Vụ án hai ngàn ngày
Lê Hoài
Nguyên
TỰ BẠCH CỦA
TÁC GIẢ NĂM 2002
Từ ngữ của
tôi như chiếc búa nhỏ kiên nhẫn
Gõ vào cánh
cửa căn buồng đen tối
Nụ cười của
tôi
Như giọt
nước
Cố làm
nguội lạnh cặp mắt đầy dục vọng ma quái thù địch.
Cuối cùng
Thời gian
sẽ dọi vào căn buồng đen tối
Trộn lẫn sự
thật và dối trá.
Với lương
tâm tôi có quyền tin
Với nghề
nghiệp tôi có quyền nghi ngờ
Đấy là phép
thử khó khăn hơn bất cứ nghề nào.
Bao giờ
cũng vậy
Tôi mệt mỏi
rời khỏi căn buồng đơn giản và thô kệch
Với ý nghĩ:
Tìm kiếm sự
thật trong lòng người sao mà vất vả!
Bài thơ của
tôi có tên là Sau cuộc hỏi cung viết vào thời kỳ đầu đổi mới, khoảng năm
1988, trên dòng cảm hứng về lương tri, về nỗi hổ thẹn với trách nhiệm, về lòng
nhân ái mới được khơi thông trở lại sau thời kỳ đông cứng của xã hội bao cấp.
Đó là bài thơ của một nhà thơ đang trực tiếp làm nghề công an trinh sát, viết
về một trong những công việc khó nhất của nghề điều tra pháp luật, hỏi cung.
Bài thơ rút từ gan ruột, ngần ấy chữ cũng nói đủ cả một nghề cho một đời người.
Cũng những
ngày ấy, người bạn đồng môn của tôi, nhà thơ Dương Kỳ Anh tức Dương Xuân Nam
vừa mới nhận chức Tổng biên tập báo Tiền Phong. Anh đã cùng các đồng nghiệp đưa
ra trước công luận sự thật về vụ án hai ngàn ngày oan trái, đưa một thày giáo
dạy đại học bị ghép tội giết người trở thành người vô tội ra khỏi nhà tù.
Gần hai mươi
năm đã trôi qua. Một thế hệ con em chúng ta đã lớn lên trong những năm đổi mới.
Những người nhân chứng, thực thi pháp luật vụ án Nguyễn Sỹ Lý thì vẫn còn sống.
Những gì toát lên từ nỗi lòng, lương tâm của mỗi con người chắc rằng vẫn còn có
ích như một tiễng chuông cảnh tỉnh trước những định kiến cũ kỹ, thói lạm dụng
quyền lực, làm việc tắc trách, thờ ơ với số phận đồng loại...
NHÂN VẬT
TRUNG TÂM HÔM NAY
Con đường đất
đỏ vào nông trường 1-5 huyện Nghĩa Đàn. Xóm Bình Hiếu xã Nghĩa Bình. Ngôi nhà
ngói ba gian trên sườn đồi, xung quanh có rào gai.Một người đàn ông tóc bạc
trắng đang ngồi trong gian bếp. trước nồi cám lợn sôi sùng sục. Thấy đoàn làm
phim Nguyễn Sỹ Lý níu bức tường bếp loạng choạng đứng dậy với một chiếc nạng.
Không ai có thể hình dung một người 45 tuổi trong một hình hài như thế. Cách
đây hai chục năm anh đang là giảng viên Đại học Tây Nguyên, bức ảnh với khuôn
mặt tươi tắn trẻ trung...
Tiếng Nguyễn
Sỹ Lý:
- Sau khi ra
tù, trường có giấy gọi tôi vào tiếp tục làm việc và cho tôi đi học bồi dưỡng
kiến thức. Nhưng tôi tự thấy không thể tiếp tục nghề dạy học được nữa. Phần vì
sau năm năm tù kiến thức đã mai một, phần vì tôi nghĩ sau những năm tháng ở tù
tôi chưa lấy lại được thăng bằng, tinh thần còn u ám, nếu cứ cố sẽ làm hại xã
hội và làm hại cả bản thân mình. Làm một người thầy đứng trên bục giảng ngoài
kiến thức chuyên môn còn phải có một tâm hồn trong sáng.
Sau đó Công ty
Cao su Phú Riềng mời tôi vào làm việc. Song đến gần ngày đi thì tôi đổ bệnh,
chân và tay phải bị liệt. Vài năm gần đây tôi mới nhúc nhắc đi lại với chiếc
nạng gỗ.
HỒ SƠ VỤ ÁN
Trong hồ sơ
điều tra vụ án câu chuyện bắt đầu như sau:
Xã Nghĩa Xuân,
Quỳnh Hợp, Nghệ Tĩnh.
Khoảng 8 giờ
tối ngày 28 Tết 11-2-1983 nhà ông Nguyễn Sỹ Huỳnh nấu xong bánh chưng. Ông
Huỳnh cầm đèn pin xách nồi bánh chưng đi trả hàng xóm. Đi được một đoạn ông sơ
ý soi đèn pin vào mặt anh em Bùi Văn Lai, Bùi Văn Vinh. Bùi Văn Lai quát: Bấm
đèn pin vào mặt người ta! Rồi đá văng chiếc đèn pin trên tay ông Huỳnh.
Ông Huỳnh kêu
lên: Bay ơi, có bọn đánh cha!
Nghe tiếng
kêu, các con trai ông Huỳnh là Nguyễn Sỹ Luân, Nguyễn Sỹ Lý và người cậu là
Nhật chạy ra. Anh em Bùi Văn Lai bỏ chạy. Bùi Văn Vinh bị một nhát dao đâm làm
Vinh chết tại chỗ. Sau đó Bùi Văn Lai đem một quả lựu đạn ném vào cổng nhà ông
Huỳnh nhưng không có ai bị thương rồi đi tố giác với chính quyền việc người nhà
ông Huỳnh giết em mình.
Ngày
16-2-1983, mồng Bốn Tết, công an Quỳ Hợp bắt tạm giam 4 người gồm ông Huỳnh và
ba người con là Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Sỹ Lý, Nguyến Sỹ Tính. Lúc đầu không ai
nhận giết Bùi Văn Vinh.Hơn một tháng sau, ông Huỳnh và Lý bị đưa xuống trại
giam của tỉnh, bị giam cách ly. Nguyễn Sỹ Lý đã nhận tội giết người. Ông Huỳnh
được tha về.
Ngày
24-3-1983, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh xét xử sơ thẩm vụ án, tuyên phạt
Nguyễn Sỹ Lý 17 năm tù giam về tội giết người.
Ngày
28-4-1984, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử phúc thẩm và giữ nguyên bản
án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh.
Ngày 25-4-1988,
Tòa án nhân dân tối cao xử tái thẩm vụ án bằng một phiên tòa lưu động xét xử
công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tam Hợp huyện Quỳ Hợp với hơn 1000
người tham dự. Nguyễn Sỹ Lý được tuyên bố vô tội. Bùi Văn Lai nhận tội đâm chết
em mình và nhận 5 năm tù treo.
Nguyễn Sỹ Lý
ra tù sau khi đã ngồi tù hơn 5 năm, tức gần 2000 ngày!
NHỮNG NÚI
BÁO MẦU ĐỎ
Những ngày ấy
tôi hay đạp xe đạp đi làm qua Cung văn hóa Hữu nghị Việt Xô. Đoàn kịch Quân đội
đang diễn vở Lời thề thứ 9 của Lưu Quang Vũ. Trong những tấm áp phích về các vở
kịch của anh được bày cùng áp phích vở Lời thề thứ 9 có một tấm với hình những
ngọn núi báo màu đỏ. Những tấm áp phích này cho tôi cảm hứng viết bài thơ Dân
chủ:
Những núi
báo màu đỏ
Nhọn như
mũi kiếm
Đã chọc
thủng thành lũy quan liêu Thanh Hóa
Những ngọn
gió mát lành
Kỷ nguyên
mới đang thổi
Vào tấm
lưng trần rát bỏng của Nhân Dân
Rồi một
ngày
Những đôi
mắt sẽ nhìn ra
Những đôi
tai sẽ nghe được
Và thêm
nhiều tiếng nói cất lên.
Dương Xuân Nam đã
in bài thơ này trên báo Tiền Phong. Cũng trên báo Tiền Phong gần 20 kỳ báo về
vụ án Nguyễn Sỹ Lý đã góp phần đắc lực đưa vụ án ra trước sự thật, cứu Nguyễn
Sỹ Lý thoát khỏi cái án 17 năm tù giam.
Lời Dương Xuân
Nam
tức nhà thơ Dương Kỳ Anh:
- Số Tết 1988
chúng tôi in bài Phiên tòa ngày mai của Hồ Hồng Tuyến một cái tên còn rất xa lạ
với báo. Sau Tết, tòa soạn cử phóng viên Mạnh Việt vào Nghệ Tĩnh phối hợp với
Hồ Hồng Tuyến điều tra sâu hơn về vụ án Hai ngàn ngày oan trái. Cầm bài viết
Người vô danh ra Hà Nội Tuyến cứ đòi gặp nhà thơ Dương Kỳ Anh chứ không gặp
Dương Xuân Nam.
Tuyến không biết Dương Kỳ Anh chỉ là bút danh, còn tên khai sinh và làm việc
của tôi là Dương Xuân Nam.
Tuyến mặc cả : Tôi thích thơ. Nhờ anh đăng cho tôi một bài thơ tôi mới cho anh
phóng sự Người vô danh.
Vài tháng sau,
dựa vào chất liệu vụ án Lưu Quang Vũ đã viết vở kịch Trái tim trong trắng.
TỪ THỢ SỬA
CHỮA ĐỒNG HỒ TRỞ THÀNH NHÀ BÁO
Tại nhà Hồ
Hồng Tuyến ở xóm 6 xã Nghĩa Tiến huyện Nghĩa Đàn. Anh Tuyến kể:
- Năm 1983 tôi
là thợ sửa chữa đồng hồ trong một quán lều tranh đối diện chợ Dinh xã Nghĩa
Xuân, huyện Quỳ Hợp. Thời trước tôi và Nguyễn Sỹ Lý đã học cùng trường tiểu học
Quế Phong, chơi thân với nhau, rồi mỗi người một ngả. Sau đợt dư luận ồn ào về
vụ án, bỗng ông Huỳnh gặp tôi đưa cho xem hai mảnh giấy tự thú giết người của
Bùi Văn Lai phía dưới đóng dấu đỏ của UBND xã Nghĩa Xuân kèm theo chữ ký của
Chủ tịch xã. Ông Huỳnh hỏi: Cái ni có làm bằng chứng để kiện ra tòa được không?
Được tiếp thêm lòng tin tôi đi thu thập thêm tài liệu để viết bài Phiên tòa
ngày mai, rồi viết tiếp bài Người vô danh. Sau sự kiện này tôi đã bỏ hẳn nghề
sửa chữa đồng hồ, sống bằng nghề viết báo và đang là cộng tác viên của báo Tiền
Phong tại Nghệ An
NGƯỜI HÙNG
PHÁ ÁN
Nhà Cao Tiến
Mùi ở làng Dương Hạp xã Nghĩa Dũng huyện Tân Kỳ, Nghệ An.
Lời Cao Tiến
Mùi:
- Tôi gặp Lý
trong trại giam Nghi Kim. Trong buồng giam bọn tôi phân công mỗi buổi mỗi người
kể một chuyện. Đến lượt Nguyễn Sỹ Lý, cậu ta ôm mặt kêu oan. Tôi hỏi Lý: Biết
oan tại sao vẫn nhận tội? Lý nói: Em phải nhận tội vì muốn cứu cha em. Nếu bị
giam lâu ngày sợ ông chết trong tù. Rồi Lý kể cho tôi nghe vụ án. Nghe xong tôi
nói: Ra tù, mình sẽ tìm cách minh oan cho cậu.
Tôi ra tù, lại
rơi vào hoàn cảnh túng quẫn, đứa con gái thứ ba sinh ra bị bệnh rồi mất. Khi
chuyện gia đình nguôi ngoai tôi mới nghĩ đến việc cứu bạn tù. Đến chỗ Bùi Văn
Lai phải mất 50 cây số đường núi. Lần đi đầu tiên tôi cải trang thành một anh
nông dân đi mua nghé, đầu đội chiếc nón cói rách nát, tay xách dép, cái áo đại
cán cũ rộng thùng thình, quần rách ngang gối. Tôi đến nơi xảy ra vụ án vẽ lại
hiện trường, lập kế hoạch đấu tranh với Bùi Văn Lai.
Hơn một tháng sau, tôi nói dối vợ là đi lên cơ
quan xin giấy chuyển sinh hoạt. Vợ tôi sinh nghi hỏi: Anh đi lần trước sao vẫn
chưa xong à? Biết tôi không còn đồng xu nào, vợ tôi xổ trong bao tượng còn 4
ngàn đồng đưa cho tôi. Tôi định sắm vai cán bộ Viện kiểm sát tối cao nên phải
chuẩn bị quần áo tươm tất, mượn vợ áo ấm, mượn hàng xóm chiếc cặp da, xin con
xấp giấy học sinh và chiếc bút máy Hồng Hà. Tôi đi chiếc xe đạp tuyền toàng đến
Tam Hợp, gửi xe trong nhà một người quen rồi ôm cặp hỏi đường đến nhà Bùi Văn
Lai. Lai đang đi vắng, Chị vợ đi tìm chồng về.
Tôi nhìn nhà
Lai cũng rất nghèo như nhà mình. Chỉ có hai chiếc chõng tre, bộ bàn ghế cũ kỹ
gá vào bức vách. Buổi đầu Lai đã phải trả lời hàng loạt câu hỏi của tôi và tin
là đã gặp nhà điều tra thật sự của Viện Kiểm sát tối cao.
Ba tháng sau,
Nguyễn Sỹ Lý chuyển từ trại Nghi Kim về trại Ba. Tôi gặp Lý để bàn phương án
hỏi cung lần thứ hai. Đoạn đối thoại như sau:
- Khi anh cùng ông Nguyễn Sỹ Huỳnh giằng nhau
có nghe thấy gì không?
- Ông ta kêu ầm lên!
- Anh bỏ chạy
đến cổng chưa?
- Vừa đến giữa
cổng.
- Đến giữa
cổng anh có thấy ai trong nhà chạy ra không?
- Chưa!
- Thế anh nghe
thấy gì?
- Thấy ầm ầm
trong nhà.
- Anh chạy đến
đâu thì gặp em?
- Khoảng 150
mét.
Thế là đã rõ,
tôi nói:
- Tôi cho là
anh tìm mọi cách để lừa dối nhà điều tra.
Hơn một tuần
lễ sau tôi lại gặp Nguyễn Sỹ Lý để vạch ra chương trình xét hỏi.
Ngày 5-7-1987
là ngày gặp Bùi Văn Lai lần thứ tư, cũng là để phá án.
Mở đầu tôi gợi
chuyện hai anh em đi săn trên núi bắn nhầm nhau, án mạng không phải là cố ý.
Sau tôi đưa bản vẽ hiện trường hỏi: Anh có thừa nhận chưa có người nào trong
nhà ông Huỳnh ra kịp phải không?
Lai nói:
- Vâng, lúc đó
chưa ai ra kịp.
- Thế em trai
anh kêu như thế nào?
- Vinh kêu
lên: Anh ơi, em bị đâm!
Nói đến đây
sắc mặt Lai tái xám, người rũ xuống như tàu lá héo và nói:
- Em không
muốn các anh mất nhiều thời gian, hôm nay em xin khai hết sự thật. Đêm hôm đó
trời quá tối, nếu chú nó đi thẳng luôn thì thôi, nào ngờ nó chui vào bụi cây
rồi lại lao ra. Em ngỡ là người nhà Nguyễn Sỹ Lý đuổi theo, sẵn dao trong tay
liền đâm một nhát, ngờ đâu trúng em mình.
Tôi dẫn Lai
lên Ủy ban xã đề nghị Bí thư Đảng ủy và Chủ tịch xã làm biên bản. Lai phải viết
Bản tự thú và Bản khai tang vật giết em. Sau đó tôi lặn lội ra Viện Kiểm sát
tối cao kêu oan cho Lý.
Xin nói thêm
về Cao Tiến Mùi để mọi người hiểu được tại sao anh làm được như thế.
Đồng đội của
anh, Võ Văn Phúc sinh năm 1952 ở Diễn Cát, Diễn Châu chứng nhận:
Tháng 5-1972
tôi cùng huấn luyện với anh Cao Tiến Mùi ở Đoàn 22A. Đến tháng 8 năm 1972 cùng
về đơn vị mới là C3D25- QK4... Ngày 9-10-1972 tại phà Bến Thủy chúng tôi làm
nhiệm vụ cho xe vào tuyến trong và quản lý số xe ra Bắc thì bị B52oanh tạc. Anh
Mùi bị thương vào ngực, hai chân và sức ép nặng...
Biên bản liên
tịch của Đảng ủy, UBND, Hội Cựu chiến binh, Mặt trận Tổ quốc, Công an xã Nghĩa
Dũng huyện Tân Kỳ ngày 19-12-2000 ghi:
Ông Cao Tiến
Mùi đi bộ đội tháng 5-1972, xuất ngũ tháng 8-1975, bị thương ngày 9-10-1972 tại
phà bến Thủy, thành phố Vinh. Chúng tôi đề nghị chính sách quân đội bổ sung hồ
sơ và giải quyết chế độ thương binh cho ông Cao Tiến Mùi.
NGƯỜI CỦA
MỘT THỜI- ÔNG CHÁNH ÁN
Nhà số 6 phố
Nguyễn Du, thị xã Hà Tĩnh. Ông Nguyễn Trí Tuệ đang là Chánh án Tòa án nhân dân
tỉnh Hà Tĩnh nguyên là Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh cũ, người ngồi
ghế chủ tọa phiên tòa xét xử Nguyễn Sỹ Lý 17 năm tù giam trong phiên tòa sơ
thẩm ngày 24-9-1983. Phóng viên báo Tiền Phong Quang Long hỏi chuyện ông Tuệ.
Quang Long:
Thưa ông chúng tôi được biết ông ngồi ghế chủ tọa phiên tòa sơ thẩm xử án Nguyễ
Sỹ Lý. Vậy muốn hỏi ông bị cáo có kêu oan hay không?
Ông Tuệ: Vụ án
này lạ lùng ở chỗ, tưởng chừng rất đơn giản vì một bên là hai anh em Lai- Vinh,
một bên là ba cha con ông Nguyễn Sỹ Huỳnh. Thủ phạm phải là một trong mấy người
này. Thế nhưng oan sai cũng bắt đầu từ lý do hết sức đơn giản đó, từ khâu điều
tra, thụ lý vụ án. Ngay từ đầu đã nhận định sai đối tượng vì một định kiến chủ
quan: Nếu trong xung đột, một bên bị giết thì kẻ giết người nhất định phải là
phía bên kia. Và người anh thì không thể giết em... Chứ người ta không nghĩ đến
lý do ngộ sát. Một điều ngẫu nhiên nữa là vết dao đâm Bùi Văn Vinh rộng 2,5 cm
thì kích thước lưỡi dao Nguyễn Sỹ Lý khai cũng rộng 2,5,cm. Điều thứ ba là có
thể bên công an các anh điều tra có thói quen chạy theo thành tích dẫn đến bức
cung. Điều kỳ lạ là từ đầu đến cuối phiên tòa Lý nhận tội răm rắp, không có
phản ứng gì, không hề kêu oan.
Quang Long:
Theo ông tại sao Lý lại nhận tội?
Ông Tuệ: Lúc
đầu Lý nghĩ rằng cha mình gây sự và lỡ đâm chết người. Lý nhận tội để cứu cha
khỏi bị giam giữ, khỏi bị chết trong tù. Lý cho rằng như vậy là báo hiếu.
Quang Long:
Bùi Văn Lai sau khi án xong còn ném lựu đạn vào nhà ông Huỳnh. Tại sao Lai không
bị truy tố về tội sử dụng vũ khí trái phép?
Ông Tuệ: Lai
đi bộ đội về, quả lựu đạn này anh ta mang từ Căm Pu Chia. Tôi cũng không hiểu
tại sao hồi đó người ta bỏ qua tội của Bùi Văn Lai.
Ông Tuệ tiếp
tục nói: Đúng ra trong trường hợp trong nhà ông Huỳnh có người giết Bùi Văn
Vinh thì khâu điều tra vẫn phải làm rõ ai chính là thủ phạm, tội của ai thì
người đó phải chịu. Ngay trong phiên tòa sơ thẩm tôi đã ghi vào biên bản xét xử
cần lưu ý có thể anh giết nhầm em. Tôi đọc to điều này cho bị cáo Lý nghe nhưng
không thấy Lỹ kêu oan. Mặc dù ghi như vậy nhưng thâm tâm tôi nghĩ chắc không có
chuyện oan trái bởi vụ án đã khép kín, bị cáo đã nhận tội. Sau này khi vụ án
lật ngược 180 độ thì tôi mới thấy mình sai lầm. Tôi quá tin vào án tại hồ sơ.
NGƯỜI CỦA
MỘT THỜI- ÔNG CÁN BỘ HÌNH SỰ
Người hỏi cung
Nguyễn Sỹ Lý đầu tiên là ông Phạm Ngọc Đắc lúc đó là Đội trưởng Đội cảnh sát
hình sự Công an huyện Quỳ Hợp. Nhà ông Đắc ở Đội 3 xóm Mai Thành xã Diễn Thành,
huyện Diễn Châu.
Lời ông Đắc:
- Từ hôm 28 âm
lịch, tôi về nhà nghỉ đón tết. Mồng 4 thì lên, nghe xảy ra vụ án ở Tam Hợp. Ông
Liên, Phó phòng kỹ thuật công an tỉnh, ông Bá trinh sát phòng Cảnh sát hình sự
và ông Lôi điều tra viên Phòng PC16 trực tiếp khám nghiệm hiện trường. Tôi hỏi
cung Lý 3 ngày nhưng Lý không nhận tội nên tôi bàn giao cho ông Xá, Phó công an
huyện Quỳ Hợp. Diễn biến sau có thế nào tôi không rõ... Tôi không hề đánh đập
Nguyễn Sỹ Lý. Lý trình độ đại học, tôi trình độ trung cấp, lẽ nào tôi đánh Lý
làm gì. Chủ yếu tôi chỉ dùng lý lẽ để đấu tranh.
NGƯỜI CỦA
MỘT THỜI – ÔNG CÁN BỘ ĐIỀU TRA
Nhà ông Nguyễn
Công Lô nguyên cán bộ Phòng Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ Tĩnh cũ, xã Hoa
Thành, huyện Yên Thành.
Phóng viên
Quang Long: Ông có thể cho biết lại điễn biến vụ án không?
Ông Lô: Vụ án
xảy ra đã quá lâu, tôi không nhớ được hết. Nhưng tôi xin nói rõ là hồi đó báo
chí viết không đúng. Sau đó có đoàn kịch về diễn vở Hai ngàn ngày oan trái cũng
không đúng với vụ án xảy ra. Hễ cứ nhắc lại vụ án này là tôi rất bực.
Quang Long:
Ông có suy nghĩ hì về trách nhiệm của mình trước oan sai của Nguyễn Sỹ Lý?
Ông Lô: Tôi
gia nhập Đảng, tôi là đảng viên, nguyện suốt đời chiến đấu cho Đảng cho lý
tưởng cộng sản. Tôi không ngại thừa nhận sai sot về nghiệp vụ. Sai là do năng
lực trình độ nghiệp vụ mình yếu kém, điều đó thì chẳng nói làm gì. Nhưng về đạo
đức tôi cho rằng mình chẳng làm điều gì thất đức. Tôi không ăn tiền, không hối
lộ, không làm điều gì trái với lương tâm để làm sai lệch vụ án đâu. Người ta
khai nhận những gì thì tôi ghi lại cái đó. Còn ký lệnh bắt giam Lý là người
khác, tôi cũng không có thẩm quyền truy tố bị can hay là xét xử bị cáo. Tóm lại
vụ án này là sai cả công an, cả Viện kiểm sát, cả Tòa án...
THỦ PHẠM VỤ
ÁN
Bùi Văn Lai là
người dân tộc Mường, đi bộ đội từ năm 1978, đóng quân ở Cam
pu chia 3 năm 7 tháng. Năm 1982 xuất ngũ về quê rồi cưới vợ. 1983 ra ở riêng.
Anh được tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang.
Giết nhầm em
trai, Lai đổ tội cho gia đình ông Huỳnh và Nguyễn Sỹ Lý đã vào tù. Trong sai
lầm của công an, kiểm sát, tòa án lúc đó có phần non kém về nghiệp vụ, phần
thiếu trách nhiệm công vụ nhưng có lẽ quan trọng hơn bắt đầu từ một thứ định
kiến xã hội cảm tình với bộ đội, trình độ thấp mà không cảm tình với trí thức,
trình độ cao.
Nguyễn Sỹ Lý:
- Lúc xảy ra
sự việc tôi biết chắc thủ phạm chẳng phải ai xa lạ là anh em nhà Lai hoặc mấy
gã bán bò. Rứa mà lúc lấy cung, ông Đắc túm lấy tóc tôi đập vô tường quát to:
Anh có đủ lương tâm cầm dao đâm chết em ruột của mình không mà đổ cho người ta
hử!
Cuối cùng vụ
án có hậu một phần do tài trí, tính nghĩa hiệp của Cao Tiến Mùi nhưng còn do
phần tính thiện trong con người Bùi Văn Lai. Lai đã dám thú nhận tội ác của
mình trước khi các nhân viên công quyền thấy được sai lầm.
Ông Nguyễn Trí
Tuệ: Nếu hồi đó Nguyễn Sỹ Lý không gặp Cao Tiến Mùi thì không ai minh oan cho
Lý. Nhưng giả sử Bùi Văn Lai chối bỏ sự thật không nhận tội giết em thì vụ án
lại càng phức tạp. Đây là vụ án đầu tiên trong nước áp dụng tái thẩm với những
tình tiết mới, hồ sơ mới hoàn toàn.
Cao Tiến Mùi:
Chú Lai nhận tội là có đạo đức. Nếu như Lai chối phắt đi, không chịu viết giấy
thú tội, không nộp bản khai tang vật giết em thì Lý còn lâu mới được minh oan.
Nguyễn Sỹ Lý:
Hồi đó chú dùng dao gì?
Bùi Văn Lai:
Dao làm bằng que thép tôi lửa đập ra, cán nhựa, loại dao thủ công.
Nguyễn Sỹ Lý:
Tại sao dao tôi cầm là dao chọc tiết lợn, dính máu lợn, thế nhưng xét nghiệm
lại là máu người?
HAI MƯƠI
NĂM SAU
Tháng 10-2001.
Phóng viên Quang Long chứng kiến cuộc gặp mặt cảm động giữa các nạn nhân, thủ
phạm, người cứu tinh tại nhà Nguyễn Sỹ Lý. Nguyễn Sỹ Lý, Bùi Văn Lai, Cao Tiến
Mùi, Hồ Hồng Tuyến.
Lai đã xin Lý
tha thứ.
Họ đã thông
cảm cho nhau mọi lỗi lầm, oán hận, thậm chí còn kết nghĩa làm anh em.
Ba người chụp
ảnh chung, tay trong tay, khoác vai nhau.
Ngọc Ánh, con
gái đầu của Lý ngày anh đi tù mới bốn tháng tuổi nay là sinh viên năm thứ hai
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
Lý nói về con:
- Khi đang ở
trong tù, tôi nhận được tin vợ và con gái đến thăm. Tình cảm dành cho đứa con
gái bé bỏng dồn nén suốt hai năm bùng lên. Tôi lao về phòng khách với niềm tin
con gái sẽ chạy đến sà vào lòng mình, thốt lên tiếng cha thiêng liêng. Nhưng
thật bẽ bàng, con gái tôi đã không nhận cha nó. Nó lùi lại và sợ hãi nép vào
nách mẹ. Sao đó tôi ngã bệnh và rơi vào triệu chứng loạn thần kinh.
Con trai Lưu
Quang Vũ, Lưu Minh Vũ sau tai nạn của bố đã thành một chàng trai chững chạc dẫn
chương trình Đường lên đỉnh Olimpia trên sóng Truyền hình Việt Nam.
Minh Vũ đã nhờ báo Tiền Phong tặng cho anh Nguyễn Sỹ Lý, nguyên mẫu nhân vật
của cha mình bản thảo vở kịch Trái tim trong trắng.
Tháng 11-2001,
báo Tiền Phong đăng phóng sự nhiều kỳ từ số 177 đến số 192 với tên gọi: Mười
tám năm sau vụ án Hai ngàn ngày oan trái. Tác giả Quang Long là một phóng viên
trẻ, anh đã đảm nhận được vai trò của phóng viên Mạnh Việt ngày trước. Một lần
nữa bạn đọc, dư luận xã hội lại khơi dậy những ám ảnh của vụ án đối với những
việc cấp bách của xã hội.
VĨ THANH
Trong bài báo
Quang Long có tường thuật lời ông Nguyễn Trí Tuệ nói về lương tâm nghề nghiệp
của mình:
- Nghề thẩm
phán là một nghề khó vì luôn đụng chạm đến số phận con người, không nên chủ
quan mà cần có cái nhìn sâu sắc toàn diện trước vấn đề đưa ra xét xử. Khi xét
xử, không nên quá tin vào hồ sơ mà phải soi xét từ nhiều phía, tránh gây oan
trái cho người dân. Vì thế người thẩm phán cần phải có nhiều kinh nghiệm xã hội
và làm việc với thái độ trung thực, công tâm.
Đến đây bạn
đọc sẽ hỏi chúng tôi: Cái gì đã giúp cho một người đã trải qua những năm tháng
khắc nghiệt như Nguyễn Sỹ Lý mà vẫn đứng lên được, vẫn giữ được lòng vị tha bao
dung với con người?
Không thể
không nhắc đến chị Len, người bạn đời của Nguyễn Sỹ Lý đã giúp anh vượt qua thử
thách.
Lời chị Len:
- Cuối 1981
chúng tôi tổ chức lễ cưới. Tôi làm công nhân cạo mủ cao su ở Nông trường 1-5,
còn anh Lý chuyển vào dạy ở Đại học Tây Nguyên. Anh về ăn Tết dự định đưa tôi
vào Tây Nguyên sinh sống thì xảy ra vụ này. Chẳng biết làm gì hơn, tôi ngồi ôm
con gái khóc cho vợi nỗi đau. Chủ nhật nào tôi cũng đạp xe vượt 30 cây số về
Tam Hiệp hỏi thăm gia đình bên anh. Tôi đi đến đâu cũng bắt gặp ánh mắt soi mói
diễu cợt. Nhiều người độc mồm, độc miệng dạy con gái tôi những câu: Bố cháu đi
đâu? Bố cháu đi tù, tù mọt gông. Có hôm tôi từ Quỳ Hợp về nửa đường mệt quá,
hai mẹ con dừng chân ở quán nước, bà chủ quán thấy con bé xinh xắn vô tình buột
miệng hỏi: Bố cháu đi đâu? Con bé đáp: Bố cháu đi tù, đi tù mọt gông mới về!
Tôi dàn dụa nước mắt : Con ơi, đừng nói thế mà có tội với cha!
Thư của
Nguyễn Sỹ Lý viết cho vợ khi vừa được ra tù đang ở Vinh:
Ngày
11-12-1988
Len em!
Anh lại viết
thư cho em. Đáng lẽ anh chưa viết thì đúng hơn. Chỉ mới xa nhau mấy bữa mà cứ
như là hằng năm không bằng. Có thể em sẽ đặt câu hỏi: Tại sao trong năm năm ở
tù anh ít viết thư cho em? Phải chăng hồi đó anh không nhớ em? Không phải đâu
Len ạ. Kể cả những khi đau đớn nhất. Khi mà những gông xiềng nặng trĩu đang ôm
chặt lấy người anh, khi mà tâm hồn muốn lìa khỏi xác, thần chết cắp búa đứng
chờ thì thì anh đã cố tình xua đuổi bóng hình em. Chua xót vậy nhưng anh vẫn
phải làm, vì anh không muốn đem theo em về cõi hư vô. Ghét em khi người ta xua
đuổi thì em cứ đến. Đuổi em để rồi khóc. Giọt nước mắt cuối cùng của con tim đã
nhỏ xuống nỗi oan trái. Cuối cùng em đã thấy... cơn ác mộng và quá khứ đau
thương đã mãi mãi đi vào dĩ vãng. Cuộc sống và tình yêu không nỡ phụ bạc chũng
mình nữa đâu. Trong cái rủi có cái may. May nhất là anh còn sống trở về với em.
Điều đáng nói hơn là may mà em không nghe anh. Vì nếu nghe anh, em đã đi lấy
chồng...
Láng Hạ
9-2002
* Tác giả
sử dụng tư liệu trên báo Tiền Phong của các phóng viên Mạnh Việt, Quang Long,
Hồ Hồng Tuyến.
TỰ BẠCH NĂM
2013
Vậy đã hơn
mười năm nữa trôi qua.
Kịch bản của
tôi đã không được đưa vào sản xuất phim để đến với công chúng. Có lẽ những
người có trách nhiệm xét duyệt kịch bản không đồng ý với đề nghị của Điện ảnh
Công an và sau là Hãng phim Tài liệu khoa học trung ương. Tôi đã đưa kịch bản
cho Công an Nghệ An, lúc đó anh Phan Đình Trạc làm Giám đốc, anh Lâm làm Phó
Giám đốc. Các anh đồng ý với những gì tôi viết. Tôi đã gợi ý các anh có thể
giúp cho Đài Phát thanh- Truyền hình Nghệ An làm phim...
Thay cho nỗi thất vọng, tôi hy vọng phim không
ra đời được nhưng cuộc sống có thể tốt hơn chăng. Nhưng bây giờ lại một vụ án
oan giống như thế đang được đưa ra ánh sáng. Nguyễn Thanh Chấn một công dân 42
tuổi ở Bắc Giang đã ngồi tù 10 năm với án tử hình giảm xuống chung thân đang
làm chấn động dư luận cả nước, chấn động số những người Việt Nam còn lương tri,
còn tình nhân ái với đồng bào mình.
Tiếc quá chỉ
cách đây hai tháng, vở kịch Trái tim trong trắng của Lưu Quang Vũ đã được công diễn trở lại và
được đưa lên sóng truyền hình. Tôi đã thấy trên màn hình sự xúc động của nhiều
khuôn mặt công chúng vẫn y nguyên như những ngày năm 1988...
Dù sao Vụ án
hai ngàn ngày vẫn còn có hậu. Mong rằng các đồng nghiệp công an của tôi, thế hệ
đàn em của tôi hôm nay và các nhân viên công quyền ngành kiểm sát, tòa án hãy
đọc và làm như những nhân vật trong bộ phim này để lấy lại một chút lòng tin
của nhân dân.
18-11-2013
L.H.N (Thái Kế
Toại)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét