Nhãn

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

Trò chuyện với nhà thơ Trần Nhuận Minh

"Chẳng có cái gì cao hơn sự thật"

Hoài Giang thực hiện

Trò chuyện với nhà thơ Trần Nhuận Minh
Nhà thơ Trần Nhuận Minh

*Thưa nhà thơ Trần Nhuận Minh: khi còn làm Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Quảng Ninh hình như ông sáng tác nhiều hơn bây giờ - khi đã về hưu -  mặc dù lúc đó rất nhiều công việc phải làm, hay là ông  đang “lặng gió” để mai ngày “bão nổi”?
Nhà thơ TNM: Ối chà chà! Không phải “hình như” đâu, mà đúng là như thế đấy, ông bạn vàng của tôi ạ. Vì khi sáng tác nó phải “hăng máu”. Khi “hăng máu” chính là lúc chịu áp lực của các công việc. Với tôi là thế, càng bận việc, sáng tác càng thông thoáng. Thậm chí có thể càng hay hơn cũng chưa biết chừng. Có lẽ ông cũng thế. Ví như cái Bản xônat hoang dã, cả một tập thơ mà nhà thơ Nguyễn Đức Tùng và Đỗ Quyên ở hải ngoại coi là một bản trường ca, “mới và lạ”, in thành một tập khá dầy, mang đến cho tôi Giải thưởng Nhà Nước về văn học nghệ thuật lần thứ 2 ( 2007 – cùng với tập Nhà thơ và hoa cỏ), tôi viết liên tục trong hơn 1 tháng, từ
khoảng 3g 30 đến 6g 30 hằng ngày. Sau đó tôi còn đủ thời gian, ăn bát cơm nguội, rồi trang phục chỉnh tề để đi họp hoặc đến cơ quan làm việc “quan” ( dù là quan dởm, cũng phải cho đàng hoàng, đúng không ông? ) Cho nên với tôi, sáng tác thơ không đòi hỏi nhiều thời gian lắm đâu. Một bài thơ được viết xong trên ô tô hoặc nghĩ xong trong đầu khi đang đạp xe đạp. Có lẽ làm cái “tơ lơ mơ” nó thế, chứ viết tiểu thuyết, dù có là thiên tài cũng phải “lăn lê bò toài” ra, đúng không, ông bạn?
* Nhiều nhà thơ khi sáng tác thường có các trạng thái khác nhau, có người ngồi im lặng, có người đi lang thang như kẻ mộng du... còn ông thì sao?

Nhà thơ TNM: Tôi thì cả hai, nghĩa là vừa “ngồi im lặng”, vừa đi ( như đi xe đạp hay đi bộ đến cơ quan ) chứ không đi “mộng du” đâu.  Tôi chả có cái “mộng ấy” bao giờ. Lúc làm cái “tơ lơ mơ” này, tôi tỉnh như sáo, tai thính đến mức, nếu ông nói xấu tôi mà chỉ nói thầm với bồ ở một xó nào đó, tôi cũng nghe được, còn  mắt thì tinh tường đến cái lỗ kim cũng trông thấy từ xa, cũng chưa biết chừng. Tôi là học trò bé và gặp các bậc thấy rất lớn của mình như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, nhiều lần, cũng có lúc ngồi cùng xe, ăn cơm cùng mâm với thầy để hầu thầy, tôi chả thấy các thầy ngồi im lặng hay mộng du bao giờ. Chỉ có một thầy ngồi im lặng, tay khẽ phe phẩy cái quạt mo, mắt lim dim… đó là lúc thầy Nguyên Hồng đang “viết” tiểu thuyết đấy, chứ không phải làm thơ, dù thơ thầy như bài Cửu Long Giang ta ơi, thì hay đến “khét lẹt”. Thầy là tác giả Bỉ vỏ mà đến bây giờ đọc lại, tôi cũng vẫn còn hãi về cái tài siêu đẳng của thầy. Tôi đã có 9 tháng học thầy ở trường viết văn Quảng Bá, Hà Nội. Phòng tôi cách phòng thầy có một cái bức vách hay một bức tường mười, tôi không nhớ nữa, vì nó ở ngay cổng vào. Có khi trông thấy tôi qua cửa, thầy vẫy vào, rót cho 1 chén rượu hạt mít, hơi rượu rất thơm ngon, rồi phảy tay 1 cái, nghĩa là tôi cứ tự nhiên ngồi xuống, im lặng mà uống, tự nhâm nhi, uống xong thì tự cút, chớ có chào hỏi nói năng gì…
* Trong sáng tác ông sợ điều gì nhất?
 Nhà thơ TNM: NHẠT. Hay hoặc dở đều là lẽ thường, dù sao cũng có cái để mà nói, thậm chí hứng lên có thể nói thú vị và hăng say, còn nhạt thì chịu, không có cái gì để mà nói cả.
* Vậy còn trong cuộc sống ông sợ nhất điều gì?
Nhà thơ TNM: GIẢ DỐI. Nếu giả dối mà lại khôn ngoan, tức là dùng nó như một thủ đoạn, để đạt được một mục đích nào đó, thì tôi lại KHÔNG SỢ nữa. Đến đó thì tôi hiểu và thấy nó tầm thường rồi, có khi nó gần với sự phản bội. Tôi yêu sự chân thành, ngay cả sai lầm, thì cái sai lầm của người chân thành cũng vẫn đáng yêu.
* Nếu tôi không nhầm thì trước đây ông có nói rằng muốn sáng tác hay là phải thể hiện bằng ngòi bút, nghĩa là ông không chấp nhận đánh máy chữ thay cho cây bút khi sáng tác. Hiện nay ông vẫn giữ nguyên quan điểm của mình?
Nhà thơ TNM: Không. Bỏ lâu lắm rồi, ông à. Và tôi rất vui thưa với ông điều đó. Đời người là một chuỗi sai lầm nối tiếp nhau, chính sai lầm mới dạy mình sự hiểu biết. Trước đây (khoảng 15 năm), tôi nghĩ không thể làm thơ lại ngồi gõ máy chữ… Nó là cảm xúc trào từ tim gan ra ngọn bút, có khi ra cả máu nữa…. Gõ cành cạnh thì còn cảm xúc cái nỗi gì. Giờ thì cảm xúc dồi dào nhất lại đến với tôi khi tôi gõ cành cạnh đấy, ông bạn ạ. Thì ra thời gian… sẽ lần lượt dạy bảo mình tất thẩy mọi điều, chứ chả riêng cái khoản gõ cành cạch…
* Giải Văn nghệ Hạ Long của tỉnh Quảng Ninh năm nay không có giải nhất về Thơ, là nhà thơ đã cả 5 lần đoạt giải cao  nhất VNHL về Thơ, ông nghĩ sao về điều này? Và tại sao lần này ông không tiếp tục tham dự giải?
Nhà thơ TNM: Thực ra thì lần trước ( lần thứ 6) cũng không có giải nhất, dù giải nhất là một tập thơ của tôi, ban chung khảo đã công bố báo chí rồi, chỉ chờ Chủ tịch tỉnh kí thì trao giải, tôi cũng xin rút. Chính là cái Xônat hoang dã mà lúc tôi xin rút là lúc tôi được tin Chủ tịch nước đã kí tặng Giải thưởng Nhà nước cho tôi rồi. Tôi nghĩ “được xôi thì nên thôi thịt”. Tôi có đề nghị chọn 1 tập thơ trong số 2 tập đã được xếp giải nhì lên giải nhất  thay cho cái đã rút của tôi, nhưng vì giải đã làm xong, chả lẽ vì thế, UBND tỉnh lại phải triệu tập một cuộc họp thêm ư? Rắc rối lắm. Nên thôi không đưa bổ sung nữa. Cũng tiếc cho anh em.
Lần này ( lần thứ 7),  tôi có ý thức nghe ngóng. Có bạn bảo: ông nên dự với anh em cho vui. Không dự là ông tự kiêu, cho rằng ông đã ở một đẳng cấp khác, không chơi với chúng mày nữa. Thế cơ à? Vậy thì tôi gửi dự giải. Và nếu được giải thì tôi lại tặng 100% tiền giải cho các cháu học sinh như tôi vẫn thường làm ( riêng Giải Nhà nước thì tôi tặng 50 % là 30 triệu đồng cho 2 trường học). Sau có đến 4 ông bạn đã khuyên tôi nên rút, trong đó một ông nói thẳng ra rằng: ông đã dự là nhất định ăn giải, mà có giải nhất, cũng là lẽ thường. Giải mỗi bộ môn tối đa chỉ có 9 cái. Vậy có ông, “thiên hạ” mất 1 cái rồi, rất có thể là mất cái cao nhất, nghĩa là có 1 người vì ông ngồi đấy mà mất phần. Mà ông thì đã “no sôi” rồi. Thế cơ à ? Vậy thì tôi lại rút. Và tôi rút trước khi ban sơ khảo do Hội tỉnh thành lập họp chính thức phiên đầu tiên. Sau mới chuyển sơ khảo về nhờ Hội nhà văn Việt Nam. Tôi cảm ơn 4 ông bạn đã chân thành khuyên tôi lời hay lẽ phải và tôi hi vọng sẽ có bạn được giải nhất, và ít nhất bạn ấy cũng có 1 giây trong 5 năm vui vẻ mà nghĩ đến mình: cái lão “khốt” ấy xem ra cũng biết điều đấy. Nhưng lại tiếc hơn là VƯỠN không có ai. Lần này chấm giải toàn các “bố già” trong làng thơ Hà Nội cả. Khách quan và công tâm là điều tôi rất tin. Hôm vừa rồi, họp ở Hải Dương, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, khoảng 8 giờ tối, cắp nách chai rượu tây rất xịn sang phòng tôi chơi. Cùng uống và nói chuyện đến 1 giờ 30 sáng. Nguyễn Trọng Tạo càng nói càng hay. Ông là một trong các “quan thơ” được mời chấm thơ Hạ Long kì này, ông nói rất rõ những tác giả chính của giải, chứng tỏ ông đọc từng tác giả rất kĩ, nhận xét rất tinh và đặc biệt là vô cùng thẳng thắn. Nhưng anh em nghe được, chắc sẽ không vui lắm đâu. Lần giải sau, thì đến “nghe ngóng” tôi cũng xin thôi luôn, dù tai có khi còn thính hơn bây giờ. Vai “đào kép rởm” tôi sắm trên sân khấu nghiệp dư đã chấm dứt vĩnh viễn. Và điều ấy lại làm cho tôi vui là mình đã “hoàn thành nhiệm vụ” ( dẫu sao cũng nên tự nghĩ như thế cho nó nhẹ nhõm), chỉ còn chờ… NGỎM nữa là xong. “ Bao giờ tiễn hết bạn bè / Tớ sẽ tưng bừng chui vào trong lọ / Ở trong ấy / Tớ sẽ nhảy muá và hát vang…”
* Ông từng là một nhà giáo rồi là một nhà thơ – Nhà thơ Trần Nhuận Minh ngày nay có gì khác Nhà giáo Trần Nhuận Minh ngày xưa không, thưa ông?
Nhà thơ TNM: Khác lắm chứ. Nhưng đừng nói nhà giáo Trần Nhuận Minh với nhà thơ Trần Nhuận Minh. Nói như thế là vận vào mình. Cụ Nguyễn Du dạy: “Một lời là một vận vào, khó nghe”. Cho nên ta chỉ tán “tùm lum” cái nhà giáo và cái nhà thơ nói chung mà thôi. Nhà giáo thì dạy học, với kiến thức “duy nhất đúng” là trong sách giáo khoa, dù sách giáo khoa cũng sai bét nhè. Anh nói đúng mà không trùng với đáp án đã soạn sẵn trong cái cõi u minh minh ở đâu đó bên ngoài anh,  thì thầy mất nghề, mà trò đi thi là trượt “vỏ chuối” ngay tắp lự. Còn sáng tác thì trái tim tôi mách bảo cái gì thì tôi gõ lên máy cái đó, không có chuyện đúng sai, chỉ có chuyện hay hoặc dở mà thôi. Truyện viễn tưởng khoa học hay chuyện ma quỷ thì đúng sai biết nói thế nào, ví như bộ truyện Tây du kí hay Liêu trai chí dị  của bên Tàu chẳng hạn. Nhưng nó hay là nó bất tử, thậm chí đứng hàng đầu trong cõi bất tử, ấy chứ lại. Nếu là một nhà thơ lớn, anh sẽ tự tạo ra một từ trường, ảnh hưởng trực tiếp đến khuynh hướng phát triển của nghệ thuật…, bởi nó sẽ  tự “lôi kéo” các tài năng khác gần với anh thành một nhóm… và tự định ra các tiêu chí, các thang bậc giá trị, bất chấp thời gian và cả các đấng cầm quyền, với lưỡi đao chém ngọt và vạc dầu sôi sùng sục. Đỗ Phủ chả có câu ( đại ý): “Các vua Sở hãm hại người tài  thì mất hẳn trong tro bụi, còn nhà thơ Khuất Nguyên bị buộc phải tự tử thì sáng tranh với mặt trăng mặt trời” đó thôi. Ngay nhà thơ cộng sản vĩ đại, người sáng lập ra thơ cộng sản thế giới theo tư tưởng của ông Mác và ông Lênin, là Maiacốpxki, ở nước Nga thời Lênin vĩ đại, đã viết ( ghi theo bản dịch đã thuộc lòng):
          Ta từ một trời thơ bước xuống
          Bước qua đầu các vị cầm quyền và mọi nhà thơ
đó thôi ! Sao không ai kêu ông ta là kiêu ngạo. Mà lại cứ lấy ông ấy làm mẫu mực để cả thế giới theo tinh thần của chủ nghĩa Lênin, phải học tập và làm theo.  Cho nên, một nhà thơ có tài không bao giờ tự so mình với một ông bộ trưởng bộ nhà giáo…do nhà vua cử ra. Đấy cũng là cái khác nhau đấy, ông bạn à. Nếu trên đời có một “cái ngưỡng” nào đó, thì ông nhà giáo viết văn sẽ phân vân mà sau đó thường dừng lại, còn ông không làm nhà giáo thì  bước qua ngay, chả “lăn tăn”  một tí nào. Ví như ông Nam Cao và ông Vũ Trọng Phụng thời đã qua và ông Ma Văn Kháng và ông Lê Lựu thời hiện tại, dù 4 ông ấy đều tài năng ngất ngưởng cả đấy chứ, rất khó mà nói hai ông cùng cặp ứng đối ấy,  ông nào thì hơn hẳn ông nào…
* Trong cuộc đời ông yêu điều gì nhất?
Nhà thơ TNM: SỰ THẬT. Trong bài thơ Đi trong làng Sấm, ( “làng Sấm” là tên cái làng do tôi tự bịa ra, để chỉ làng Cổ Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng, quê hương Sấm ký của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm) có câu:
               Đã khác rồi, các khái niệm về tử sinh, bạn thù và nước lửa
              Trên am Bạch Vân, mây trắng thời cụ Trạng vẫn còn bay
              Cõi đời này, chẳng có cái gì cao hơn Sự Thật
              Sông lặng lẽ trôi mà mài mòn cả bóng những đền đài…
Đến khi làm bài thơ Còn bao nhiêu thời gian… tôi viết ở bệnh viện K Hà Nội, vì thích cái ý ấy, nên tôi lại viết :
                Còn bao nhiêu thời gian để tôi yêu đất nước đã  nuôi dạy tôi
                                                                                     trong đói rét, đạn bom
               Và tôi nhận ra trên cõi đời này, chẳng có cái gì cao hơn Sự Thật
( Dĩ nhiên là ở bài trên, câu thơ trùng tôi phải chữa lại). Lẽ thường, không hiểu vì sao, người ta thường sợ hãi trước sự thật ông ạ. Đất nước biết bao điều nóng bỏng phải quan tâm mà Đài Truyền hình Việt Nam lúc nào cũng thấy nhảy múa tít mù. Và  cánh sáng tác sáng te chúng ta nữa. Ai cũng sợ có người nói thật là thơ văn của mình “đếch” ra cái gì. Có in lắm cũng chỉ là tiếp tay cho lâm tặc, phá rừng mà thôi. Vì thế, chúng ta cứ tự khen nhau tít mù cả lên. Tôi có bài thơ hai câu:
TÂM SỰ
Tôi không thích những ai luôn đồng ý với tôi
Vì họ chẳng dạy tôi được một điều gì cả…
Tất nhiên, người dạy mình sự thật khác với kẻ nhằm cái sơ hở yếu kém, chắc chắn là có, của mình, không có thì bịa tạc ra để làm hại mình. Kẻ ấy thì chẳng bõ bèn gì mà mất công bàn. Tôi đã tôn vinh một ông đi qua đường chỉ dạy tôi có 1 / 3 chữ làm thầy, khi hỏi tôi:
“ - Minh viết
Đi trắng tóc chưa qua miền thơ dại
YÊU làm sao, thăm thẳm gió thu ơi!
yêu hay là yên, vì chữ u ngửayêu, u úpyên.”
Tôi bảo em viết là yêu. Ông phán ngay: “Yêu thì vứt! Yêu hay không yêu là thơ của người khác, không phải thơ của Minh. Toàn bộ thơ Minh là yên hay không yên. Mà yên hay không yên, mới là vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta ngày hôm nay.”
Càng nghĩ, càng thấy ý kiến của ông ấy sâu sắc biết nhường nào. Tôi kêu lên rằng: tôi là học trò của nhiều người danh tiếng. Vậy mà các vị ấy chưa có một ai dạy tôi điều sâu sắc và cụ thể đến mức ấy. Và cuối cùng, tôi đi theo con đường mà người qua đường đã chỉ cho, khi có lẽ là tình cờ đi qua sân nhà tôi trong vài ba phút. Tôi đã tìm bằng được người thầy đó để tạ ơn. Nếu anh nghĩ là thơ tôi có được một vài thành tựu cỏn con nào đó, mà hỏi tôi vì sao? Thì tôi trả lời ngay rằng: tôi là học trò của nhiều người thầy như thế, có người từng là học trò cũ của tôi theo nghĩa đen, nhưng chính họ đã dạy tôi trở lại, để tôi làm một nhà thơ có trách nhiệm cao hơn với chữ nghĩa. Tôi nói không quá đâu, ông bạn vàng à!
* Trên văn đàn hiện nay người ta hay nói nhiều đến hiện tượng đạo thơ, đạo văn và nhiều kiểu đạo khác trong lĩnh vực VHNT  - Ông nghĩ gì về điều này?
 Nhà thơ TNM: Có 2 điều cần phải phân biệt. Một là biết rõ là cái đã có của người ta mà thuổng vào hoặc “môliphê” đi một chút rồi đưa vào làm cái của mình, thì là đạo, nói toạc ra là ăn cấp. Trong giới ta, có nhiều hơn là ở các nhà nghiên cứu phê bình, các báo đã nêu tên. Trường hợp thứ hai: có khi đọc của người ta, nó thấm vào mình rồi nó “trôi” ra không có ý thức. Hoặc ý tứ cùng nghĩ gần gần nhau, nhưng không giống hẳn nhau. Trong khoa học tự nhiên, điều này càng rõ:  2 nhà khoa học ở 2 châu lục, không có liên hệ với nhau mà cùng phát hiện ra một chất và sau đó cùng được giải Nôbel, là một ví dụ. Nếu ở trường hợp thứ hai này, cần một biên tập viên có học, có nghề, chịu đọc, chịu nhớ, là giúp người ta loại trừ được ngay. Tôi nghĩ không nhà sáng tác nào đã cầm bút với ý thức sáng tạo, lại cố ý đi ăn cắp. Trong trường hợp thứ nhất thì phải lên án như lên án một kẻ cậy cửa nhà người ta; còn trường hợp thứ hai thì lượng thứ được, nhưng vẫn nghiêm khắc chỉ ra cho nhau để cùng loại trừ. Ngay các bậc thầy của nền văn học văn hóa nước ta, những đại cổ thụ cũng đã từng “sáng tạo lại” như thế. Tôi nghĩ là ai thông thạo văn chương cũng đã có sẵn không ít ví dụ như vậy. Tất nhiên không có cả cái thứ hai này thì vẫn hay hơn.
* Có người nói Bản Xô nát hoang dã của ông có cái gì đó điên điên, ngược ngược, khó nuốt và có phần bế tắc trong sáng tác, khác hẳn với Nhà thơ và hoa cỏ - Theo ông thì thế nào? có đúng như vậy không? Hay đây có phải là sự bứt phá của sự  sáng tạo nghệ thuật?
Nhà thơ TNM: Ông bạn vàng ơi, chính ông đã trả lời rồi đấy. Nó là trường hợp thứ hai, tất nhiên là tôi nghĩ thế. Ý kiến của ông cũng trùng với ý kiến của nhiều người…Tất nhiên cái Nhà thơ và hoa cỏ, viết theo lối truyền thống, dễ đọc hơn, nó đã được in đến 19 lần, trong đó 3 năm, mỗi năm in 2 lần. Còn cái Xônát cũng đã in đến 10 lần rồi, trong đó 2 năm in mỗi năm 2 lần đấy, ông à.
        Tất nhiên cái hay nào cũng có cái dở đi kèm, cần phải khắc phục và tôi lắng nghe để tự vượt lên ở các tập sau. Và cả điều đó,  nhà thơ Vũ Quần Phương cũng đã chỉ rõ trong một bài viết về tập thơ 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh của tôi. Xin ông tìm đọc cuốn Trần Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ, tên tập là tên bài của nhà phê bình nghiên cứu, giáo sư Phong Lê, nguyên Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam, nhà xuất bản Văn học đã in ( sau đó bài của Giáo sư Phong Lê, nhà xuất bản Lao Động đã in lại trong công trình nghiên cứu của giáo sư).  Còn ai nói “khó nuốt” thì tôi rất thông cảm. Nhà văn Đặng Văn Sinh đã viết ( bài đã in nhiều lần ở trong nước và cả ở nước ngoài) rằng: “ Bản Xônat hoang dã là một trường ca văn xuôi tản mạn về quy luật được nhận thức dưới nhiều góc độ khác nhau. Đây là một thứ “thơ phản thơ”, mà công năng của nó là phá vỡ cấu trúc tĩnh tại của mọi hiện tượng, phát hiện những mối tương quan phi lôgíc  trong bản chất vạn vật, xác lập những cơ chế tiếp nhận, hình thành những khái niệm mới, khác hẳn lối xây dựng hình tượng của mĩ học truyền thống”. Và “ Những chất liệu truyền thống, làm nên thơ, hầu như bị lọai khỏi cuộc chơi. Cái phi lí được xác lập, hình thành một dải cấu trúc phi thời gian. Tính hệ thống bị phá vỡ, vì thế, trật tự ngữ nghĩa cũng như nội dung thông báo cũng được sắp xếp lại”. Nhà thơ Trúc Thông thì nói gọn hơn: Với tập thơ này, tôi đã  “thoát mình ra một vùng ánh sáng mới”. Tôi cảm ơn nhà văn Đặng Văn Sinh và nhà thơ Trúc Thông đã rất hiểu tôi.
         Nếu ai đó cho là “điên điên” thì tôi cũng cho là lẽ thường, còn bế tắc thì hoàn toàn không phải. Tôi chờ đợi sự đồng cảm ở bạn đọc. Xin kể một chuyện gần đây nhất: một buổi sớm tinh mơ, nghe tiếng chuông, tôi rời phòng viết xuống mở cửa và rất ngạc nhiên nhận ra người nghệ sĩ sân khấu chuyên nghiệp lão thành: cụ Trần Văn Kỉ. Tôi kính trọng mời cụ lên nhà. Cụ nói: “Không cần. Tôi thấy cần phải qua đây, để nói với chú có một câu thôi: Tôi đọc cái Xônat của chú lần 1, lần 2 không hiểu. Nhưng tôi nghĩ: chú Minh viết thì không thể tùy tiện, nên tôi phải đọc lại. Đêm qua, tôi đọc một mạch hết cả tập. Tôi chợt hiểu ra được điều chú muốn nói, tôi bàng hoàng cả người, suốt đêm khó ngủ quá, càng nghĩ càng thấy nó hay.  Tôi  cám ơn chú. Tôi chỉ nói với chú có một câu thế thôi”.
         Thế rồi cụ về luôn.  Người nghệ sĩ rất kính trọng đó là nhạc phụ nhà đạo diễn Lê Chính, nguyên Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Quảng Ninh.
* Là nhà thơ khá nổi tiếng hiện nay – ông nghĩ thế nào về thơ Việt Nam bây giờ?
Nhà thơ TNM:  Tôi chỉ xin nói với tư cách là một người đọc bình thường. Theo tôi: hiện đang là cuộc “bàn giao” giữa hai thế hệ, tạm gọi là “thế hệ trước và sau 1975”. Cuộc bàn giao này theo tôi là không thành công, so với cuộc bàn giao của “thế hệ trước và sau 1954”, vì nó đứt đoạn, không “liền hơi” (như ở giai đoạn trước) để lại một “khoảng trống” ở giữa. Đọc thơ bây giờ là đọc cái khoảng trống đó. Hơn nữa thơ bây giờ in vô cùng tràn lan, có lẽ đến 90 % là thơ của các tác giả Câu lạc bộ, in cho vui và để tặng bạn bè con cháu làm kỉ niệm. Do đó, một số bạn đọc ở hải ngoại về nước, tiếp xúc nhiều hơn với loại thơ này, có nói với tôi là họ chả còn hiểu ra làm sao…
 Theo tôi, các nhà thơ xuất hiện sau 1975, chủ yếu là sau 1986 đang xác lập một hệ thống thẫm mĩ mới qua các xu hướng nghệ thuật mới, có những trường hợp mới hẳn, nghĩa là người ta thấy nó ít, hoặc không còn dính dáng gì với truyền thống của quá khứ, dù vẫn dùng tiếng Việt… Tôi nghĩ điều đó là rất chính đáng, nó có cái hay của nó và tôi ủng hộ. Nó hé ra một cuộc cách mạng mới về nghệ thuật thi ca mà tôi chờ đợi và hi vọng. Nhưng cuộc cách mạng ấy, rốt cuộc đã không xảy ra. Có thể có nhiều lí do, nhưng lí do chính là, trong các đồng nghiệp của tôi ở thế hệ này, không có những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, không có những Phạm Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận của mình…, cũng không có cả một Hoài Thanh của mình nữa. Nghĩa là lực lượng chưa đủ sức thuyết phục cho một cuộc ra quân dành chiến thắng. Trong thơ ca, lí luận không bao giờ giải quyết được vấn đề. Chỉ có sáng tác mới giải quyết được những vấn đề của sáng tác. Mà sáng tác, thì các bạn trẻ của tôi chưa tới được cái cần phải tới, để ngã ngũ các giá trị… Có lẽ phải chờ thêm ít lâu nữa chăng?...
       Trong khi đó, thế hệ thơ chống Mĩ của tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, một số người còn sức, đang làm những phần việc cuối cùng. Cái mà họ cần vươn tới để lấp chỗ trống, đó là tính hiện đại với các yêu cầu mới, khả năng tự vượt qua các giới hạn, để đưa thơ mình đến với bạn đọc, kể cả bạn đọc ở nước ngoài, với nhịp cầu đi tới trong các tìm tòi nghệ thuật, các xu hướng nghệ thuật mới, có ý nghĩa mở đường, cho các nhà thơ thế hệ sau. Cái làm cho họ không vươn tới được cái cần vươn tới đó, chính là “rào cản” của bản thân mình, ở ngay trong chính bản thân mình. Có “vấn đề xã hội” không?.  Có, nhưng không đáng kể. Cái chính vẫn là sức sáng tạo và tầm vóc trí tuệ, tài năng của cá nhân nhà thơ.
        Khoảng trống ở giữa hai “thế hệ” cầm bút này khá rõ, đến mức có cảm giác rằng, phía này là các ông bà “trống đánh xuôi”, còn  phía kia là các anh chị “kèn thổi ngược”.  Cả hai đều tự đánh mất độc giả, hoặc ít hoặc nhiều. Đấy là lí do vì sao nhiều bạn đọc thấy nản khi đọc thơ hiện nay. Không biết cái cảm giác đó có đúng lắm không? Có thể ư ? Tôi cũng không dám chắc!
Vâng, xin cảm ơn nhà thơ! Xin chúc nhà thơ dồi dào sức khỏe để tiếp tục sự nghiệp sáng tác của mình.
Nguồn: trannhuong.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét