Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia
Long
Thụy Khuê
Chương 3
Tóm tắt giai đoạn
lịch sử 1777- 1802
(Phần 2)
Nguyễn Vương thu
phục Gia Định
Cuối năm 1788,
Nguyễn Vương đã chiếm được Sài Gòn và phần lớn đất Gia Định nhưng Phạm Văn Tham
vẫn còn cầm cự ở Vĩnh Long và An Giang.
Vương sai Lê Văn
Quân, Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương họp nhau đánh Phạm Văn Tham ở Hổ
Châu [An Giang]. Phạm Văn Tham rút về Ba Xắc [Ba Thắc, An Giang?]. Thế cùng,
phải ra hàng.
Toàn bộ Gia Định về
tay Nguyễn Ánh.
Tháng 4/1789 (tháng
3 ÂL.) xây hai thành Cá Dốc [Dốc Ngư] và Vàm Cỏ [Thảo Câu] là hai nơi xung yếu,
cổ họng của Sài Gòn, sai Nguyễn Văn Thành trấn giữ.
Vương rất chú trọng đến Vệ Thần Sách (Công binh và
Pháo binh): sai Tôn Thất Huyên cai quản các đội ban trực tiền vệ Thần sách dinh
Trung quân; Tôn Thất Chương ban trực hậu, Phạm Văn Nhân ban trực tả, Tô Văn
Đoài ban trực hữu.
Tháng 7/1789 (tháng 5 nhuận) Vương bàn định đánh Tây
Sơn. Nhưng nghe tin Nguyễn Huệ ở Thuận Hoá đã đóng nhiều chiến hạm, đang định
đánh vào Nam, lại thôi.
Bắt đầu đặt chức quan Điền tuấn (trông coi nông
nghiệp), dùng 12 người trong Hàn Lâm Viện chế cáo (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang
Định, vv...) trông coi việc mở mang canh nông, khai phá đất hoang cho bốn dinh:
Phiên Trấn (Gia Định), Trấn Biên (Biên Hoà), Vĩnh Trấn (Vĩnh Long), Trấn Định
(Định Tường), khuyến khích dân trồng trọt, người nào không thích nghề nông thì
vào phủ binh. Lập trường võ bị, chọn những người có khả năng chiến đấu trong
quân ngũ, cho luyện tập trở thành quân tinh nhuệ.
Tháng 8-9/1789 (tháng 7 ÂL.) hàng tướng Phạm Văn Tham
bị kết tội liên lạc với Nguyễn Huệ để khôi phục lại miền Nam, bị giết.
Tháng 9-10/1789 (tháng 8 ÂL.) sai đóng hơn 40 chiến
thuyền lớn, hơn 100 thuyền đi biển.
Cải tổ nội các: Lập thêm bộ Lễ, Nguyễn Thái Nguyên
coi, Nguyễn Bảo Trí, bộ Lại, Nguyễn Đô, bộ Hộ.
Tháng 11-12/1789 (tháng 10 ÂL.) đại duyệt binh tướng
sĩ các dinh ở Đồng Tập Trận (ngoại ô Sài Gòn).
Chỉ định các tướng lãnh chỉ huy các đạo, các dinh, các
chi... trong toàn bộ quân đội.
Sai dinh Trấn Biên mua đường cát, mỗi năm 10 vạn cân,
có sẵn, để đổi cho người Tây Dương lấy đồ binh khí.
Cải tổ binh thuyền.
Ngày 22/4/1790 (ngày Kỷ sửu, 9/3 Canh Tuất), đắp thành
đất Gia Định, Tôn Thất Hội trách nhiệm cùng với Trần Văn Học (Liệt truyện II,
t. 77-282).
Nguyễn Vương mua súng đạn, đóng tầu, xây dựng thành
quách
Tháng 5-6/1790 (tháng 4 ÂL.) Lê Văn Quân chủ trì bàn
việc xuất quân, Nguyễn Văn Thành can không được. Nguyễn Vương sai Lê Văn Quân
làm tư lệnh, Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành, tiên phong, tiến đánh Bình Thuận.
Chiếm được.
Lê Văn Quân tiến đánh Diên Khánh, thua to, lui về giữ
thành Hưng Phúc. Vua về Gia Định.
Tháng 6/1790, một số lính Pháp theo giúp Nguyễn Vương,
được nhận chức cai đội. Hai năm sau nhiều người bỏ đi. Chỉ Chaigneau và Vannier
ở lại đến đầu đời Minh Mạng.
Tháng 11/1790 (tháng 10 ÂL.) bắt đầu lập đồn điền, cấp
trâu bò, điền khí và hạt giống, khai phá đất hoang. Đặt thái y viện. Dựng kho
hoả dược. Tháng 12/1790 (tháng 11 ÂL.) sai
Cai cơ Võ Di Nguy coi đóng một chiến thuyền lớn và 15 thuyền đi biển.
Tháng 1/1791 (tháng 12/ Canh Tuất) sửa đắp thành đất
Gia Định. Sai Trần Vũ Khách đi Giang Lưu Ba (Jakarta,
thủ đô Indonesia)
tìm mua đồ binh khí.
Lập xưởng thuỷ sư, từ bờ sông Tân Bình đến bờ sông
Bình Trị, trên ba dặm, thuyền đi biển, thuyền chiến (hình thức như thuyền buôn,
không mui mà nhỏ) thuyền ô (sơn đen nên gọi là ô thuyền), thuyền son (sơn đỏ
gọi là chu thuyền), thuyền lê (đầu đuôi thuyền đều chạm vẽ gọi là
lê thuyền), đều đậu ở đó.
Tháng 2/1791 (tháng 1 Tân Hợi) định lệ hàng năm duyệt
binh.
Lê Văn Quân từ khi thua trận, cáo bệnh, vua vời không
đến, bị đình thần kết án. Tự vận.
Tháng 3/1791 (tháng 2 ÂL.) nhân dịp người Bồ Đào Nha
tên là Chu Di Nô Nhi đến buôn bán, Nguyễn Ánh gửi thư cho quốc vương Bồ mua
binh khí (1 vạn cây súng chim, 2.000 cỗ súng gang, mỗi cỗ nặng 100 cân, 2.000
viên đạn).
Gián điệp qua lại luôn, tin tức Tây Sơn, không việc gì
là không biết.
Ngày 25/5/1791 (23/4 Tân Hợi) Minh Mạng ra đời, con
phi thứ hai Trần Thị, con gái tham tri bộ Lễ Trần Hưng Đạt. Sau này, Đặng Đức
Siêu, Nguyễn Văn Trương... sẽ là thầy dạy.
Đóng hơn 100 chiếc chiến thuyền.
Tháng 11/1791 (tháng 10 ÂL.) lập đền Hiển Trung, thờ
các công thần, theo vua từ Vọng Các.
Năm Tân Hợi 1791 (không rõ tháng) Nguyễn Ánh bí mật
sai người cầu Đặng Đức Siêu, cựu thần chúa Nguyễn, không ra giúp Tây Sơn. Siêu
lẻn vào Gia Định, hiến kế đánh Tây Sơn, trở thành quân sư, luôn luôn bên ở mình
Nguyễn Ánh. Tất cả những chiến dịch sau này, phần lớn do Đặng Đức Siêu làm cố
vấn.
Tháng 2/1792 (tháng 1 Nhâm Tý) đóng năm hiệu thuyền
Hoàng Long, Xích Nhạn, Thanh Tước, Bạch Yến và Huyền Hạc.
Nguyễn Ánh sử dụng chiến thuật gió mùa: Hàng năm, khi
gió nồm thổi, thuỷ quân thuận chiều gió ra đánh, hết gió quay về.
Sai đắp thành Mỹ Tho, góc thành đắp như dáng hoa mai,
chu vi 499 trượng.
Hai bên sửa soạn chiến tranh
Tháng 4-5/1792 (tháng 3 ÂL.) vua Xiêm viết thư muốn
"liên kết" để đánh Quang Trung. Bởi vì Quang Trung đã đem quân đánh
Vạn Tượng, quân Xiêm thua to.
Nguyễn Ánh hay tin Nguyễn Huệ đã sửa soạn hai, ba mươi
vạn binh thủy bộ để đánh Gia Định. Quân bộ qua Lào đánh Nam Vang, tiến vào sau
lưng Sài Gòn. Thuỷ quân vào Côn Lôn, chiếm Hà Tiên, rồi theo đường Long Xuyên,
Kiên Giang đánh mặt trước Sài Gòn.
Tháng 5-6/1792 (tháng 4 ÂL.), Nguyễn Ánh tổ chức phòng
vệ.
Tháng 6/1792, Quang Trung đem 30.000 đánh Lào rồi
xuống Cao Mên, nhưng lại rút về (thư của LM Le Labousse, 16/6/1792, Launay,
Histoire de la Mission de Cochinchine III, t. 223).
Trong lúc tình hình sôi bỏng, những người lính Pháp
theo giúp từ 1790 chuẩn bị rút lui.
Tháng 6/1792, phần lớn những người Pháp đều bỏ đi hoặc
bị đuổi vì kỷ luật. Bá Đa Lộc cũng muốn xin về. [Thư của Lavoué gửi Létondal,
viết tại Lái Thiêu ngày 16/6/1792. Thư Le Labousse gửi Létondal, viết từ biên
giới Cambodge ngày 17/6/1792. Thư Bá Đa Lộc gửi Boiret ngày 20/6/1792 (Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine
III, t. 295-297)].
Tháng 6-7/1792 (tháng 5 ÂL.), Nguyễn Huệ liên kết với
40 thuyền Tề Ngôi (giặc biển, người Tầu) tấn công miền Bình Khang, Bình Thuận.
Tháng 7-8/1792 (tháng 6 ÂL.) cai đội Ôlivi (Olivier de
Puymanel) được thăng chức Vệ Uý ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách.
Trận Thị Nại 1792
Được tin gián điệp cấp báo Nguyễn Nhạc đóng nhiều
thuyền chiến đậu ở cửa Thị Nại, sửa soạn chinh phạt Gia Định, Nguyễn Ánh quyết
định đánh trước.
Lệnh cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Võ chuẩn
bị lương thực khí giới hành quân. Định ngày thử chiến hạm ở biển (thuyền đại
hiệu và thuyền ô sai, 128 chiếc).
Để Tôn Thất Huy, Võ Tánh và Tống Phước Đạm giữ Sài
Gòn.
Biết Thị Nại không phòng bị, Nguyễn Ánh, xuất quân từ
cửa Cần Giờ, gặp gió nam thổi mạnh.
Các tướng thống lĩnh: Quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn
Thành, Trực tả Phạm Văn Nhân; giám quân Trung quân Nguyễn Văn Trương hộ giá,
tiến thẳng tới Thị Nại.
Sai quân tinh nhuệ phóng hoả đốt thuỷ trại.
Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành đi thuyền Long
[Long Phi] và thuyền Phụng [Phượng Phi], đánh thẳng vào. Đô đốc Thành bỏ chạy.
Quân Nguyễn chiếm được 5 thuyền lớn, 30 thuyền đi biển, 40 thuyền sai, ba chiếc
thuyền của Tề Ngôi.
Trận này chỉ có 10 ngày, chiến thắng lớn đầu tiên của
Nguyễn Ánh, từ khi về Gia Định, khiến Quang Trung nổi giận. Hịch Quang Trung
(sẽ đăng trong chương sau) chỉ trích sự thua trận này.
Ngày 27/8/1792, Quang Trung truyền hịch cho quan,
quân, dân hai vùng Quảng Ngãi và Quy Nhơn: sẽ san bằng Gia Định.
Chưa kịp tiến quân, Quang Trung băng hà ngày
16/9/1792.
Quang Toản, 10 tuổi, lên ngôi, hiệu Cảnh Thịnh. Cậu
ruột là thái sư Bùi Đắc Tuyên làm phụ chính.
Ở Pháp, vua Louis XVI và hoàng hậu Marie-Antoinette
lên đoạn đầu đài. Nước Pháp rơi vào thời đại Kinh Hoàng (La Terreur). Số người
bị giết ước lượng 100.000, trong đó có khoảng 17.000 bị lên máy chém.
Nguyễn Ánh đánh Quy Nhơn lần thứ nhất, 1793
Sau khi Nguyễn Huệ mất, Nguyễn Ánh lại được tin triều
đình Quang Toản và Nguyễn Nhạc nghi kỵ nhau, bèn quyết định đánh Quy Nhơn.
Thuỷ binh là điểm cốt yếu của quân Nguyễn.
Tháng 2-3/1793 (tháng 1 Quý Sửu) Nguyễn Ánh sai đóng
thêm các thuyền đại hiệu (tầu chiến): Long ngự, Long thượng, Long hưng, Long
Phi, Bằng phi, Phượng phi, Hồng phi, Loan phi, Ưng phi. (Chắc là sửa lại các
tầu Phượng Phi và Bằng Phi, vì đã có từ năm 1785).
Tháng 3-4/1793 (tháng 2 ÂL.) sai Phạm Văn Nhân làm phó
tướng Tả quân kiêm Tri Tàu vụ.
Tháng 4-5/1793 (tháng 3 ÂL.) lập hoàng tử Cảnh (13
tuổi) làm Đông Cung.
Dựng nhà Thái học. Đặt một đông cung phụ đạo [Bá Đa
Lộc] và 2 đông cung thị giảng [Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định].
Tháng 5-6/1793 (tháng 4 ÂL.) đem đại binh đánh Quy
Nhơn, để Đông cung ở lại giữ Gia Định cùng phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân và
Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm.
Bộ binh do Tôn Thất Hội thống lãnh, Nguyễn Huỳnh Đức
và Nguyễn Văn Thành trực thuộc,
tiến đánh Phan Rí.
Cai cơ trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn
Văn Hào; Chưởng cơ đạo Ba Phủ là Cổ và điều khiển Cường, đem quân Man (người
Thượng) theo đường bộ tiến đánh Phan Rang.
Nguyễn Ánh xuất quân ra cửa Cần Giờ. Nguyễn Văn Trương
và Võ Di Nguy tiên phong, Võ Tánh hộ giá. Phan Thiên Phúc, bộ Hộ và tham tri
Nguyễn Đức Chí trông thuyền lương.
Tháng 6-7 (tháng 5 ÂL.) Nguyễn Ánh đến Phan Rang, sai
Nguyễn Kế Nhuận đánh bảo [bảo là thành đất, rất vững] Mai Nương, quân Tây Sơn
bỏ chạy.
Nguyễn Ánh đến Nha Trang, sai Vũ Văn Đắc và Nguyễn Văn
Lượng đánh bảo Hoa Bông, Tây Sơn bỏ chạy, chiếm được phủ Diên Khánh. Nguyễn Ánh
đóng ở vụng Hòn Khói. Võ Tánh chiếm phủ Bình Khang.
Bộ binh của Tôn Thất Hội đánh bảo Phan Rí, chiếm được
Bình Thuận.
Thuyền Nguyễn Ánh đến cửa Xuân Đài. Sai Võ Tánh đánh
bảo La Thai [La Hai], Phạm Văn Điềm thua chạy. Võ Tánh chiếm được Phú Yên.
Nguyễn Ánh tiến đến Thị Nại, Võ Tánh chiếm các bảo ở
chợ Thị Nại.
Tháng 7-8 (tháng 6 ÂL.) Võ Tánh thắng trận cầu Tân
Hội, tiến đánh cánh đồng Bình Thịnh.
Nguyễn Nhạc sai con là Nguyễn Bảo đem quân tinh nhuệ
và voi đực ra tiếp chiến.
Bộ binh Tôn Thất Hội cũng vừa tới.
Nguyễn Bảo đặt liền đồn trại từ Thổ Sơn đến Úc Sơn để
chống cự.
Nguyễn Ánh dặn Tôn Thất Hội giả vờ tấn công từ gò Phú
Quý, rồi đến đêm cùng Nguyễn Văn Thành lặng lẽ vượt Kỳ Sơn, hợp với Võ Tánh
đánh sau lưng.
Nguyễn Bảo không ngờ, quân và voi toán loạn.
Nguyễn Ánh sai Vũ Văn Lượng đánh bảo Úc Sơn, phóng lửa
đốt trại. Lê Văn Duyệt đem quân trên núi đánh xuống, quân Tây Sơn thua to.
Nguyễn Bảo và Đào Văn Hổ phải lui quân về thành Quy
Nhơn.
Nguyễn Nhạc sai đô đốc Đẩu đem 4000 quân tinh nhuệ giữ
bảo Khố Sơn, ở núi Càn Dương, phủ mới của Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Ánh thân đốc cấm binh đi đánh, nhưng không thể
tiến được.
Bèn sai Nguyễn Đức Xuyên tới trước thành khuyến dụ,
quân lính nghe theo không bắn nữa, nhờ Trần Công Hiến làm nội ứng, gây loạn
trong thành, mới hạ được.
Nguyễn Ánh tập hợp các đạo quân của Tôn Thất Hội, Võ
Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành vây Quy Nhơn, hạ lệnh dùng "hoả
xa đại bác" (đại bác của người Tây có bánh xe di động), quân trong thành
còn 10.000, Nguyễn Nhạc cố giữ, không thể hạ nổi.
Tháng 9/1793 (tháng 8 ÂL.), Nguyễn Nhạc cầu cứu Phú
Xuân, triều đình Cảnh Thịnh (quyền hành trong tay Bùi Đắc Tuyên vì Quang Toản
còn bé) cử đại binh do Thái uý Nguyễn Văn Hưng (hay Phạm Công Hưng), hộ giá
Nguyễn Văn Huấn, đại tư lệ Lê Trung, đại tư mã Ngô Văn Sở, đem 17.000 bộ binh,
80 thớt voi, cùng đô đốc Hổ và chưởng cơ Thiêm đem hơn 30 chiến thuyền, đến cứu
viện.
Nguyễn Ánh liệu đánh không lại, phải rút quân về Diên
Khánh.
Nguyễn Ánh đắp thành Diên Khánh, vị trí điạ đầu
Tháng 10/1793 (tháng 9 ÂL.), Thực Lục ghi: "Ngự
giá về Diên Khánh. Thấy thành đất Hoa Bông địa thế tốt, đánh hay giữ đều tiện,
bèn sai các quân và phát 3000 dân Bình Thuận, 1000 dân Thuận Thành khởi đắp
trọn một tháng thì thành xong, gọi là Diên Khánh (tức tỉnh lỵ Khánh Hoà ngày
nay. Thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một
cửa, tây và bắc đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất)".
(Thực Lục I, t. 299).
Hai người trực tiếp xây thành được ghi trong Liệt
Truyện:
"[Tôn
Thất] Hội cùng đạo binh họp lại bao vây [Quy Nhơn], giặc có quân cứu
viện ở ngoài đến, bèn giải vây về đắp Diên Khánh."(Liệt Truyện II, t.
78).
"Mùa hạ năm Quý Sửu [1793, Vũ Viết Bảo] theo đi đánh Quy Nhơn, đến khi
về, đắp thành Diên Khánh (...) Năm [Gia Long] thứ tư [Bảo] đem
quân cùng với các quân sửa đắp kinh thành [Huế]" (Liệt truyện
II, t. 321).
Diên Khánh sẽ là nơi xẩy ra những đợt xung phong khốc
liệt khi Trần Quang Diệu vây đánh thành. Vị trí quan trọng và sự vững bền của
thành Diên Khánh, sẽ được phía Pháp nhận công là thành này do Olivier de
Puymanel xây (sẽ nói đến sau).
Trong thành Quy Nhơn, các tướng Nguyễn Văn Hưng,
Nguyễn Văn Huấn, sau khi Nguyễn Ánh rút, bức bách Nguyễn Nhạc. Vua Thái Đức uất
ức mà chết.
Triều đình Cảnh Thịnh phong Nguyễn Bảo, con Nguyễn
Nhạc, làm Hiếu công, ăn lộc một huyện, Nguyễn Bảo uất hận. Lê Trung và Nguyễn
Văn Huấn ở lại giữ thành Quy Nhơn.
Tháng 11/1793 (tháng 10 ÂL.) Nguyễn Ánh trở về Gia
định. Để Nguyễn Văn Thành giữ Diên Khánh. Đổi Vệ Thần Sách thành Quân
Thần Sách, tức là mở lớn hơn.
Tháng 12/1793, sai cai đội Quàng Nói Vè, đội
trưởng Pa Đơ Chê (đều người Tây) sang thành Cô Á [Goa, Ấn Độ] và xứ Mã
La Kha [Malacca] để tìm mua đồ binh khí.
Là người thích xây dựng, Nguyễn Ánh tự học, bên cạnh
lại có những chuyên viên kiến trúc như Tôn Thất Hội, Trần Văn Học, Vũ Viết
Bảo... những người đóng tầu giỏi như Đỗ Thanh Nhơn, Võ Di Nguy... nhất là từ
năm 1793 (không rõ tháng), Nguyễn Ánh có thêm một chuyên gia mới, sẽ trở thành
bộ trưởng bộ Công chánh sau này: Trần Văn Thái,
cai bạ kiêm bộ Công của Tây Sơn về quy thuận, ông là người giỏi việc đóng
thuyền. Mùa thu Bính Thìn (1796), ông cùng Võ Di Nguy, kiêm quản cả doanh ngũ
thuỷ "phàm chỉ bảo cách thức đóng các thuyền đều do ở tay Thái
cả". Trần Văn Thái giữ bộ Công, đến năm Gia Long thứ 8, đổi thành
Công bộ Thượng thư, thống quản thuỷ quân đến khi mất. (Liệt truyện II, t.
474).
Tháng 12/1793, Nguyễn Ánh triệu Nguyễn Văn Thành về
Gia Định. Theo lệ các chúa Nguyễn, Vương bắt con phải tập việc cai trị và giữ
thành, nên sai Đông Cung Cảnh (13 tuổi) trấn Diên Khánh, vị trí địa đầu chống
với Tây Sơn. Vương sai các thày dạy Bá Đa Lộc, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Châu và
các tướng: Phạm Văn Nhân, Tống Phước Đạm, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành hộ tống
Đông cung. Đến tháng 2/1794, Chưởng dinh hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức cũng xin ở
lại Diên Khánh để giúp Đông cung. Nguyễn Ánh sai quân đóng thêm thuyền chiến và
đúc thêm binh khí, lấy cai đội Nguyễn Văn Khiêm làm phó Vệ uý vệ túc trực quân
Thần Sách, sai đến Diên Khánh phò Đông Cung. Như vậy, hoàng tử Cảnh ở Diên
Khánh với trọn bộ tổng tư lệnh quân đội và các quan đại thần là thầy dạy học.
Những luận điệu sau này cho rằng Bá Đa Lộc chỉ huy và giữ thành Diên Khánh chỉ
là ảo tưởng.
Trần Quang Diệu vây thành Diên Khánh
Thành Diên Khánh sẽ là nơi xẩy ra chiến trận khốc liệt
giữa hai bên.
Tháng 4/1794 (tháng 3 ÂL.) triều đình Cảnh Thịnh (tức
thái sư Bùi Đắc Tuyên vì Cảnh Thịnh còn nhỏ) sai thái uý Nguyễn Văn Hưng và
tổng quản Trần Quang Diệu đem quân thủy bộ vào Quy Nhơn.
Được gián điệp báo tin, Nguyễn Ánh truyền cho Đông
Cung phòng bị. Hoàng tử Cảnh tâu lương ở Diên Khánh chỉ đủ ăn một tháng. Vua
sai Nguyễn Văn Thành chở lương ra cứu ứng, đường thuỷ bị ngược gió, phải sai
Nguyễn Văn Tánh, lưu thủ Bình Thuận, chở 3000 phương gạo đi đường bộ suốt ngày
đêm ra cứu.
Thái úy Tây Sơn Nguyễn Văn Hưng đem 40.000 quân bộ
đánh Phú Yên, quân Nguyễn phải rút lui.
Tháng 5/1794 (tháng 4 ÂL.) Trần Quang Diệu đem thủy
binh vào cửa biển Nha Trang, bộ binh của Nguyễn Văn Hưng cũng tiến đến Bình
Khang, họp quân ba mặt vây thành Diên Khánh. Vây mấy ngày liền, súng trong
thành bắn ra như mưa, quân Tây Sơn bị thương rất nhiều nhưng thành kiên cố
không thể tiến vào được.
Nguyễn Ánh thân chinh cử thuỷ binh giải vây: Tôn Thất
Hội tiên phong, Võ Tánh tập hậu, Võ Di Nguy, hộ giá. Trần Đức Khoan, Nguyễn Văn
Mỹ và Nguyễn Kỳ Kế coi lương.
Nghe tin đại binh Nguyễn Ánh đến, Trần Quang Diệu rút
về Quy Nhơn, Nguyễn Văn Hưng lui về Phú Yên.
Tháng 6/1794 (tháng 5 ÂL.), quân Nguyễn chiếm lại được
một số thành và đất đã mất: Tiêu Cơ, Mai Nương (Phan Rang), Phú Yên.
Tháng 7/1794 (tháng 6 ÂL.) Vương
lại sai Vệ Uý Phan Văn Triệu, Ôlivi (Olivier de Puymanel), Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý... cùng bộ
thuộc, đến giúp Đông Cung.
Nguyễn Ánh thấy chưa thể đánh được thủy binh của Tây
Sơn, bèn sai Tôn Thất Hội và Võ Tánh đem tất cả thuyền về đậu ở cửa Xuân Đài.
Tháng 7-8/1794 (tháng 7 ÂL.) Nguyễn Ánh rút quân về
Diên Khánh.
Sai sửa sang đắp lại thành Diên Khánh.
Tháng 8-9/1794 (tháng 8 ÂL.), cho Đông Cung trở về Gia
Định.
Tháng 9-10/1794 (tháng 9 ÂL.) Vương cũng đem quân về
Gia Định.
Để Võ Tánh ở lại giữ Diên Khánh.
Trần Quang Diệu vây Diên Khánh lần thứ nhì
Tháng 10-11/1794 (tháng 10 ÂL.) Trần Quang Diệu và Lê
Trung lại đem quân thủy bộ đánh Phú Yên. Nguyễn Long và Võ Văn Lượng lui về giữ
Bình Khang. Võ Tánh nhận trấn giữ cả hai mặt. Tháng 11-12/1794 (tháng 11 ÂL.)
Vương ban thưởng cho Võ Tánh và quân sĩ.
Vương sửa đắp quách ở ngoài bốn mặt thành Gia Định.
Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm mất, ông đã có
công lớn giúp Đông Cung giữ thành Diên Khánh năm 1793.
Vương bắt đầu đặt chức Giám thành sứ (cai quản việc
phòng giữ kinh thành).
Tây Sơn đánh Bình Khang. Nguyễn Ánh biết chủ ý Tây Sơn
là đánh Diên Khánh, dặn Võ Tánh phòng thủ, sai Nguyễn Văn Tánh từ Bình Thuận
đem quân tiếp viện Diên Khánh, rồi sai Nguyễn Huỳnh Đức điều bộ binh cùng
Nguyễn Văn Thành làm phó, tiến ra Phan Rang.
Trần Quang Diệu trực chỉ đánh Diên Khánh. Lê Trung
đánh Du Lai chặn đường tiếp viện của quân Nguyễn từ Bình Thuận.
Tháng 1-2/1795 (tháng 12 Giáp Dần), Trần Quang Diệu
cắt đứt đường lấy nước vào thành Diên Khánh. Võ Tánh đánh được. Trần Quang Diệu
sai quân lăn sát trèo lên thành, bị súng bắn chết rất nhiều, sai đắp luỹ cao
vây bốn mặt thành. Võ Tánh cố giữ. Diệu đánh rất gấp.
Trong thành thiếu muối, tướng sĩ ăn uống rất khổ.
Nguyễn Ánh gửi thư dặn Tánh kiên quyết giữ, đợi mình chuẩn bị xong ghe thuyền
sẽ tiến quân tiếp viện.
Sai TônThất Hội đóng quân ở Bà Rịa để điều khiển các
đạo quân chống giữ.
Lê Trung đánh Phan
Rí. Nguyễn Huỳnh Đức lui về Phố Hài (huyện Tuy Lý, Bình Thuận)
Nguyễn Ánh ra lệnh
cho Nguyễn Huỳnh Đức về giữ Ma Li (huyện Yên Phước, Bình Thuận), Còn Nguyễn Văn
Thành và thuộc bộ phải ở lại Phố Hài để chống địch.
Tháng 2-3/1795
(tháng 1 Ất Mão) Nguyễn Ánh sai Đặng Trần Thường, tán lý binh vụ đến Bà Rịa họp
cùng Chưởng tiền quân Tôn Thất Hội để trù hoạch chiến lược.
Vương sai Tôn Thất
Hội đem nghìn quân chở súng đạn đến Phố Hài và Phan Thiết, họp cùng các đạo
tiên phong, ngăn quân địch.
Lê Trung đánh Phố
Hài. Nguyễn Văn Thành chạy về Bà Rịa.
Nguyễn Ánh hay tin,
lập tức sai giám thành sứ Tô Văn Đoài bắt Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành
về Gia Định, lột hết quân đội, giao cho Tôn Thất Hội thống lãnh giữ Ma Li. Rồi
gửi mật dụ cho Võ Tánh: "Đợi thuỷ sư tiến đến Cù Huân (gần huyện Vĩnh
Xương, Khánh Hoà) thì sẽ đánh úp, một trận có thể thành công".
Tháng 3-4/1795
(tháng 2 ÂL.) sai Vệ uý ban trực tuyển phong hậu quân Thần sách là Ôlivi
(Olivier de Puymanel) sang Hồng Mao (Ấn độ) mua binh khí.
Để Đông cung trấn
giữ Gia Định, có Tả quân Phạm Văn Nhân, Giám thành sứ Tô Văn Đoài, Lễ bộ Nguyễn
Đô, Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên, Hộ bộ Phan Thiên Phúc, Hình bộ Nguyễn Văn
Nghị, trợ giúp.
Nguyễn Ánh thân
chinh đem thuỷ binh cứu Diên Khánh.
Nguyễn Văn Trương
thống lãnh thuỷ binh Tiền, Hậu, Trung quân. Tôn Thất Hội thống lãnh bộ binh
tiến đánh Phan Thiết. Trương Phúc Luật điều khiển thủy binh các vệ tiến đánh
kho Phan Rang, cướp gạo.
Thuỷ binh Tây Sơn
từ Vũng Diên đến, Tống Viết Phước phá được, chém đầu đô đốc Nguyễn Văn Sĩ, được
thăng chức Chưởng Cơ.
Tháng 4-5/1795
(tháng 3 ÂL.) Vương tha tội và phục chúc cho Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn
Thành: sai Đức đi theo Tôn Thất Hội, Thành ngự giá.
Nguyễn Vương ra cửa
biển Cần Giờ, Tôn Thất Chương, Trương Phúc Luật đi tiên phong, tới Cam Ranh,
quân Tây Sơn bỏ chạy.
Vương đến cửa Cù
Huân. Trần Quang Diệu, Lê Văn Lợi, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Thận, Trần Viết
Kết vẫn vây thành Diên Khánh.
Sai Nguyễn Văn
Thành và Lê Văn Duyệt lên bờ, đóng đồn, bắn đại bác để trong thành biết.
Còn đại quân thẳng
tiến đến Chử Châu (Phú Yên), xem xét tình hình, chia quân chặn đường về của Tây
Sơn, rồi Vương kéo về qua vụng Hòn Khói.
Sai Nguyễn Văn Đắc
đánh bảo Lập Trường, chém được đô đốc Gia và binh bộ Tiến, chiếm được Bình
Khang. Đắc được phong Chưởng Cơ. Nguyễn Ánh về đóng ở Cù Huân.
Trần Quang Diệu đặt
nhiều đồn trại ở Khố Sơn chống lại.
Lê Trung bắt đầu
thiếu lương thực, muốn lui giữ Phan Rang, báo tin cho Trần Quang Diệu, Nguyễn
Ánh bắt được, liền sai Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Công Thái ngầm qua sông Phan
Rang đặt đồn ngăn chặn, Nguyễn Văn Đắc tiến đánh kho lương Mai Nương, Tây sơn
đem quân và voi đến, quân Nguyễn phải lui về Ba Ngòi.
Tôn Thất Hội đóng
quân ở sông Luỹ (Bình Thuận) đánh nhau với Lê Trung, thắng thế. Lê Trung lui
quân về sông Cạn (Bình Thuận).
Nguyễn Ánh tập
trung quân đội giải vây Diên Khánh.
Tháng 6-7/1795
(tháng 5 ÂL.), Võ Tánh đang đêm mở cửa thành đánh ra, đốt trại của Lê Văn Lợi
đặt bảo để giữ từ núi Sĩ Lâm đến cầu Hoa Bông.
Phú Xuân có loạn,
Trần Quang Diệu rút quân về
Nguyên do: Quang
Toản còn nhỏ, quyền hành trong tay thái sư Bùi Đắc Tuyên, Tuyên sai Ngô Văn Sở
ra trấn Bắc Thành, thay Võ Văn Dũng. Võ Văn Dũng từ Bắc Thành về, gặp Trần Văn
Kỷ (quân sư của Quang Trung ngày trước, bị Tuyên đầy ra trạm Mỹ Xuyên), kể tội
Tuyên chuyên quyền. Dũng về Phú Xuân, mưu cùng Nguyễn Văn Hưng và Nguyễn Văn
Huấn, giết Bùi Đắc Tuyên, triệu con là Đắc Thuận ở Quy Nhơn và Ngô Văn Sở ở Bắc
về, giết cả. Trần Văn Kỷ trở lại làm phụ chính.
Tháng 8-9/1795
(tháng 7 ÂL.) Trần Quang Diệu vẫn giữ Khố Sơn, đồn luỹ vững không thể phá được.
Nhờ lính tuần Tây Sơn là Nguyễn Danh Nho đầu hàng, dẫn đường tắt cho quân
Nguyễn, đang đêm bò lên đánh úp, phóng lửa đốt vào, phá liền 12 đồn đất của Tây
Sơn.
Nguyễn Ánh tiến
đánh Chử Châu (Phú Yên). Trần Quang Diệu rút về Quy Nhơn.
Nguyễn Ánh vào
thành Diên Khánh.
Trần Quang Diệu (vợ
ông là Bùi Thị Xuân, cháu họ Bùi Đắc Tuyên) đem quân về Phú Xuân, "hỏi
tội" vua tại sao giết hại đình thần. Quang Toản phải dàn xếp, phong Trần
Quang Diệu làm Thiếu Phó, Nguyễn Văn Huấn làm Thiếu Bảo, Võ Văn Dũng làm Tư Đồ,
Nguyễn Văn Danh làm Tư Mã: đó là tứ trụ triều đình.
Tháng 9-10/1795
(tháng 8 ÂL.) Nguyễn Ánh sửa lại thành Diên Khánh, làm thêm kho tàng. Để Tôn
Thất Hội ở lại trấn giữ.
Tháng 10-11/1795
(tháng 9 ÂL.) Nguyễn Ánh về Gia Định.
Tháng 11-12/1795
(tháng 10 ÂL.) sai phó tướng tả quân Phạm Văn Nhân làm phụ đạo Đông Cung. Việc
này có thể là hệ quả của việc: Trần Đại Luật dâng sớ
xin chém đầu Bá Đa Lộc vì "cậy công
bảo hộ đông cung, có ý kiêu ngạo".
Phong cho Võ Tánh
làm Khâm sai chưởng hậu quân dinh Bình Tây đại Tướng quân.
Ở Pháp, thành lập
Chấp Chánh Hội Nghị (Directoire) do 5 hội viên cầm quyền (26/10/1795-
9/11/1799).
Thụy Khuê
(Còn tiếp)
© Copyright Thuy Khue 2014
Nguồn: http://thuykhue.free.fr/stt/gl/Chuong03-TomTat-2.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét