Đặng Văn
Sinh
Giống như
tiểu thuyết tâm lý xã hội, nhưng “Vỡ vụn”* lại có hình thức bố cục như là công
nghệ lắp ghép những mảng. khối trong nghệ thuật hội họa nhằm tạo hiệu ứng bùng
nổ qua sự tương phản. Tuy nhiên, ngay cả ở dạng cấu trúc lạ mắt này, xem ra
cũng chỉ được giới hạn trong phạm vi ước lệ, điều đáng quan tâm chính là vấn đề
tác giả đặt ra và cách giải quyết những vấn đề ấy trong các mối tương quan xã
hội như một triết lý sống.
Cấu trúc
“mảng” trong “Vỡ vụn” được hiển thị khá rõ qua ba lĩnh vực đặc trưng: tình yêu,
gia đình và chính trị, trong đó, mảng gia đình truyền thống, vốn là đề tài muôn
thuở từng tốn không ít giấy mực của nhiều thế hệ cầm bút, lại được tác giả sử
dụng phương pháp “ký họa” phác thảo đôi ba nét chấm phá. Trong khi ấy, đề tài
chính trị tuy chỉ được nhấn nhá bằng những diễn ngôn khá chừng mực nhưng lại có
sức cuốn hút lớp bạn đọc mẫn cảm với thời cuộc bằng bút pháp lý tưởng hóa. Đó
là sự kỳ vọng về một bộ máy quản lý nhà nước “liêm chính”, nhưng lại phải đối
diện với một thực trạng cay đắng, khi mà tệ nạn chạy chức chạy quyền, được cụ
thể hóa bằng những cuộc “đi đêm” ly kỳ, chẳng khác gì thám tử Sherlock
Holmes trước mỗi mùa bầu cử.
Lẽ đương nhiên, tình yêu giống như một “đại
khối tự sự” chiếm phần lớn dung lượng tiểu thuyết “Vỡ vụn”. Tình yêu của cặp
trai gái khá chênh lệch về tuổi tác này được tác giả nâng niu, chăm sóc, miêu
tả dưới nhiều sắc thái khác nhau. Có thể nói người viết rất am tường về ngôn
ngữ trái tim, chẳng biết đã từng trải nghiệm hay chưa, nhưng cái cách ông miêu
tả diễn biến tâm lý của cả cô gái trẻ giầu cá tính lẫn người đàn ông giảng viên
đại học trong quá trình họ tìm đến với nhau thật đáng nể. Bỏ qua những định
kiến xã hội hẹp hòi, đặt sang bên thứ quy phạm giả tạo trong một xã hội mà mọi
giá trị đang bị tha hóa, mối tình của Chính và Thảo cần được ghi nhận như là sự
cố gắng bứt phá khỏi những nghĩa vụ đạo đức, luôn ràng buộc con người, đến với
khát vọng tự do nhưng lại có kết cục không mấy suôn sẻ.
Xét đến
cùng, chính trị và tình yêu, gia đình thuộc các lĩnh vực khác nhau, thậm chí
đối lập nhau, tuy nhiên nếu nhìn nhận dưới khía cạnh thẩm mỹ do sự tương phản
tạo ra của nghệ thuật tạo hình di thực sang địa hạt văn chương, thì đây được
xem như một kiểu đổi mới hình thức. Bởi lẽ từ lâu, người đọc đã quá “nhờn” với
cách thức bố cục cổ điển theo trình tự thời gian tuyến tính, với hệ thống nhân
vật được chia làm hai phe “tích cực”, “tiêu cực” xuất hiện trong không gian hai
chiều cũng như những đoạn trần thuật khô khan mòn sáo bằng ngôn ngữ thông tấn.
Phương pháp dàn dựng bố cục “phản truyền thống”, không chú trọng vào một chủ đề
nào, mà lại có xu hướng lấn ra vùng ngoại biên của những tiểu tự sự, “Vỡ vụn”
dường như đã tiệm cận về mặt hình thức với phương pháp sáng tác Hậu hiện đại.
Mặt khác, nó cũng phần nào thoát khỏi sự ràng buộc cứng nhắc của lối tư duy
giáo điều cứ muốn lên giọng tuyên huấn dạy dỗ thiên hạ, mà trượt sang lối tư
duy trực cảm phi lý tính, cho dù phương thức diễn ngôn vẫn trung thành với
phong cách cổ điển.
Thủ pháp
đồng hiện cắt cảnh, nén thời gian, không gian mà tác giả thường sử dụng trong
“Vỡ vụn” không mới, song, nó lại có tác dụng hỗ trợ rất đắc lực cho ý tưởng bố
cục mảng miếng làm điểm tựa để tác giả khai triển nội dung cuốn sách một cách
bài bản mà không bị rối. Như vậy, xét về mặt hình thức, “Vỡ vụn” có xu hướng
đổi mới rõ rệt. Bằng chứng là, khi cầm cuốn sách trong tay, chúng ta có đủ sự
“dũng cảm” đọc liền một mạch từ trang đầu cho đến trang cuối mà không rơi vào
tình trạng “liếc mắt một cái đọc thoáng mươi dòng”. Một điều đáng nói nữa là,
khi gấp cuốn sách lại, tôi dám chắc, cảm xúc của mỗi người không hề giống nhau
như trước đây từng đọc loại tiểu thuyết “quốc doanh”, mặc dù bất cứ ai cũng có
một mẫu số chung là ngậm ngùi, tiếc nuối cho một gia đình trí thức “vỡ vụn”,
một tình yêu đẹp như mơ cũng có nguy cơ “vỡ vụn”, cũng như ông bí thư kiêm chủ
tịch tỉnh kia, tuy có bằng tiến sĩ chuyên ngành xây dựng đảng, lại sinh ra
trong một gia đình quan chức gạo cội, những chắc gì hoạn lộ đã hanh thông khi
mà chốn quan trường đầy cạm bẫy, lắm mưu mô, lúc nào cũng sẵn sàng hạ gục nhau
bằng những chiêu trò không mấy quân tử, tuy vẫn gọi nhau là đồng chí.
Như phần
trên đã nói, hiệu ứng của “Vỡ vụn” không nằm trong bản thân những sự kiện được
tác giả trần thuật bằng lớp ngôn từ hấp dẫn, mà giá trị của nó là ở sự tương
phản. Sự tương phản này quy chiếu từ lịch sử, văn hóa, đạo đức đến hành vi ứng
xử và diễn biến tâm lý của mỗi công dân trong mọi hoạt động xã hội, bao hàm cả
hoạt động chính trị. Có thể thấy, cấu trúc xã hội truyền thống đang đang “vỡ
vụn” từng mảng theo quy luật không thể đảo ngược mà một trong những nhân vật
chính tạo nên hội chứng dở khóc dở cười này là phó giáo sư tiến sĩ Phạm Hồ Thu.
Bản chất
của “vỡ vụn” đi từ cái đơn nhất đến cái phổ quát, giống như hiệu ứng domino,
bắt đầu là tình yêu, quan hệ vợ chồng rồi cuối cùng là xã hội. Tuy nhiên, dù
nhìn nhận dưới quan điểm nào thì, trình độ học vấn, học vị, học hàm chỉ như một
loại nghề nghiệp để con người kiếm sống. Điều quan trọng hơn cả là tầm văn hóa
và cách ứng xử với cộng đồng qua những giá trị bền vững vốn là truyền thống của
dân tộc và lịch sử văn minh nhân loại. Những thứ đó Phạm Hồ Thu không hề có
nhưng lại tự huyễn hoặc mình bằng thứ niềm tin cuồng tín đến mức bệnh hoạn. Vì
thế, ta có thể hình dung, “Vỡ vụn” là tiểu thuyết của những chuỗi tương phản,
và rõ nét nhất là cặp vợ chồng Chính, Thu. Đây cũng chính là ý tưởng nghệ thuật
của tác giả nhằm kiến giải những điều bất cập trong xã hội đương thời, khi mà
mọi giá trị đang bị đảo lộn khiến con người mất phương hướng, khủng hoảng niềm
tin, phải cầu viện thánh thần để tìm sự yên tĩnh cho tâm hồn. Hiện tượng Phạm
Hồ Thu có vẻ như không còn là cá biệt mà đã trở
thành “một bộ phận không nhỏ” trong guồng máy quan chức công quyền được đào tạo
và bổ nhiệm “đúng quy trình” đang từng bước hóa thân thành lũ sâu mọt đục khoét
mục ruống nền kinh tế èo uột, phá nát kỷ cương, rường mối xã hội vốn đã quá
nhiều khuyết tật.
Nguy hại
hơn nữa, Thu còn là người thầy ở cấp độ học viện, hàng ngày rao giảng thứ học
thuyết mà nhân loại tiến bộ đã vứt vào sọt rác lịch sử cho lớp cán bộ rất có
khả năng sẽ trở thành những nhà lãnh đạo quốc gia. Thử hỏi tương lai đất nước
sẽ ra sao một khi bộ máy quản trị xã hội là những con anh vũ màu sắc sặc sỡ
nhưng chỉ hót cùng một giọng với một số lượng từ vựng giới hạn?
Với Thu,
tuy là quan hệ vợ chồng nhưng Chính lại ở một thái cực khác. Chính chỉ có bằng
cử nhân ngữ văn, không học vị, học hàm, chức danh xủng xoảng như bà vợ hãnh
tiến nhưng ông là một nhân cách đáng nể cả ở trình độ học vấn chuyên sâu, bề
dày văn hóa và phong thái lịch lãm của một trí thức tự đào tạo mình. Giữa Chính
và Thu, nếu có sự tương đồng nào đó, nhiều nhất cũng chỉ là cô con gái tóc dài
nhưng lại thừa hưởng trí tuệ của bố đến nỗi nhiều lúc Chuyên phải cãi mẹ “mọi
người đều biết, chỉ có mình mẹ là không biết”. Bức tranh toàn cảnh của gia đình
Chính, Thu, có thể nói, còn hơn cả sự “vỡ vụn” mà là một bi kịch mang tinh thần
thời đại. Và, nếu xét trên bình diện tiểu thuyết cổ điển thì cặp nhân vật này
tuyệt đối mang tính hiện thực đầy đủ với cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bởi lẽ,
cuộc ly thân của hai người hầu như không phát tác từ những sinh hoạt vụn vặt
trong đời sống thường nhật, mà từ sự xung đột ý thức hệ, quan điểm sống, hay cụ
thể hơn là từ cái phông văn hóa. Thế nhưng, một điều ít người ngộ ra là, bi
kịch này có nguyên nhân sâu xa từ khủng hoảng xã hội kéo theo hội chứng lạm
phát các giá trị, con người bị/được phân nhiệm vào những vị trí không tương
thích với sở trường của họ. Từ đó nảy sinh vô vàn hệ lụy, là điều kiện lý tưởng
cho sự tha hóa nhân cách, đạo đức, kéo theo sự xuống dốc không phanh của một xã
hội vốn được xây dựng trên cơ sở học thuyết không tưởng.
Sự đổ vỡ
trong mối quan hệ gia đình Chính, Thu ngoài phần cốt lõi là hệ ý thức vênh lệch
còn có yếu tố chính trị tham gia, tuy cả hai đều là những nhà chuyên môn thuần
túy. Nói cụ thể hơn, chính trị đã làm méo mó nhân cách của Thu bằng những tác
động ở vùng ngoại biên nhưng có sức công phá đáng kể như một phản ứng dây
chuyền. Ngược lại, Chính đứng ngoài chính trị những chính trị lại cố tình lôi
anh vào cuộc bằng những kế sách có giá trị thực tiễn cho Thành khi anh ta được
bầu làm chủ tịch tỉnh. Xét trên mọi mặt, Chính luôn là người thầy của Thu một
cách đúng nghĩa. Ông là hình ảnh của một trí thức lớn, có tầm ảnh hưởng sâu
rộng đến các thế hệ học trò nhưng lại bị lép vế trước bà vợ “thiểu năng trí
tuệ” và sẵn thói đố kỵ. Thu là đệ tử trung thành của triết lý đám đông, biết
tất cả nhưng thực chất không biết một thứ gì cho dù bà ta có nhãn mác phó giáo
sư tiến sỹ. Thế nên trong trào lưu “xã hội hóa” giáo sư, tiến sỹ không tiền
khoáng hậu này, tự nhiên hình thành vô số “chợ giời” bằng cấp để thỏa mãn tham
vọng “hội chứng nhất”, hầu ghi danh vào sách Guiness về một nhà nước có trình
độ học vấn cao ngất ngưởng thế giới, nhưng mọi giá trị nhân văn phổ quát lại
xếp ở tốp cuối cùng của thế giới. Tệ tham nhũng, nhất là tham nhũng quyền lực
và thói háo danh của những kẻ cơ hội ở các nấc thang quyền lực đã phá nát kỷ
cương xã hội, xổ toẹt vào các giá trị văn hóa truyền thống, tạo nên một môi
trường sống quái gở, trong đó, lòng tốt và tinh thần vị tha bị chối bỏ, thay
vào đó là sự vận hành theo kiểu chụp giật của các tổ chức băng đảng sặc mùi bạo
lực.
Mối tình
của Chính và Thảo là mối tình đẹp với đầy đủ các cung bậc tình cảm của thời
hiện đại nhưng có vẻ lãng mạn bởi khuynh hướng lý tưởng hóa khá đậm đặc. Thế
nhưng, nhân vật “Sáu Ngờ”, về mặt tính cách lại được ghi nhận như là sự sáng
tạo nghệ thuật. Trong mối tương quan giữa các nhân vật Chính, Thu, Thảo, Thành,
thì những trang miêu tả về tình yêu đôi khi hoàn toàn ngẫu hứng tựa làn gió mát,
góp phần điều hòa sự bức bối đang tiệm cận thảm kịch của gia đình Chính, Thu hay
những thủ đoạn đấu đá căng thẳng với những biến thái khôn lường giữa Thành và
tay phó chủ tịch văn xã nơi chính trường đầy cạm bẫy để giành chiếc ghế chủ
tịch tỉnh.
Thảo là cô
gái đẹp, trí tuệ mẫn tiệp nên không muốn trao thân gửi phận cho một gã đàn ông
tầm thường. Cô gái nhà quê với câu đố tai quái, từng làm thất vọng không biết
bao nhiêu “khách đông sàng rắp ranh bắn sẻ” rất có thể mang tiếng “ế chồng” nếu
không gặp người đàn ông trên chuyến xe khách Hà Nội – Hải Phòng. Cuối cùng Thảo
cũng tìm được tình yêu đích thực, sinh được bé trai kháu khỉnh nhưng phải trả giá
đắt khi mà bố cu Đại đã có gia đình và chỉ kém bố mình năm, sáu tuổi.
Cốt truyện
diễn ra đến đây khá gay cấn và hầu như không có lời giải thỏa đáng cho cuộc
tình tay ba. Tình yêu, hôn nhân và gia đình luôn là đề tài muôn thuở, thời nào
cũng có, nhưng điều quan trọng là cái cách xã hội nhìn nhận nó theo chiều hướng
chấp nhận hay phản ứng, bởi lẽ nó là một giá trị sống nếu không nói là giá trị
thiêng liêng nhất. Điều cần bàn ở đây là, trong khi cả xã hội, nhất là những
nhà quản lý ngoảnh mặt làm ngơ, coi đó chỉ là chuyện sinh hoạt, không mấy quan
trọng, thì tác giả lại tiếp cận, phân tích sâu bằng hình tượng văn học, đồng
thời tỏ thái độ thông cảm nhưng không khuyến khích. Bởi nếu khuyến khích, cổ vũ
cho hình thái tình cảm tay ba đầy kịch tính như kiểu Chính, Thu và Thảo, cuối cùng hẳn sẽ có kết cục “vỡ vụn”…
Hầu hết
các trường đoạn viết về mối tình ngang trái giữa Thảo và Chính tác giả đều sử
dụng lối văn kể giầu sắc thái biểu cảm, thậm chí còn miêu tả rất cuồng nhiệt
những cái ôm riết, những nụ hôn nóng bỏng hay những cuộc làm tình nghiêng ngả
đất trời bất chấp thiên hạ sự. Về phong cách văn chương, ngòi bút Nguyễn Bắc
Sơn khá linh hoạt khi ông thường xuyên hoán vị các ngôi đại từ nhân xưng cũng
như đặc trưng ngôn ngữ của từng nhân vật. Ngôn ngữ giao tiếp cũng như lời độc
thoại của Chính thì chuẩn mực, thận trọng luôn lấp lánh một trí tuệ sắc sảo
nhưng lại giầu lòng vị tha. Trong khi ấy, ngôn ngữ của Thu thường hàm chứa tính
gia trưởng, cay cú, nảy sinh từ thói kiêu ngạo vốn là sản phẩm độc hại của thứ
tư duy quyết định luận. Với Thu, chân lý không thuộc về khách quan mà thuộc về
kẻ mạnh, tuy nhiên, một khi thứ ngụy chân lý ấy bị ông chồng bóc mẽ thì bà phó
giáo sư tiến sỹ giở bài cùn.
Sự kiện
Thu bị đột quỵ phải phẫu thuật lấy cục máu đông trong đại não và Chính về quê
Thảo trình diện gia đình là những chi tiết rất tiểu thuyết, hoàn toàn phù hợp
với diễn biến cốt truyện. Tuy nhiên đấy lại là dấu hiệu cho thấy cả Chính và
Thảo đã sử dụng hết tài nguyên trong kho dự trữ của cuộc tình lãng mạn, giờ
phải trở lại với hiện thực trần trụi trong một môi trường sống trì trệ luôn dị
ứng với tư tưởng “nổi loạn”. Chính chín chắn hơn Thảo nhưng luôn ở thế bị động
trước những cuộc “tấn công” rất có “nghệ thuật” của cô gái trẻ đầy bản lĩnh. Chính
đã lường trước được một tương lai không mấy sáng sủa khi mà bản thân vừa phải
chăm sóc người vợ bán thân bất toại vừa phải tìm mọi cách để giữ thể diện cho
Thu cũng như hợp lý hóa mối quan hệ “ngoài luồng” với gia đình Thảo. Đây là bài
toán không lời giải nào thỏa mãn cả hai điều kiện trên. Còn Thảo, dù đã chủ
động trước những tình huống bất khả kháng, cuối cùng, bị hoàn cảnh xã hội xô
đẩy, cô cũng phải thốt lên những lời cay đắng về việc Chính bắt cá hai tay.
Bi kịch
của bộ ba Chính, Thu, Thảo cũng là bi kịch của cuộc đời, khi mà trong đó, những
giá trị sống vốn bền vững bỗng nhiên bị đánh tráo hoặc thay đổi thang bậc bắt
nguồn từ những ngộ nhận ở tầm vĩ mô về chính trị, văn hóa và kinh tế. Chính,
Thu, Thảo, xét đến cùng cũng là sản phẩm của một xã hội đang bị phân hóa sâu
sắc thành những giai tầng dựa trên căn bản lợi ích nhóm, tạo nên chuỗi mâu
thuẫn không thể điều hòa. Sự “vỡ vụn” là không thể tránh khỏi một khi hành vi
và thói quen ứng xử của kiểu “trí thức ăn đong” như Thu chỉ càng làm cho hiệu
ứng “vỡ vụn” tăng gia tốc. Cũng như Chính, Thảo là nạn nhân trực tiếp của một
hệ điều hành lỗi thời, đầy khuyết tật, bảo thủ, trì trệ và không có khả năng
sửa chữa. Hành động “nổi loạn” của Thảo chẳng những không cải tạo được hoàn
cảnh mà dường như còn làm cho bi kịch tình yêu, gia đình mỗi lúc thêm trầm
trọng.
Về mặt cấu
trúc tác phẩm, “Vỡ vụn”, ngoài việc sắp xếp các mảng, khối không cùng thuộc
tính cạnh nhau nhằm tạo sự tương phản, tác giả còn sử dụng thủ pháp đồng hiện
và “nén” thời gian, không gian, xóa nhòa ranh giới quá khứ, hiện tại, giống như
kỹ xảo chồng mờ trong điện ảnh để làm gia tăng hiệu quả thẩm mỹ.
Chí Linh, 10/10/2016
Đ.V.S.
* Tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn, NXB Hội Nhà văn,
2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét