Vài nét về Hiến
pháp Mỹ
Hà Văn Thịnh
Cách đây 230 năm, năm 1783, cuộc chiến tranh giành độc lập
của nhân dân 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành được thắng lợi – đây là thành công đầu tiên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của
toàn thể loài người bị áp bức trong thời đại tư bản chủ nghĩa!
Một Hiến pháp có trước... nhà nước
Điều “lạ kỳ” là sau thắng lợi đó, những nhà cách mạng Mỹ
không thành lập một chính quyền cho tương xứng với công lao của những người đã
khai sinh ra nền độc lập; hầu như họ không quan tâm đến việc ai sẽ giữ chiếc
ghế nào, “ăn chia” ra sao chiếc bánh lợi quyền béo bở mà phải mất bao xương
máu, suốt 10 năm trời mới giành được (17.12.1773-4.9.1783): Cách hành xử của
những nhà cách mạng Mỹ chưa hề có tiền lệ – ai về nhà nấy, sau khi đã làm trọn
bổn phận công dân, không cần biết đến chuyện nên (phải?) khen thưởng ai, như
thế nào đối với sự “có công với cách mạng”!
Ý định đó của sự ấu trĩ của lòng
tốt nhanh chóng bị thực tế tàn nhẫn của xã hội sau chiến tranh giày xéo, tình
trạng vô chính phủ nhanh chóng xảy ra, tiểu bang nào cũng muốn giành cho mình
sự độc quyền cao nhất, có lợi nhất, khiến cho 13 tiểu bang gây ra bao cảnh
huynh đệ tương tàn, và “nước” Mỹ, theo cách nhận xét của George Washington,
“giống như một lâu đài được xây bằng cát”. Muốn khắc phục tình trạng đó, giải
pháp duy nhất là phải thành lập một chính quyền, đây là điều mà đến năm 1787,
hầu như ai cũng biết. Nhưng, chính quyền đó sẽ ra sao? Nó giống với mô hình
Pháp hay Anh? Những bậc tiên tổ của nhà nước Mỹ tương lai giật mình bởi họ đoan
quyết rằng phải thành lập một mô hình nhà nước hoàn toàn mới, không giống với
bất kỳ ai; và, quan trọng nhất, nó phải là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân.
Sáu chữ đó là sáu chữ vàng bởi nó trở thành nền tảng, cội nguồn, nguyên tắc bao
trùm mọi nguyên tắc trong suốt quá trình soạn thảo Hiến pháp (HP).
G. Washington, nguyên là Tổng Tư lệnh quân Cách mạng trước
đây, được mời giữ ghế chủ tọa Hội nghị Lập Hiến. 55 con người trẻ tuổi (đa số
dưới 40 tuổi, riêng A. Hamilton, vào
năm 1787, chỉ mới 30 tuổi; J. Madison mới 36 tuổi – họ được coi là những cha đẻ của HP Mỹ) chính
là các tinh hoa chính trị được tập hợp từ các tiểu bang, về sau được ca ngợi đó
là những người tinh anh nhất, “gần như là thánh thần” của nhân loại vào cuối
thế kỷ 18. Những gì lịch sử ca ngợi về tài năng của 55 người đó không hề quá
lời: Chẳng hạn, Benjamin Franklin (1706-1790) là một người đa tài: thợ in, chủ
tòa báo, thẩm phán, Chủ tịch Hội Triết học Mỹ, thống đốc tiểu bang, nhà ngoại
giao, thương gia giàu có, người thành lập Đại học Pensylvania, người phát minh
ra cột chống sét, ống thông tiểu, đàn harmonica, kính hai tròng, công ty cứu
hỏa tư nhân và, ông nói thành thạo 5 ngoại ngữ... Tài năng, nhân cách và tầm
nhìn vĩ đại đã được cộng hưởng để làm ra bản HP đầu tiên trong lịch sử loài
người mà hầu như, không có bất
kỳ một lỗi văn bản lớn nào!
55 “cha đẻ” của nhà nước Mỹ, trong đó nổi bật nhất là
Alexander Hamilton (hình của ông được khắc trên tờ 10 USD), James Madison
(người có hình trên tờ 50 USD) và Benjamin Franklin (trên tờ 100 USD)...
Ngày 25.5.1787, Hội nghị Lập pháp được khai mạc tại
Philadelphia – “thành phố của tình huynh đệ”. Gần bốn tháng ròng rã, những cuộc
tranh luận quyết liệt đã nổ ra và tận cho đến lúc đặt bút ký (17.9), nhiều đại
biểu vẫn còn chất chứa những bất đồng. Bản dự thảo và những bất đồng đó còn
được 5 triệu người dân xem xét kỹ lưỡng trước khi được Quốc hội chính thức
thông qua vào năm 1789. Nhìn chung, HP Mỹ đã được làm ra trên cơ sở những định
hướng tìm tới sự hoàn hảo có thể; được cụ thể hóa thành nhiều nguyên tắc do
nhiều đại biểu đề xuất, được A. Hamilton và J. Madison diễn đạt phần nào qua
những bài báo rồi tập hợp thành tác phẩm Liên
bang thư tập(The Federalist Papers).
Những nguyên tắc lập pháp
Chúng ta muốn tạo dựng một nền tảng (HP) sẽ trường tồn qua
mọi thời đại, vậy thì, phải dự liệu đủ những thay đổi mà các thời đại đó sẽ tạo
ra. Nguyên tắc này khẳng định rõ
những điềukhông bao giờ thay đổi như
quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm; quyền sống, quyền tự do và
quyền kiếm tìm hạnh phúc như Tuyên ngôn Độc lập đã chỉ ra; quyền người dân ủy
nhiệm cho chính quyền, nhân dân có quyền bầu lên và bãi nhiệm chính quyền đó...
Tất nhiên, có rất nhiều điều sẽ thay đổi nên HP dự liệu các khoản bổ sung – Tu
Chính Án (Amendment, TCA), chẳng hạn, TCA 22, thông qua năm 1951, quy định tổng
thống không được làm quá hai nhiệm kỳ.
Việc thành lập một chính quyền thích hợp phải do chính
người dân lựa chọn thông qua sự biểu quyết rộng rãi nhất. Không một ai có quyền áp đặt mô
hình nhà nước không tương thích với mong muốn và lợi ích của người dân. Sau rất nhiều tranh cãi, nhân
dân Mỹ đã chọn mô hình nhà nước tam quyền phân lập; theo đó, một trong ba cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, luôn bị hai cơ quan kia giám sát.
Xu hướng sửa đổi HP để mưu đồ quyền lực nhiều hơn cho một
vài cá nhân là xu hướng lạm quyền của mọi quyền lực; vì thế, phải thiết lập một cơ chế
sao cho có thể ngăn ngừa mọi ý đồ thao túng và sửa đổi HP. Theo nguyên tắc
này, quyền tham gia của mọi công dân là tối hậu chỉ khi nào có trên 2/3 thượng
nghị sĩ hoặc thống đốc bang yêu cầu thì việc xem
xét sửa đổi HP mới được đặt
ra. Quy định này có nghĩa là, nếu muốn xóa bỏ quyền được trang bị vũ khí, phải
có ít nhất 67 TNS hoặc 34 thống đốc bang yêu cầu.
Xu hướng lạm quyền và lộng quyền là thuộc tính tất nhiên
của con người, vì thế, phải thiết lập cơ chế sao cho đủ khả năng để ngăn chặn
mọi ý đồ lạm quyền đó. Ngoài cơ cấu tam quyền phân lập, HP Mỹ còn định rõ cơ chế các
thành viên của Tòa án Tối cao, các thẩm phán của tòa án khu vực trong toàn liên
bang, được giữ quyền trọn đời, nếu không xin nghỉ hưu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo
(tâm thần, bệnh suy giảm trí nhớ...). Như vậy, tòa án sẽ không phải chịu bất kỳ
áp lực nào từ phía chính quyền hoặc cử tri!
Đảng phái là cội nguồn của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa
bè phái, đến lượt nó, chủ nghĩa bè phái là cội nguồn làm vẩn đục HP. Vì thế, cơ cấu tổ chức chính
quyền không cho phép bất kỳ đảng phái nào có thể can thiệp vào bộ máy một cách
trực tiếp. Mỗi đảng phái, trước HP, chỉ là một tổ chức công dân, chịu sự điều
chỉnh, giới hạn của luật pháp.
Đa số người dân là thờ ơ với chính trị, vì thế, phải thiết
lập cơ chế sao cho hạn chế đến mức thấp nhất sự vô trách nhiệm của người dân
đối với việc bầu ra chức vụ lãnh đạo cao nhất. Nguyên tắc này khẳng định cách bầu cử, theo đó, tổng
thống sẽ được quyết định bởi số đại cử tri tương đương với số lượng nghị sĩ của
mỗi tiểu bang.
Các tiểu bang lớn luôn có xu hướng chèn ép các tiểu bang
nhỏ hơn, vì thế, cơ chế tổ chức nhà nước phải hạn chế đến mức thấp nhất sự chèn
ép này. Đây là
lý do để các tiểu bang dù lớn hay nhỏ đều có hai thượng nghị sĩ trong thượng
viện. Bất kỳ một đạo luật nào dù Hạ viện đã thông qua (nơi các bang lớn có lợi
thế) đều phải được Thượng viện chuẩn y, và ngược lại.
Các cơ quan tư pháp dễ bị mua chuộc và lạm dụng, vì thế,
phải có thiết chế cho người dân được quyền giám sát, quyết định trực tiếp đến
các phán quyết tối thượng của tòa án. Nguyên tắc này đề ra cơ chế thành lập bồi thẩm đoàn (The Jury), do người dân bầu ra. Các
viên chức của ba cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp không được tham gia vào
bồi thẩm đoàn. Phán quyết của bồi thẩm đoàn về có tội hay không, mức án, là tối
thượng.
Việc thay đổi hay ban hành các điều luật mới luôn ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích của người dân. Do đó,
phải thiết lập cơ chế để hạn chế đến mức thấp nhất sự ban hành hay thay đổi một
đạo luật, ngăn chặn mọi xu hướng tắc trách
khi ban hành các văn bản luật pháp. Nguyên
tắc này bảo đảm sai sót ít nhất (hầu như chưa xảy ra, cho đến thời điểm này) về
việc ban hành đạo luật mới. Khi một đạo luật được khởi xướng ở Thượng viện
chẳng hạn, nó sẽ được trình cho Tiểu ban Tư pháp xem xét, sau đó trình lên
Thượng viện. Nếu được thông qua, sẽ tiếp tục được chuyển sang Tiểu ban Tư pháp
Hạ viện, rồi toàn thể Hạ viện; cuối cùng mới được trình lên tổng thống. Đạo
luật được thông qua, sẽ mang tên người đề xuất – vừa để vinh danh vừa để tăng
tính trách nhiệm của dự luật. Nếu tổng thống phủ quyết, trình tự sẽ được làm
lại từ đầu.
Quân đội, cảnh sát là công cụ của chính quyền nên phải tuân
thủ các mệnh lệnh của chính quyền. Và, để ngăn ngừa sự lộng quyền, độc tài hóa,
các quân nhân và cảnh sát đang tại ngũ không được phép tham gia vào cơ quan lập
pháp. Nguyên tắc này mặc nhiên khẳng
định rằng quân đội hay cảnh sát nếu họ vào thượng viện hay hạ viện, không có
quyền phản kháng chính quyền, không có quyền được luận “tội” chính quyền, tức
là không bảo đảm được năng lực tác chiến, vì khi luận “tội”, họ đang chống lại chính
quyền. Quân nhân hay viên chức cảnh sát, muốn vào nghị viện, phải ra khỏi quân
ngũ...
Trên đây là vài khái lược về sự hình thành và các nguyên
tắc lập pháp của nhà nước Mỹ – nhà nước hiện đại đầu tiên trong lịch sử loài
người – một mô hình nhà nước chưa thể tìm thấy sự đối sánh nào khả dĩ hiệu quả
hơn. Đó cũng là mô hình nhà nước chưa hề có tiền lệ với bản HP cho đến nay là
độc nhất vô nhị, trường tồn, bất chấp sự thay đổi về thời gian và không gian.
Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang chuẩn bị bước qua một thời khắc
trọng đại bằng việc lấy ý kiến toàn dân để sửa đổi Hiến pháp 1992. Rất mong mỏi
rằng việc lấy ý kiến đó không phải là chuyện hình thức, bởi một sự thật giản
dị: Nếu ngay cả HP cũng chỉ là bàn để cho vui thì không có cái gì trên đời này
có thể được coi trọng! Một bản Hiến
pháp khoa học, nhân văn, phù
hợp ý nguyện của toàn dân, xu thế của mọi thời đại, chắc chắn là nguyên tắc, điều kiện đầu tiên cho sự phát triển vững bền...
Không phải ngẫu nhiên mà Lời Tuyên thệ của Tổng thống Mỹ chỉ
có một ý ngắn gọn là BẢO VỆ HIẾN PHÁP. Một khi HP được soạn thảo hoàn chỉnh thì
mọi cố gắng của công dân – kể cả TT, chỉ duy nhất một vấn đề là bảo vệ để thực
thi đúng như HP đặt ra, không cần bất kỳ một sự thêm, bớt nào bởi những thêm
hay bớt đó đều làm vẩn đục HP!
Huế, 24.1.2013
H. V. T.
Nguồn: BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét