời núi uống rượu”, “Đầu xuân uống chén rượu đời”, “Mời rượu ở Tử Cấm Thành”,”Dâng rượu trước mộ Nhạc Phi” …).
Đỉnh điểm của cái "ngông" trong tập thơ có lẽ là ở những cuộc rượu mà chủ thể uống với loại quan tham, kẻ cơ hội và nhất là “thằng đời”. “Thằng đời” là danh xưng phiếm chỉ cuộc nhân sinh đầy bất trắc, phức tạp, nghiệt ngã và vô tình vô cảm. Người thường gọi “thằng đời” là đấng tạo hóa thì cũng không sai. Chính nó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây ra nỗi trầm luân của những kiếp người. Tuy nhiên nhà thơ "ngông" không dừng lại ở cách hiểu nông cạn như thế. Qua các bài “Mời rượu thằng đời”, “Lục bát thằng Bờm”, “Uống rượu với Chí Phèo”, “Mời rượu Bá Kiến”…, người đọc chợt nhận ra, “Tạo hóa” hay “”Đấng cao xanh” kia chính là thể chế chính trị quản lý nhà nước khuyết tật, lỗi thời, quan chức tham nhũng, nha sai thì hà hiếp, sách nhiễu dân. Một chính quyền sử dụng toàn bọn vô lại trong guồng máy cai trị thì đất nước ấy không bao giờ mở mày mở mặt với cộng đồng nhân loại.
Giọng thơ "ngông" lại chuếnh choáng hơi men bị dồn nén có khi bật lên tiếng chửi ở từng cấp độ khác nhau. Tiếng chửi ấy lúc thì bóng gió nhẹ nhàng tỏ ra thương hại, lúc lại giận dữ, mạt sát tưởng như “bất cộng đới thiên”. Không hiếm những lúc, độc giả phá lên cười sảng khoái khi mà tác giả nới rộng biên độ chửi bẳng thứ ngôn ngữ rất đặc trưng: đáo để, sâu cay nhưng lại rất thơ:
Lũ xôi thịt đếch ra gì
Không bằng cái…hì hì…của tao!
Mày xệch xoạc tao vêu vao
Mày chém Bá Kiến tao cào mặt mo…
(Uống rượu với Chí Phèo)
Phong cách "ngông" luôn chuyển vị trí để nhìn “thằng đời” bằng con mắt tiên tri, tiên nghiệm. Có khi Nguyễn Lâm Cẩn đứng ở tư thế cha chú dạy bảo đám “đầy tớ dân” bằng loại ngôn ngữ có vẻ khách sáo nhưng một khi đọc kỹ ta lại thấy thật sâu cay dày vỏ. Dạy chúng làm người lương thiện có khác gì nước đổ lá khoai. Chúng đã nhiễm bệnh nan y chờ chết, thuốc thánh cũng không thể phục sinh:
Này đời! Nâng chén lên nào
Thăng trầm thế cuộc lao đao phận người
Vỗ tay được mấy tiếng cười
Chảy trong huyệt đất máu tươi còn trào.


Này đời! Nhìn cổng nhà lao
Sao mày không thấy cồn cào ruột gan?
Tự do nước mắt chứa chan
Xích xiềng cởi, khoác lầm than lâu rồi.
(Mời rượu thằng đời)
Cái "ngông" của “Rượu thi nhân” là một đặc trưng nghệ thuật. Nó cũng chính là phong cách giếu nhại của thể loại ca dao, tục ngữ trong văn học dân gian truyền thống được phái sinh sang lĩnh vực thơ hiện đại. Tuy nhiên, ở Nguyễn Lâm Cẩn, sự giễu nhại này được tận dụng và nâng cao thành phong cách của riêng ông.


LỤC BÁT NGUYỄN LÂM CẨN
Sau 9 tập thơ, trong đó có “Lục bát Nguyễn Lâm Cẩn” xuất bản năm 2015, bạn đọc dễ dàng nhận ra, lục bát chính là sở trường của nhà thơ Xứ Nghệ. Nói như vậy, không có nghĩa các thể loại khác đối với ông là sở đoản. Ngược lại là khác. Khi đọc khổ thơ ngũ ngôn trong bài “Say” (1) dưới đây, đương nhiên buộc ta phải thừa nhận tác giả là thi sĩ đa năng:
Hất chén rượu lên đầu
Mặt trời méo vàng vọt
Mưa rượu không ướt tóc
Giọt nào mài tim óc?
Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ khảo sát phần lục bát. Mười chín bài thơ còn lại sẽ được bàn đến vào một dịp khác.
Lục bát Nguyễn Lâm Cẩn luôn là chỉnh thể, tròn đầy, kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa chất liệu ca dao, tục ngữ truyền thống với ngôn ngữ thi ca hiện đại. Từ đơn vị lục bát 14 tiếng cho đến bố cục toàn bài, người đọc luôn nhận thấy một cấu trúc chặt chẽ, hô ứng nhịp nhàng với các kiểu diễn ngôn tự sự, trữ tình hoặc kết hợp giữa tự sự và trữ tình. Điểm nổi bật làm nên diện mạo Nguyễn Lâm Cẩn trong làng lục bát là khả năng sử dụng ngôn từ. Từ ngữ của ông luôn được chọn lọc chính xác, hợp lý nên bao giờ cũng tạo ra được hiệu ứng thẩm mỹ ở tính gợi tả, gợi cảm và sự liên tưởng đa chiều. Ở không ít bài, Nguyễn Lâm Cẩn còn sử dụng lối chơi chữ, tận dụng khả năng những từ, ngữ lấp lửng để diễn đạt ý tưởng như là thi pháp thơ Đường trung đại ý tại ngôn ngoại. Có thể nói, hệ thống từ vựng trong trong hầu hết các bài lục bát đều đều đạt đến giới hạn của ngôn ngữ thi ca ở tính năng truyền đạt thông tin nghệ thuật và giá trị biểu cảm cũng như tính đa nghĩa:
Trời nghiêng đất ngửa khật khừ
Mây xưa núi Tản bây chừ còn bay?
Sông Đà dốc ngược vào chai
Đường thơ hun hút tượng đài lênh bênh
Sau lưng thác trước mặt ghềnh
Câu thơ nối nhịp một mình cụ sao?
(Mơ hầu rượu cụ Tản Đà)
Còn trong bài “Mời khói uống rượu”, những triết lý nhân sinh tưởng như lẫn vào cuộc hội ngộ với đối tượng vô tri nhưng thật ra lại rất khả tri:
Đạo người đạo chữ chơi vơi
Chí Phèo, Bá Kiến coi trời bằng vung
Đã rơi xuống đáy bần cùng
Những ai lương thiện không khùng cũng điên.
Lục bát Nguyễn Lâm Cẩn không có từ thừa, từ đệm mà luôn đạt đến sự hoàn chỉnh tối đa. Nhưng kỹ năng gieo vần mới là điều khiến thiên hạ phải ngả mũ vái chào. Vần của “Rượu thi nhân” luôn luôn là chính vận. Những câu thơ bàng vận chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong số 40 bài, bởi vần là một yếu tố quan trọng để bài thơ trở nên nuột nà, hơi thơ liền mạch, tạo nên cấu trúc bền vững như một cơ thể cường tráng nhằm chuyển tải thông điệp nghệ thuật. Không ít bài lục bát, đọc lên nghe phảng phất như "Truyện Kiều" mà lại không phải Kiều, như ca dao mà lại không phải ca dao. Nó là sự kế thừa những tinh hoa của dòng văn học dân gian cũng như văn học bác học một cách sáng tạo bởi qua sự chọn lọc ngôn từ, kỹ năng sử dụng vần (bao gồm vần chân và vần lưng), nghệ thuật phối hợp giữa nhịp điệu với nhạc điệu cũng như khai thác triệt để hiệu ứng các cặp tiểu đối:
Trắng xương hồn lạnh còn đau
Cùng chung cuống rốn nhúm nhau… tương tàn…!
Niềm tin cau mặt thời gian
Ơn giời đổ mãi cơ hàn ra phơi!
(Rót rượu mời dế)
Mịt mù núi dựng uy nghi
Mây che phủ mặt thấy gì nữa đâu
Tôi say đổ rượu lên đầu
Âm u đỉnh núi một màu mây trôi.
(Mời núi uống rượu)
Lừa nhau vào chốn gập ghềnh
Ván cong uốn lưỡi bập bênh lắm trò
Một đời ăn đói mà no
Oái oăm nước đục cốc mò cò xơi!
(Rượu suông)
Rót ra chén rượu đi tìm
Câu thơ gan ruột im lìm đáy chai
Vớt lên cả một đời trai
Nắm xương bạc phếch phơi ngoài cỏ lau.
(Chén rượu đầu năm)
Với lục bát, Nguyễn Lâm Cẩn luôn làm chủ kỹ thuật gieo vần. Vần và hệ thống thanh điệu tạo nên nhạc điệu lúc du dương như bản nhạc đồng quê nhưng cũng có khi chát chúa, dữ dội tùy vào tâm trạng vui buồn của chủ thể. Nhưng với nhịp điệu thì khác. Có đến già nửa lục bát trong tập thơ đều bị tác giả cắt rời thành nhiều mảnh xếp chồng lên nhau như là thơ bậc thang. Cách ngắt nhịp lúc là 2/2, lúc là 2/4 đôi lúc lại là 1/3 hoặc 1/2/4…nhằm tạo ra sự mới lạ cho cấu trúc lục bát, đồng thời dẫn dụ người đọc vào trường liên tưởng. Nói vậy, nhưng nếu đọc kỹ, kiểu ngắt câu này thực ra chỉ là hình thức, bởi vì, đặc trưng của lục bát trữ tình là sự chắp dính các thành tố trong cùng một đơn vị câu hoặc cả khổ thơ:
Cái tình
Mau ngấm
Say lâu
Chát!
Tom!
Tom!
Chát…!
Cô đầu cụ ơi!
Chùa Hương rau sắng già rồi
Giang hồ quảy gánh
Về thôi!
Cạn ngày!
(Mơ hầu rượu cụ Tản Đà)
Rót đi!
Rót nữa đi nào
Chén say
Chén tỉnh
Rượu vào
Lời ra
Kiến bò trong bụng ê a
Ngoài kia sấm chớp mưa sa kín trời
Dốc chai giọt đáy…
Cạn rồi!
Mắt hoa
Chân ríu
Kiếp người đỏ đen
(Say 2)
Chén này rót ruột
Lòng đau
Mời ông
Ờ nhỉ!
Trước
Sau…
Đâu nào?
Ban ngày vuột giấc chiêm bao
Ta đang mời rượu đứa nào? Hỡi ôi!
(Giấc mơ rượu)
Vấn đề cuối cùng và quan trọng nhất trong “Rượu thi nhân” là “tứ”. “Tứ” là linh hồn của lục bát. Ngoài các loại truyện thơ hay diễn ca thuộc loại hình tự sự, lục bát trữ tình bao hàm cả nội dung “thế sự”, sẽ chết yểu nếu không có “tứ”. Nguyễn Lâm Cẩn còn làm được nhiều hơn thế. Bài nào của ông cũng găm được ít nhất một cái "tứ", trong đó có không ít "tứ" bất ngờ, độc đáo. "Tứ" trong thơ Nguyễn Lâm Cẩn có khi bao quát cả bài, có khi đọng lại ở một, hai khổ nhưng không lặp lại mà luôn mới. Đây chính là sự cao tay của chủ thể sáng tạo. Bài “Uống rượu với bạn”, tác giả toàn vẽ ra cảnh nghèo, nói rằng mắc nợ cái "ngông" Tản Đà, nhưng "tứ" thì lại nằm ở cặp lục bát:
Thằng con đứng ngắm trời sao
Mắt mơ mình lớn thế nào cũng bay.
Còn "tứ" của bài “Khóc Hòa Vang” chắc hẳn là ở câu:
Văn chương là cái chi chi
Mà đầu lõm xuống bò quỳ…bốn chân.
Cho nên, lục bát Nguyễn Lâm Cẩn sống được và sống khỏe, trước hết phải nhờ vào “tứ”. "Tứ" càng độc đáo, thơ càng có giá trị tự thân. Huống hồ, ngoài "tứ" ra, ông còn có thể mạnh về sử dụng ngôn từ vào tạo dựng hình ảnh.
“Rượu thi nhân” nói về rượu nhưng thật ra rượu chỉ là cái cớ còn nội hàm của tập thơ chính là cái “thằng đời”. Nguyễn Lâm Cẩn đã “hòa quang đồng trần” giữa rượu với đời qua những diễn ngôn đầy cảm khái có lúc bi phẫn nhưng cũng có lúc bâng khuâng trước khung cảnh mùa xuân tự tay rót chén “quỳnh tương” mời người đẹp…


Chí Linh, tháng mạnh xuân, năm Kỷ Hợi.
Đ.V.S.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét