Nhãn

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013



Nhà thơ Duy Phi tạ thế


 Nhà thơ Duy Phi , Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, sinh ngày 10-8-1940 .
  Quê quán : Mão Điền , Thuận Thành , Bắc Ninh .
  Do bị bệnh hiểm nghèo, ông đã từ trần hồi 8 giờ, ngày 28 
tháng  01 năm 2013 tại nhà riêng, Số 82, phố Chợ Thương , thành phố Bắc Giang .
 Lễ viếng : 12 giờ ngày 28-1-2013 . Đưa tang 14 giờ , ngày 29-1-2013 . An táng tại Nghĩa trang Thành phố Bắc Giang .

Thay mặt Gia dình NT Duy Phi
VŨ TỪ SƠN

Duy Phi, "Hạt nhớ"


Khác với Tô Hoàn và Tân Quảng, tứ tuyệt của Duy Phi được cấu trúc như là những bức phác thảo tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trong cái khoảnh khắc thời gian ấy, ý tưởng vụt lóe sáng tạo nên một khung cảnh nhập nhòa giữa hiện thực và hư ảo. Vì thế, nhịp điệu thời gian, gam màu không gian cứ bàng bạc một màn sương lãng đãng giăng mờ trên sườn núi lúc ban mai. Có điều không gian và thời gian vật lý ở đây chỉ có tính quy ước. Không gian và thời gian tâm lý mới là những đại lượng tác giả muốn ký thác vào thơ mình. Cho nên, khi đọc hai câu: "Xõa tóc soi tìm mình chẳng thấy/ Lạ lùng ai đó bóng thời gian" trong bài "Nhà xưa", ta cần phải mở rộng biên độ cảm xúc đến bài "Hạt nhớ": "Biết ai đang bồn chồn trên mỗi chữ/ Tôi gửi trời muôn hạt nhớ long lanh". "Hạt nhớ" là cách nói hình ảnh, đồng thời cũng là một kiểu chơi chữ độc đáo trong quá trình tìm tòi sáng tạo ngôn ngữ thi ca. Nó thực hiện chức năng dẫn dắt sự liên tưởng ngoài văn bản, có thể là vô lý, nhưng là sự vô lý trong cái hợp lý của tổng thể nghệ thuật.
Hình ảnh trong thơ Duy Phi, nếu căn cứ vào hệ thống từ ngữ xem ra khá rậm rạp, đa sắc thái, nhưng thật ra, nhìn dưới góc độ hội họa, lại có vẻ nhạt màu, thậm chí không màu, bởi phần lớn chỉ là những bức ký họa chì than. Màu sắc của Duy Phi thực chất cũng là màu sắc tâm trạng, cho dù anh đã hơn một lần thăm xứ Thái chiêm ngưỡng vẻ đẹp thuần khiết của hoa ban Tây Bắc: "Câu quan họ nợ vòng quay cọn nước/ Trăm màu rực rỡ nợ hoa ban"("Nợ").
Tứ tuyệt của Duy Phi cũng có không ít bài thiên về sự suy tưởng. Anh thường ký thác vào thơ những số phận như là một thứ định mệnh, đôi khi cắt rời ra, nhưng  giống như mảnh gương vỡ, vẫn mang trong mình câu hỏi muôn thuở của thế gian là "món nợ tuần hoàn" không bao giờ trả được. Bài "Nợ" được tác giả viết ở Điện Biên mở đầu bằng hai câu rất đáng suy ngẫm: "Ngược đường lên Mường Thanh, Mường Than/ Chợt biết biển sông nợ núi ngàn". Mới hay, cuộc sống này là một chuỗi vòng vo của sự vay trả vô thủy vô chung. Mảnh đất ta sống đây chẳng qua chỉ là diễn trường của trò chơi tạo hóa. Cái vòng quay cọn nước với câu quan họ hẳn là có duyên kiếp với nhau từ thời hồng hoang nên "trăm màu rực rỡ" của các loài hoa mới nợ màu trắng hoa ban chăng?
Đến bài "Cờ" thì những nét ký họa dường như đã bị nhòe mờ trước sự xâm thực của yếu tố duy lý. Văn bản chỉ có 14 chữ nhưng chính xác là một đại tự sự bởi khuynh hướng triết luận. Về hình thức, tác giả nói đến một thế cờ hiểm, nhưng nội dung của nó lại đa nghĩa, chứa đựng tư tưởng thời đại. Trong các cuộc chiến tranh, cho dù tướng cầm quân nhân danh ngọn cờ nào, thì cuối cùng, kẻ trắng tay vẫn là đám tốt đen, tốt đỏ: "Phá thế cờ/ Tướng sĩ loanh quanh/ Ghê tay thí tốt..." Đằng sau mỗi con chữ tưởng như lạnh lùng, vô cảm là tâm trạng ưu tư của nhà thơ với thân phận con người trước bàn cờ thế sự thiên biến vạn hóa. "Cờ" là bài tứ tuyệt ý tại ngôn ngoại, gieo vào tâm trí người đọc những băn khoăn về lịch sử như là một câu hỏi muôn thủa, khó tìm lời giải.
(Trích trong bài phê bình "Phận đèn, tứ tuyệt thi Kinh Bắc", phần Hạt nhớ  của nhà thơ Duy Phi, tạp chí Sông Thương số 3 năm 2012)
Đặng Văn Sinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét