“Thần dược”,
câu thơ đổi màu như “nghịch ngôn thi”
Đặng Văn Sinh
“Thần dược”(1)
là tập thơ thứ năm của Phạm Xuân Trường gồm 74 bài, trong đó có đến 42
bài lục bát, chứng tỏ lục bát vẫn là thế mạnh trong sự nghiệp sáng tác của anh.
Tuy nhiên, “Thần dược” cũng có nhiều điểm khác với “Cỏ cháy”, “Ở trọ hồn làng”,
thậm chí cả “Bến chuồn chuồn” chẳng những ở giọng điệu, mà ngay cả việc sử dụng
thể loại như một phương tiện chuyển tải cảm hứng.
“Thần dược”
như một bức chân dung muôn mặt cuộc sống bằng thơ, dùng thơ làm phương thức
diễn đạt tư tưởng thẩm mỹ, nhưng không mấy chú trọng đến cấu tứ, vần điệu mà
thường là trở về với sự xù xì, góc cạnh của tư duy truyền thống qua các thủ
pháp dân gian như ẩn dụ, hoán dụ, thậm xưng. Có thể nói, trong tập thơ này,
Phạm Xuân Trường vận dụng các biện pháp tu từ như một cách “tung hỏa mù” làm
mềm hóa những triết lý góc cạnh, những cảm xúc cuồng nộ trước cảnh đời bất công
tàn nhẫn, lố lăng kệch cỡm, nhơn nhơn thách đố dư luận.
Bằng vào sự
mẫn cảm thời cuộc của mình, Phạm Xuân Trường đã “vẽ” được khá nhiều chân dung nhân
vật với đủ loại diện mạo như bộ sưu tập phong phú về một giai đoạn lịch sử mà
hội chứng đám đông đang là xu thế áp đảo trong quan niệm sống. Mặt khác, nó
cũng là hệ quả của phương thức cung cấp thông tin một chiều được nền giáo dục coi
trọng khoa cử tiếp sức, triệt tiêu mọi phản ứng tự vệ bởi một guồng máy vận
hành khuyết tật, thì cách nói của tác giả “Thần dược” được xem là “nói ngược”.
Mà đã nói ngược bằng thơ thì tất yếu phải sử dụng thi pháp ca dao, tục ngữ vốn
luôn ẩn chứa tinh thần phản kháng qua tiếng cười…
Viết về đề tài
này, “Thần dược” chủ yếu là lục bát, nhưng nếu cần diễn đạt sâu hơn với sắc thái
đậm đặc hơn, tác giả không ngại sử dụng thơ ngũ ngôn hoặc thơ tự do, vốn có khả
năng tích hợp được cả yếu tố tự sự lẫn yếu tố trữ tình trong cùng một văn bản.
Bài “Mẹ sống như chết giả” có đoạn kết khá điển hình:
“Tiền thật mua bằng giả
Chán chúa thì buôn vua
Lã Bất Vi vạn thuở
Còn tươi rói đến giờ”.
Hầu hết những
bài thơ thuộc dạng này trong “Thần dược” đều xuất phát từ tư duy trực cảm mang
tính tiên nghiệm, sau đó được quy nạp thành hình tượng có giá trị phổ quát cấu
thành từ môi trường xã hội ô nhiễm, đạo đức băng hoại và lòng tham không đáy
của những nhóm người có đặc quyền thao túng chính trường. Ở bài “Lễ đầu xuân”,
tác giả viết về hội chứng đám đông đền Trần như một trò mua bán “cái tù mù” khi
mà con người mất hết lòng tin nơi dương gian đem tiền bạc đặt vào cửa âm phủ,
hối lộ thánh thần:
“Tranh nhau mua cái tù mù
Để nuôi hy vọng trả thù áo cơm…”.
Câu thơ như
mệnh đề triết lý dân gian, thâu tóm được bản chất một giai đoạn lịch sử đầy
những nghịch cảnh, khiến người đọc bất chợt nhận ra nỗi trớ trêu của kiếp người
khi mà phải đem cả cuộc đời đánh cược với trò may rủi:
“Thiếp đi mua ấn cho chàng
Cả làng đi lễ cả làng làm quan”.
Những danh
xưng “thiếp”, “chàng”, “ấn”, “quan” là gì nếu không phải là chất liệu ca dao cổ
được tác giả “tân trang” cho ý tưởng mới qua thủ pháp phúng dụ? Cách châm biếm
nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về hiện tượng “lại cái” của một cộng đồng mê muội không
khỏi làm độc giả phải chau mày suy ngẫm. Hiện tượng buôn thần hoàng, buôn biểu
tượng cùng với trào lưu phục cổ và cơn sốt trùng tu, tân tạo đình chùa miếu mạo
thờ phụng những vị thần có thật và không có thật có vẻ như đang là xu thế thời
đại. Không ít kẻ vớ bẫm sau nhứng dự án nghìn tỷ rồi vén tay cung tiến cả trăm
triệu nhằm mua trước tấm vé qua cửa thiên đường mà đáng ra lũ sâu dân mọt nước
ấy phải xuống chín tầng địa ngục.
Ở bài “Gặp gỡ
cuối năm”, tác giả mô phỏng màn hài kịch được trình diễn như là trò gãi ghẻ
trên con bệnh trầm kha, khi cánh đào kép giả vờ tung hứng những tệ nạn xã hội
bằng thứ ngôn ngữ nửa nạc nửa mỡ, cù khán giả dễ tính bật lên tràng cười rẻ
tiền:
“Mạt cưa, mướp đắng một nhà
Cáo hóa thành cú, quạ già thành công
Ngọc Hoàng ở chốn thâm cung
Có nghe tiếng thét mịt mùng trần gian
Giao thừa thừa những trái ngang
Vai hề khoác áo Táo quan diễn trò”.
Giọng điệu phổ
biến trong “Thần dược” bao giờ cũng xoay quanh chủ đề “nói ngược”. Thứ “nghịch
ngôn” núp dưới bóng ca dao tục ngữ ấy luôn hàm chứa những thông điệp, lúc thì
hiển ngôn, lúc lại hàm ngôn với từng cấp độ khác nhau. Đọc bài lục bát “Cảm
nhận ở lăng Tự Đức”, không phải ai cũng hiểu sự thật phía sau những con chữ
viết như chỉ để chơi của Phạm Xuân Trường. Tác giả nói về lăng Tự Đức nhưng
trường liên tưởng của nó được nới rộng hơn nhiều. Cho dù dùng “án văn tự” để
quy kết từ các nhà phê bình chỉ điểm thì cũng chẳng có chứng cứ nào bắt bẻ được
một bài thơ cảm thán về một hiện tượng lịch sử cách ngày nay hơn một thế kỷ:
“Lăng vua ngàn vạn mét vuông
Chỉ chôn vào đất nắm xương một người
Chiều nay vô Huế rong chơi
Rồi len về quán trọ đời ngẩn ngơ…
Đất làng giờ xé thành lô
Giật mình nghĩ có lăng vua mà thèm”.
Lăng vua là
một dạng văn hóa vật thể được phóng chiếu qua lăng kính lịch sử. Nó có thể cộng
hưởng với yếu tố tâm lý xã hội tạo nên những phản ứng dây chuyền vượt ra ngoài
khả năng kiểm soát của các thiết chế toàn trị, bởi vậy nó luôn là vấn đề thời
sự.
Phong cách
“nghịch ngôn thi” buộc tác giả phải tìm ra cho mình kiểu diễn ngôn tương ứng
tạo được sự thống nhất giữa nội dung và hình thức mà một trong những cách phổ
biến nhất là “nhại” ca dao tục ngữ. Muốn làm được điều này không gì hơn là giữ
cái hình thức biểu đạt mà thay đổi nội dung được biểu đạt càng nhiều càng tốt.
Hiện tượng “nhái” ca dao tục ngữ luôn gây được hiệu quả bất ngờ, lúc đem đến
cho người đọc nụ cười sảng khoái, lúc lại khiến họ phải trầm ngâm suy nghĩ. Bài
thứ hai trong “Tứ bình chó” đã đưa được hình ảnh con vật rất gần gũi với con
người vào một hoàn cảnh khá đặc biệt, tạo nên sự so sánh thú vị giữa hai hiện
tượng xã hội. Cái cần bàn ở đây đương nhiên không phải là con chó đá được gia
chủ giao nhiệm vụ canh cổng mà là sự ẩn dụ những gì dân gian nghĩ tới qua hình
ảnh chó đá. Nếu ở cặp lục bát thứ nhất, tác giả mượn cấu trúc thanh thoát, uyển
chuyển của thể loại ca dao làm lời “đề dẫn”, thì hai câu sau, yếu tố phúng
thích lập tức xuất hiện bằng ngôn ngữ hiện đại hiển thị không còn úp mở như ca
dao nữa:
“Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm chó đá mặt còn trơ trơ
Bao giờ cho đến bao giờ
Ô hay! Phận chó mà thờ cũng thiêng”.
Phương thức
diễn đạt trong “Thần dược” cho dù là cảm hứng trữ tình hay những suy ngẫm về
nhân tình thế thái dưới dạng tự sự, bao giờ tác giả cũng tìm ra được lát cắt
điển hình giàu kịch tính, làm người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên
khác bởi những tín hiệu khác lạ, được bóc dần qua từng lớp vỏ ngôn từ:
“Váy áo chẽn ra điều dân tộc
Thỏ thẻ lời ăn tạo dáng nai rừng
Vốn tự có địu câu thơ mậu dịch
Rời bản làng em tuột ngụy trang”.
(Lột xác)
Ẩn sau những
câu thơ đọc lên nghe ra khá bẽ bàng, trơ trẽn, hình như còn một tầng nghĩa nữa
không mấy liên quan đến thân phận những ả ca ve. Điếm nhấn của đoạn thơ này là
một câu ẩn dụ xuất thần, tích hợp được cả hai nghề “làm thơ” và “bán hoa” : “Vốn tự có địu câu thơ mậu dịch” như một
trò chơi chữ nghĩa, trào lộng hiện tượng lạm phát “nhà thơ” và gái đĩ thời mở
cửa.
Đối với thơ,
thời nay người đọc thường không chú trọng lắm đế đề tài. Anh nói cái gì không
quan trọng, mà quan trọng là nói như thế nào. Vì thế, với những cây bút tài
năng, cho dù những việc “muôn năm cũ” nhưng nó lại rất mới bởi tác giả tìm được
cách diễn dịch có khả năng cảm hóa người đọc. Từ một hiện tượng bất chợt, qua
cái nhìn thấu thị của nhà thơ, hiện thực cuộc sống hiện ra với tất cả sự trần
trụi, ngược ngạo của nó:
“Xăng dầu tăng, ga, điện đều tăng
Môi đỏ mắt xanh hùa theo lên giá
Chỉ sức người và thơ là rẻ…”
(Vô đề 8)
Một mảng thế sự
mang trong nó nghịch lý hoàn toàn nghiêm túc nhưng lại được giải thích dưới góc
độ đạo đức chính trị. Cho nên, để phản ứng một cách có “văn hóa”, tác giả không
dùng “nghịch ngôn” mà sử dụng những lớp từ có biểu tượng đa nghĩa giống như
hiện tượng đánh tráo khái niệm nếu ta đọc tiếp đến bài “Vô đề 9”:
“Thuyền trưởng kém để con tàu mắc cạn
Thủy thủ đoàn vùi xác đáy biển sâu
Ban giám đốc ở bờ rút kinh nghiệm
Không phải thuyền trưởng ngu, chỉ tại con
tàu”.
Có thể xem,
“Vô đề” là mảng thơ thế sự, trình bày hiện thực xã hội dưới những cách thức
khác nhau bằng lớp ngôn từ giầu sắc thái biểu cảm, trong đó, bao hàm cả khía
cạnh hài hước, phúng thích. Nó vốn là bản chất cuộc đời, một phần trong văn hóa
giao tiếp, có xu hướng ưu thắng ở những thời kỳ xã hội suy thoái, con người bị
tha hóa:
“Gió chưa đổi chiều lá đã lật mặt
Rễ trong lòng đất ngậm ngùi đau
Nấp sau tượng gỗ nam mô phật
Câu thơ từ lâu biết lá đã đổi màu”.
(Vô đề 22)
Vẫn với giọng
điệu gai góc nhưng sắc thái trào lộng, bài “Đại nạn” dưới hình thức thơ tự do,
tác giả viết như là bản cáo trạng được quan tòa đọc trước đám cử tọa tự nhận là
vô can bởi những điều khoản mơ hồ trong các Bộ Luật được soạn thảo, chẳng hiểu
vô tình hay hữu ý, để chừa những khe hở mà một chú voi có thể lọt qua. Toàn bài
là một thứ thơ - văn xuôi được diễn giải bằng một loạt câu hỏi tu từ, không cần
trả lời, người đọc cũng biết chúng là ai:
“Thương các cụ rùa Hồ Gươm nghìn năm miệng
ngậm chuôi gươm cổ
Đang sống chung với lũ rùa tai đỏ hôm nay
Kẻ nhập ốc bươu vàng là ai
Ai lại hỏi ai lắc đầu quay quắt
Tập thể tán thành, cá nhân phụ trách
Nên thần Kim Quy dằn lòng sống với ngoại lai
Ai du nhập rùa tai đỏ về đây
Gió thổi âm u
Chẳng là ai cả”.
(Đại nạn)
Ngoài khuynh
hướng cáo trạng, bài thơ còn thấp thoáng đâu đó thứ “ngôn ngữ văn bản hành
chính” được đặt không đúng chỗ tạo nên hiệu ứng giễu nhại “Tập thể tán thành,
cá nhân phụ trách” của phương pháp Hậu
hiện đại kết hợp với lối tả điểm xuyết kiểu liêu trai “Gió thổi âm u” làm
bối cảnh. Từ “Ai” được hoán đổi vị trí trong tiếng vọng mơ hồ của hồn thiêng
sông núi khi mà không gian sinh tồn vốn đã chật hẹp lại bị lũ quái vật tai đỏ
xâm thực:
“Đánh thức những cánh đồng còn mê man ngái
ngủ
Về loài ốc bươu vàng và loài rùa tai đỏ quái
thai
Thứ lạc loài ai nhập về đây
Ai, hỏi ai…chẳng là ai cả”.
(Đại nạn)
Ở bài “Tô Thị
sống”, chúng ta lại một lần nữa bắt gặp hiện tượng “nghịch ngôn” trong “Thần
dược” khi mà tác giả khuyên mọi người chẳng cần du lịch đến Lạng Sơn mà vẫn có
thể gặp nàng Tô Thị. Rõ ràng đây là cách nói thậm xưng của thi pháp ca dao,
nhưng là lối thậm xưng “có cơ sở pháp lý” từ những hiện tượng phổ biến trong xã
hội đầy những nghich lý:
“30 năm cầu nối bờ sông
Đất nước tôi có cả ngàn Tô Thị sống
Đêm đêm mở cửa đợi chồng
Lặn lội nghĩa trang tìm hài cốt con
Đốt cả triệu nén nhang lửa không đủ ấm
Nghe gió mùa đông cắt thịt những cánh đồng
Ra đến đầu làng tôi gặp Tô Thị sống
Thôi! Chẳng cần du lịch đến Lạng Sơn”.
Tạm thời không
nói đến ý nghĩa xã hội (điều này bạn đọc thừa hiểu), mà điều cần bàn ở đây là
cấu trúc một một bài thơ hiện đại qua hình tượng có tính truyền thống là “Tô
Thị” được tác giả “xoay trục” khỏi nội hàm cổ tích, khoác cho nó một giá trị
mới mang cảm quan thời đại. Bài thơ có được tứ “Tô Thị” rất vững, nên trong quá
trình khai triển, cho dù ý tưởng được ẩn dụ ở tầng sâu, nó vẫn neo được vào
lòng người ấn tượng sâu sắc về số phận cay đắng của một dân tộc sau những cuộc
xung đột đẫm máu, một bài học lịch sử cần phản tỉnh.
Thói đời đã có
“cầu” ắt phải có “cung”. Trong mọi lĩnh vực hoạt động ở thời kinh tế thị trường
có “định hướng” này, các “thượng đế” luôn được cung cấp những “dịch vụ” tốt
nhất theo sở thích. Các di tích lịch sử được trùng tu hay tân tạo cấp tập
thường nghiêng về mục đích kinh doanh hơn là mục tiêu văn hóa. Vì thế, đình
chùa, miếu mạo nghiễm nhiên biến thành nơi buôn thần bán thánh cho dù đấy là
một ngôi chùa vong bản mang đậm phong cách kiến trúc “nước lạ”, hay những hang
động cơi nới được trấn yểm bằng cặp sư tử Tàu nhe nanh múa vuốt hù dọa khách
thập phương:
“Nhìn bề ngoài như đỉnh núi uy nghiêm
Hổ phục long chầu xếp hàng ngút ngát
Nhưng ruột núi chỉ toàn hang hốc
Hào nhoáng bên ngoài mà ruỗng bên trong”.
(Ngộ)
Phạm Xuân
Trường có biệt tài mà ít người sánh được là khả năng “diễn dịch” tức thời một
hiện tượng xã hội tưởng như chẳng có gì liên quan đến thơ thành bài thơ châm
biếm, hài hước, bề ngoài thì ra vẻ cười cợt nhưng bên trong lại là nỗi đau cho
cả một dân tộc vốn có truyền thống hiếu học. Đó là hiện tượng lạm phát học hàm,
học vị đến mức các phương tiện truyền thông của Nhà nước cũng phải thừa nhận
như một vấn nạn. Vì thế, chẳng có gì khó hiểu khi mà những “lò ấp” siêu tốc “công
nghệ cao” liên tục cho xuất xưởng loại sản phẩm kiểu này:
“Cấp 2 trượt văn toán
Nó bỏ nhà đi hoang
Năm mươi năm gặp lại
Ông tiến sĩ người làng
(…)
Kỷ niệm ngày họp lớp
Nó phát biểu oang oang
Hai bàn tay chém gió
Đám học sinh kinh hoàng…”.
(Tao bỏ tiền mua tao)
Một ông tiến
sĩ viết văn chẳng thành câu, cũng như không giải nổi phương trình bậc nhất lại
đường đường “chủ nhiệm đề tài” được xem như là mode(2) của thời @,
bởi thị trường luận án, luận văn trên “sàn giao dịch” luôn sôi động với đủ mọi
mánh lới tinh vi, vô cùng hấp dẫn, rất khó cưỡng lại. Vụ scandal(3) Đàm
Khải Hoàn ở Đại học Thái Nguyên chỉ là trường hợp “đồng chí bị lộ”, người ta
sẵn sàng cho “chìm xuồng” không mấy khó khăn. Vì thế, khi nói về sự nhếch nhác này
của nền giáo dục Đại học Việt Nam,
tác giả đã sử dụng ngôn ngữ trâng tráo của chính kẻ trong cuộc để tăng sức
thuyết phục:
“Thương trường là trường học
Mánh lới đời dạy tao
Có tiền có tất cả
Tao bỏ tiền mua tao”.
(Tao bỏ tiền mua tao)
Không phải bỏ
tiền mua bằng tiến sĩ mà là “bỏ tiền mua tao”. Đây há chẳng phải là nghịch lý
đời thường?
Thế nhưng, cái
mảng u ám ấy không phải là tất cả. Bầu trời đêm sâu thẳm vẫn le lói những vì
sao, mà học giả Nguyễn Trần Bạt là một trong số hiếm hoi đó. Phạm Xuân Trường
có cơ may quen biết Nguyễn Trần Bạt, người từng có tác phẩm nổi tiếng “Đối
thoại với tương lai” và trang web “chungta.com”. Tác giả thể hiện lòng kính
trọng nhân cách và tài năng nhà khoa học này bằng bài thơ “Tôi còn đủ thời gian
đến được ngày mai” vốn là tựa đề cuốn sách của Nguyễn Trần Bạt xuất bản năm
2013, trong đó có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa, xã hội.
Bài thơ giống như bức phác thảo chân dung tinh thần con người luôn đi trước
thời gian với những kiến giải thông minh, táo bạo, đầy sức thuyết phục:
“Tôi cúi đầu kính phục
Bằng cả tấm lòng với hồn thơ chân thật
Trong chiếc ‘chuồng người’ bất lực ngắm mây
bay
Vượt làm sao qua những giới hạn
Tôi còn đủ thời gian đến được ngày mai???
Ông – người yêu sự bình yên
Sao cứ nặng lòng về đất nước hôm nay”.
Cuộc đời đầy
những nghịch cảnh nên mới có đất sống cho những “nghịch ngôn thi” kiểu Phạm
Xuân Trường. Trong kho tàng cổ tích, ca dao, tục ngữ…chuyện ngược đời không
hiếm, nhưng như phần đầu người viết đã nhận xét, “sự hiếm” ấy nhiều khi lại phụ
thuộc vào cách kể, mà cách kể gây ấn tượng nhất có khi lại bằng… lục bát. Trong bài “Tạ ơn chó”, tác giả chỉ dùng đại
từ nhân xưng ở hai ngôi “tao”, “mày” hoán đổi nhau qua một chuỗi những sự kiện
về mối quan hệ giữa người chủ và con chó Nhật trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng
do những sai lầm từ chính sách vĩ mô, con người bị đẩy đến bước đường cùng,
phải “tự cứu mình trước khi trời cứu”, thì loại chó cảnh lông xù này luôn là
thần hộ mệnh của không biết bao nhiêu gia đình nghèo.
Bài thơ thực
chất là câu chuyện ân tình giữa người và chó bằng thể loại lục bát đầy ắp chất
liệu sống. Đó là chứng cứ hùng hồn về một giai đoạn lịch sử đen tối, và nếu
không có những nghịch lý như: “Lương hưu
dẫu có thế nào/ Suất ăn mày phải hơn tao: thằng ngươi/ Con tao ốm sẽ khỏi thôi/
Mày hâm hiu cả nhà cười héo hon”, thì đã mấy ai đủ tỉnh táo thoát ra khỏi
cái bẫy vô hình giăng mắc khắp nơi chỉ có một việc duy nhất là bần cùng hóa con
người?
Sự nhạy cảm
của tác giả cùng với những dòng tự sự được diễn đạt bằng ngôn ngữ trần trụi như
khóc như cười chảy ra từ ngòi bút nóng bỏng cảm xúc giống như một thứ cổ tích
hiện đại:
“Ti vi xe máy rong chơi
Con vào đại học thành người: mày nuôi
Chó là báu vật vàng mười
Giảm nghèo xóa đói cuộc đời từ đây”.
Cũng chính vì
những công tích “trời biển” trên của “Mino”
nên ông chủ mới tỏ lòng tri ân qua những dòng thơ đẫm nước mắt ai điếu cho vong
linh con nghĩa khuyển sau khi nó chết:
“Thế mà mày bỏ tao đi
Những tài sản chó cho thì còn đây
Nhìn đâu cũng thấy bóng mày
Bồi hồi thương nhớ những ngày hàn vi
Câu thơ nặng trĩu như chì
Tạ ơn chó biết nói gì: cố nhân”.
Một bài điếu
văn ai oán cho chó, mới nghe có vẻ ngược đời, nhưng buồn thay, đó lại là sự
thật. Từ nghịch lý trên, ta có quyền liên tưởng đến mối quan hệ giữa người và
người trong một xã hội mà cách ứng xử không còn dựa trên nền tảng đạo đức, mà
thay vào đó là những giá trị hoàn toàn xa lạ với truyền thống văn hóa người
Việt. Chó và người là hai thực thể khác nhau, nhưng con chó trong bài thơ có vẻ
như không phải là chú khuyển vô giáo dục, nên sau khi nó “qua đời” mới được
loài người ghi nhớ công trạng. Đương nhiên làm được bài thơ khiến thiên hạ gật
gù tán thưởng đã lắm công phu, nhưng chọn cho mình một cách nói riêng, không
lẫn với bất cứ cá thể nào trong một cộng đồng “đậm đà bản sắc” với hàng vạn
người cầm bút, mà hết thảy đều tự nhận mình là “nhà” hay “thi hữu”, còn công
phu hơn nhiều, nhất là đối với loại thơ chỉ toàn…nói ngược! Mà đã nói ngược là
phải vận dụng đến thủ pháp châm biếm, giễu nhại, phúng dụ, thậm xưng. Bài “Đầu
xuân đọc Tam Quốc” xem ra ít nhiều cũng có phẩm chất trên:
“Chỉ vì ba lạng phù vân
Nghìn năm vết nhục vừa gần vừa xa
Vợ con cũng là vợ cha
Bố con úp mặt vào hoa thập thành”.
Công bằng mà nói,
đây là hiện tượng xã hội khá phổ biến trong thời kỳ nền chính trị của một vương
triều suy thoái, các tập đoàn phong kiến xung đột, xâu xé lẫn nhau tranh giành
chiếc ghế quyền lực. Hình ảnh “hoa thập thành” được chuyển hóa sang phạm trù
đạo đức. Nó có sức mạnh hạ bệ, giải thiêng thần tượng, là ngọn roi quất vào
thói đạo đức giả, bóc lớp kim nhũ vàng son để lộ ra sự thật nhầy nhụa của đấng
“minh quân” xưa nay người đời vẫn xì xụp lễ bái. Ẩn ý của tác giả không có gì
khó đoán, nhưng cái đáng nói ở đây lại là sự mặt dày, trâng tráo vô liêm sỉ của
những kẻ luôn tự xưng là cha mẹ dân, những bậc “cửu ngũ chi tôn”(4)
lại ngang nhiên có những hành vi của loài cầm thú.
Tìm hiểu kỹ
cấu trúc “thơ ngược” trong “Thần dược”, ta còn nhận ra những dạng thức khá linh
hoạt, phóng túng ngoài kiểu nhại dân gian. Thông thường, tác giả tạo cho sự
kiện nào đó cái vỏ giống như một câu chuyện kể ở cấp độ phổ thông nhất, không
loại trừ cả chuyện đầu làng cuối chợ. Nhưng phần “ruột” của nó lại ngầm chứa
cách “kể” hoàn toàn khác, giọng điệu khác, vừa nghiêm túc vừa cợt nhả, vừa
chính thống vừa mang tinh thần “Cuội”, nhằm kích động tâm lý người đọc, mục
đích là để họ nhận thức sâu hơn về vấn nạn vô phương cứu chữa của nền “văn hóa
dối trá” đang tàn phá phẩm chất, tư cách dân tộc:
“Ngày xưa có thơ đăng báo
Bọn mình ào đến bắt khao
Từ ngày nó thành sáo sậu
Thơ như son phấn bạc màu
Văn chương trên đường trảy hội
Chúng mình và nó lạc nhau…
Bỗng dưng nó được giải thưởng
Hỏi thơ thằng ấy thế nào…”.
(Nín lặng)
Nếu làm một
trắc nghiệm nhỏ, kẻ viết bài này dám chắc, hầu hết quý độc giả, sau chỉ đọc
xong, chỉ gật đầu lẩm bẩm: “Chuyện thường
ngày ở huyện(5), biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Xin thưa rằng,
cái nguy hiểm là ở chỗ đó, bởi một hiện tượng như thế mà người ta cho là bình
thường, không đáng quan tâm, thì đủ biết thói quen dối trá và căn bệnh vô cảm
đã ăn sâu vào tâm lý con người như thế nào. Rõ ràng về cả khía cạnh xã hội và
đạo đức, bài thơ là một lời cảnh báo, nhưng nó chẳng khác gì nước đổ đầu vịt,
bởi trong cuộc sống hôm nay còn nhiều chuyện ngược đời mà cấp độ của nó nguy
hiểm gấp vạn lần…thơ nhạt.
Nói “thơ
ngược” là theo luận điểm của các nhà “quan phương học”, thực chất những bài thơ
chúng tôi vừa dẫn ra trong “Thần dược” chính là “thơ xuôi” dưới con mắt bao
quát của người cầm bút có lương tâm và trách nhiệm công dân với cộng đồng. Để
khép lại bài viết này, xin dẫn ra đây mấy câu lục bát trong bài “Nhân chuyện Hà
Nội chặt cây” của Phạm Xuân Trường mà người viết bài này xin phép không bình
luận, gửi đến bạn đọc cùng suy ngẫm:
“Một chiều Hà Nội mưa mau
Hai nghìn cổ thụ thay nhau ngả dần
Hai nghìn cái gốc phù vân
Hai nghìn mặt thớt dần dần phơi ra”
(Nhân chuyện
Hà Nội chặt cây)
Chí Linh, 11/11/2015
Đ.V.S.
(1) Tập thơ của Phạm Xuân Trường, NXB Hội Nhà văn,
2015
(2) Tiếng Pháp: thị hiếu
(3) Tiếng Pháp: bê bối
(4) Thành ngữ Hán (九五之尊): bậc tôn
quý ở ngôi cửu ngũ, chỉ vua, chúa. Các từ九 (cửu)五(ngũ) vốn
là tên gọi hào lẻ, xếp thứ 5 trong quẻ Bát quái. Hào này thường gọi là hào
“vua”
(5)Tên cuốn tiểu thuyết của nhà văn V. Oveskin thời
Liên Xô, được xuất bản ở Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét