Đặng Văn
Sinh
Là nhà thơ
đa tình kiêm họa sĩ với những nét cọ phóng túng nhưng Trần Lão tiên sinh thỉnh
thoảng lại nhảy sang địa hạt văn xuôi chơi. Và lần này là thể loại ký. Ai cũng
biết, Trần Nhương là đệ tử chân truyền của “làng xê dịch”, lại nuôi con web văn
chương với số lượng người truy cập kỷ lục, nên ông từng chu du khắp thế giới để
trải nghiệm và khơi nguồn cảm hứng.
Sau những
chuyến đi đầy ngẫu hứng khắp các xứ đông đoài bằng tiền túi, với nhiều cảm xúc
trên mỗi dặm trường, Trần Nhương trình làng cuốn “Tản mạn Mongo” gồm 19 thiên
ký sự, trong đó, thiên thứ 18 được lấy làm tựa đề cho cuốn sách, do NXB Hội Nhà
văn cấp giấy phép năm 2011.
Có thể
nói, 19 thiên trong “Tản mạn Mongo”, thiên nào cũng hấp dẫn, bởi ngoài việc
cung cấp những thông tin cập nhật về địa chính trị, đặc trưng văn hóa, phong
tục tập quán của vùng đất đã qua, tác giả còn thường xuyên bình luận ngoại đề bằng
các nhận xét hóm hỉnh, gửi đến người đọc những thông điệp có giá trị ẩn khuất
phía sau mỗi dòng chữ mà vì nhiều lý do không tiện nói ra.
“Tản mạn
Mongo” là thiên du ký lấy cảm hứng từ chuyến “Ngũ quái Bắc hành” theo lời mời
của Hội Nhà văn Mongo từ ngày 5 tháng 8 và kết thúc vào ngày 11 tháng 8 năm
2011 của 5 nhà văn Việt Nam: Thúy Toàn, Tô Đức Chiêu, Trần Nhương, Nguyễn Khắc
Phục và Hoàng Minh Tường.
Trong
chuyến “Bắc tuần” đến xứ sở thịt cừu và sữa ngựa này, mỗi văn nhân trong đoàn
đều được đặt một biệt danh phảng phất mùi chưởng Kim Dung, bắt đầu là “Toàn Đại
Nhân”, sau đó đến “Chiêu Kỳ Hiệp”, rồi “Nhương Tác Nghiệp”, “Phục Bạch Đầu”, và
cuối cùng là “Tường Tiểu Tử”.
Tuy nhiên,
trong phạm vi bài nhỏ này, nhân kỷ niệm 10 năm trang trannhuong.com ra đời, chúng tôi chỉ đi sâu vào “Tản mạn Mongo”,
một thiên du ký đặc sắc, được tác giả trình bày bằng bút pháp trào lộng. Viết
“Tản mạn Mongo”, Trần Nhương sử dụng lối văn hoạt kê vốn là sở trường của ông
từng được thể nghiệm rất thành công trong cuốn “Kim kổ kỳ koặc ký” với hai nhân
vật hài hước Mao Tôn Úc và Kim Thánh Phán kiểu Aziz Nesin từng làm xôn xao dư
luận làng văn đất Việt.
Nói như
thế không có nghĩa là phủ nhận phần “chính văn” của thiên ký sự. Có điều, với
Trần Ham Vui, chính văn dường như chỉ góp phần đưa đẩy, móc nối, dẫn nhập, còn
hồn cốt câu chuyện vẫn đậm đặc chất hoạt kê, bông phèng, nhưng được thể hiện
nhuần nhuyễn qua thứ ngôn ngữ bình dân có chọn lọc, tạo ra tiếng cười giầu chất
trí tuệ, đem đến cho người đọc cảm giác sảng khoái sau những giờ làm việc căng
thẳng.
Động thái
đầu tiên Trần Nhương dẫn dụ người đọc đến với thiên ký sự của ông là lựa chọn
kiểu bố cục chương hồi, đồng thời mở đầu mỗi chương là một câu thơ tóm tắt nội
dung sẽ trình bày giống như “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung. Thế nhưng,
cái tạo nên tiếng cười ở đây gần như không liên quan gì đến “Tam quốc” mà chỉ
“nhại” “Tam quốc” bằng những câu thơ cấu trúc hiện đại được đặt trong văn cảnh
mỗi đề mục, từ đó tạo nên sự tương phản, chính là nguyên nhân gây cười. Chẳng
hạn khi mở đầu thiên I, tác giả cảm thán bằng câu 8 của cặp lục bát có hơi
hướng Kiều “Đường xa vạn dặm nỗi niềm văn nhân”, nhưng với thiên III, khi đã
đến thảo nguyên mênh mông, giọng điệu lại có khuynh hướng đùa bỡn “Ulan tìm đến
với Khan/ Biết đâu quán rượu say tràn thâu đêm”...
Cứ nhìn
vào những câu thơ đề dẫn của mỗi thiên là ta cảm nhận ngay được phong cách của
một tay chơi chữ có nghề, muốn biến tất cả mọi thứ nghiêm túc thành trò cười
trong hành trình sống của một đời người. Triết lý ấy nghe ra thì đơn giản nhưng
không dễ thực hành với những ai thiếu đi tố chất “ham vui” như Trần Nhương. Cái
tố chất ấy, có vẻ như đã được kích hoạt ở mỗi thành viên nhóm “Du Mông” như
cách nói của Hoàng Minh Tường, gồm toàn những bậc anh tài, những “yếu nhân” của
làng văn đất Việt, ông nào cũng có máu giang hồ...
Thiên du
ký bắt đầu bằng chuyện “nỗi niềm văn nhân” khi mà ở chính phi trường quốc nội, Chiêu
Kỳ hiệp phải ngậm ngùi chia tay 5 chai Vodka “quốc lủi”, còn Phục Bạch đầu thì
bị “mời” vào phòng an ninh giải trình về 3 hộp thịt. Nhưng tất cả những phiền
toái ấy không là gì so với phi trường Bắc Kinh. Đây là cảng hàng không có kỹ
nghệ chặt chém vào cỡ nhất nhì thế giới với nhiều mánh khóe làm tiền khiến
không ít dân tộc văn minh phải cúi đầu bái phục. Từ dịch vụ truy cập internet
với giá cắt cổ đến ấm trà Long Tỉnh rởm bốn trăm ngàn VNĐ cùng với đám gái làng
chơi hành nghề công khai chèo kéo khách... đều được Trần Bhương ghi chép qua
“nhật ký hành trình”, cụ thể, chính xác đến từng chi tiết.
Từ sự tiếp
đón nhiệt tình, nồng hậu của các bạn Mongo, qua cách viết dung dị pha chút hài
hước của tác giả, ta bất chợt nhận ra, phía sau hình như còn ẩn giấu một thông
điệp. Đó là, một đất nước như Mongolia,
dân số chưa đầy ba triệu, nằm kẹp giữa hai cường quốc luôn có mưu đồ thôn tính,
vậy mà con cháu của Thành Cát Tư Hãn, chẳng những giữ toàn vẹn lãnh thổ mà còn
nhanh chóng chuyển sang thể chế dân chủ một cách ngoạn mục. Điều này cho thấy,
một nền chính trị đa nguyên, với nhiều thành phần đảng phái điều hành một đất
nước hậu cộng sản không hề tiềm ẩn nguy cơ “mất ổn định”, mà ngược lại, chỉ sau
một thời gian ngắn, kinh tế, văn hóa xã hội và các giá trị cơ bản khác phát
triển hơn nhiều so với thời kỳ Xã hội chủ nghĩa.
Một dân
tộc du mục truyền thống, chịu sự chi phối của đới khí hậu vô cùng khốc liệt như
Mongo, số đầu đại gia súc gấp cả trăm lần số dân, cứ ba hộ gia đình có một ô tô,
vậy mà họ xây dựng được một nền văn hóa giao thông tuyệt hảo. Nguyên nhân vì
sao, câu trả lời xin dành cho các nhà quản lý: “Thủ đô Ulanbato không lớn, có
nét gì khá gần gũi với Hà Nội. Chỉ khác một điều là Ulan không có xe máy và xe
đạp như ta. Dòng xe ô tô nối đuôi nhau nhưng rất trật tự, ai đi làn nào cứ đi
làn ấy không chen lấn nhau. Nếu có va chạm thì ôn hòa giải quyết. Đặc biệt
trong thành phố ô tô không được bấm còi. Chúng tôi đi trên đường phố Ulan mà
nghĩ về Hà Nội “Dập dìu tài tử giai nhân/ Xe đạp, xe máy chen chân phố phường”.
Hà Nội có một cài gì đấy như ở vùng sâu vùng xa của thế giới, có một cái gì đấy
không có phong cách hiện đại” (tr. 184).
Người
Mongo tôn trọng quá khứ hào hùng dân tộc với biểu tượng lãnh tụ vĩ đại Thành
Cát Tư Hãn mà không rơi vào sự nhầm lẫn lịch sử, thậm chí cưỡng bức lịch sử như
những thể chế độc tài toàn trị, khiến mọi giá trị bị đảo lộn, gây đại họa cho
dân tộc bằng những cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Đọc “Tản
mạn Mongo”, ta còn được mở rộng tầm mắt qua sự so sánh của tác giả, tuy đơn
giản nhưng trong suy tư của mỗi người dân đều cảm thấy có cái gì đó như là tội
ác về các chiến dịch hoành tráng tận diệt môi trường nhằm xây dựng các “công
trình thế kỷ”. Trong khi ấy, ngay tại thủ đô Ulanbato, người tham gia giao
thông có lúc phải nhường đường cho đàn hươu hoang dã: “Bạn bè Mongolia kể
rằng, nhiều năm từng đàn hươu từ trên núi ùa xuống thành phố. Sau khi dong chơi
thỏa thuê lại kéo nhau lên núi. Bao nhiêu năm nay đàn hươu ấy không ai săn bắn.
Chim muông bay rợp thành phố, nhất là bồ câu có thể mổ bánh mỳ trên tay bạn mà
không sợ bị tóm cổ” (tr. 186). Rồi Trần Nhương lại hạ bút thả nhẹ một lời bình:
“Họ sống thân thiện và bảo vệ các con vật hoang dã như một ý thức bản năng
tuyệt vời. Nếu ở ta thì đàn hươu kia đã xóa sổ từ khi nảo khi nào. Có cái cây
sưa trên Gò Đống Đa họ còn chặt trộm nữa là...” (tr. 186).
Về sự đón
tiếp chân thành của các bạn Mongo, Trần Nhương có cách kể rất ấn tượng. Đó là
cách kể mang tính tự truyện nhưng đôi lúc mở rộng nội hàm, miêu thuật sự xung
đột về tính cách giữa các mối quan hệ, nhiều lúc tạo ra tiếng cười sảng khoái
bởi những tình huống bất khả kháng. Cũng qua cách kể có tính đặc thù này, tùy
vào văn cảnh, ông còn sử dụng lớp đại từ nhân xưng khá linh hoạt, uyển chuyển, luôn
tiềm tàng chất tiếu lâm khiến độc giả không thể không cười. Đó là trường hợp
nhà văn Tô Đức Chiêu trong cảnh cưỡi ngựa chụp ảnh kỷ niệm: “Nhoáng đã không
thấy Tô Đức Chiêu đâu. Tôi hỏi Hoàng Minh Tường thì biết ngài đang ra chỗ đàn
gia súc. Gã sợ mùi thịt cừu nên chạy biến. Nguyễn Khắc Phục ra theo Tô Đức
Chiêu, hai người chụp ảnh cho nhau. Tô Đức Chiêu to lớn nói với chú bé chăn
ngựa cho ông cưỡi một cái. Chú bé giữ ngựa cho ông lên. Chụp được cái ảnh cho
oai phong rồi Tô tiên sinh tìm cách tụt xuống. Cái thân hình kềnh càng của gã
vướng vào dây bàn đạp nên mới ngã uỵch xuống cỏ. Thằng bé cười ngất. Phục cũng
cười ngất. Con ngựa hồng to lớn ngoảnh lại nhìn một cái, hình như nó cũng mỉm
cười” (tr. 192).
Nhưng
chuyện khôi hài của Chiêu Kỳ Hiệp chưa dừng lại ở đây khi mà cơ địa tiên sinh có
vẻ như không thích ứng với thủy thổ xứ người nên thường phát sinh lắm hệ lụy,
nhất là món “Pó tực” (thịt cừu bọc trong dạ dày dê, nêm gia vị rồi đem hấp lẫn
với những viên đá nóng) làm ngài nôn ọe đến mặt xanh nanh vàng nằm rên hừ hừ
trong khu nhà lều Mongo giữa thảo nguyên mênh mông, dặn lại bạn bè bằng thứ
ngôn ngữ vô cùng ai oán của người sắp “quy tiên”: “Chúng tôi trở về khu nhà
lều. Tô tiên sinh chạy như bay. Tôi về nhà lều của mình thì thấy Chiêu Kỳ Hiệp
đang rên hừ hừ. Tưởng tôi là Tường Tiểu Tử, Chiêu quát: Mở cửa nhanh lên không
tao chết bây giờ! (...) Tường chạy đi tìm anh Thúy Toàn rồi mở cửa cho Chiêu về
nằm, Tô tiên sinh đặt phịch xuống giường, đắp chăn, rên ư ử. Tường Tiểu Tử lấy
dầu xoa vào thái dương cho Chiêu Kỳ Hiệp. Tôi sợ Chiêu bị trúng gió nên chạy
sang mang theo dầu và mấy viên trợ tim. Tôi xoa dầu và cho Chiêu uống thuốc.
Chiêu thều thào bảo tôi: ‘Tôi chết ở đây cũng được nhưng chỉ sợ phiền các ông’.
Tôi lạnh toát người khi Chiêu nói thế, vì lúc này ngài không đùa. Tôi nói cứng:
‘Chết thế chó nào được, còn nhiều các em mong anh về lắm’. Tôi hơi bị hoảng vì
Chiêu vừa dẫn vợ đi Cămpuchia về lại tức tốc sang đây. Mà nói thật cái mặt của
ngài hai má rám đen trông hơi hãi...” (tr. 196).
Cách tả
như thế tưởng đã là tột đỉnh của sự hài hước, nhưng không ngờ chân dung của tác
giả “Lá bàng xanh ngoài cửa sổ” còn được Trần Lão ký họa “biến dạng” đến mức không
thể tưởng tượng nổi: “Cái thân hình lêu đêu của ngài bây giờ so so lại trông
như Thằng Gù nhà thờ Đức Bà” (tr. 196). Nguyên nhân dẫn đến thảm cảnh trên là
bởi Tô Đức Chiêu dị ứng với thịt cừu nhưng lại là món ăn khoái khẩu của cư dân
thảo nguyên. Có điều, sau khi bị “lừa” chén thịt bò mà thực chất là thịt cừu,
ăn cơm và uống trà lipton nóng thì nhà văn của chúng ta có dấu hiệu phục hồi:
“Lúc này ngồi đầu bàn là Tô tiên sinh. Tôi thấy ông ăn ngon lành, khổ vì nhiều
thịt cừu, chỉ có một ít thịt bò nên Chiêu cứ chén cơm không. (...) Chiêu Kỳ
Hiệp bây giờ tươi tỉnh hơn. Thoát rồi không chết ở thảo nguyên được. Hóa ra gã
đói và rét. Từ xưa đến nay đói và rét đi kèm nhau là rất nguy. Ban trưa ở nhà
lều ngài không ăn được thịt cừu nên đói, đi đường xa lại bị lạnh quật nên ngài
đổ kềnh...” (tr. 197).
Trừ tác
giả (tất nhiên Trần Nhương không dại gì kể ra những “scandal” của mình), còn
hầu hết thành viên trong đoàn đều gia nhập “rừng cười” ít nhất là một chuyện “bê
bối” mang tinh thần văn chương. Sau Chiêu Kỳ Hiệp là Tường Tiểu Tử với vụ chú
chó mực săn lùng “của quý” vào buổi sáng sớm khi nhà văn dậy tập thể dục trên
thảo nguyên. Pha gay cấn này, nếu không được Nhương Tác Nghiệp nhanh tay “giải
cứu” rất có thể tác giả “Thời của thánh thần” đã “mồ yên mả đẹp” nơi đồng cỏ
Mongolia thơ mộng: “Tôi ngoảnh lại thì thấy Hoàng Minh Tường mặt xanh như đồng
cỏ, thở hổn hển, nói không ra lời: ‘Bác Nhương ơi, cứu em với, con chó này nó
đuổi em...!’. Tôi thấy chú chó mực to như chó sói thè lưỡi thở như người nó vừa
đuổi. Tôi tỏ ra thạo đời bảo Tường Tiểu Tử: ‘Nó quý chú đấy, nó theo chú ra
đồng đinh ninh kiếm được bữa sáng’. ‘Em càng chạy nó càng đuổi, chạy nhanh thì
nó đuổi nhanh, chạy chậm nó đuổi chậm’. Tôi buồn cười quá. Cái anh chàng lên bờ
xuống ruộng đã từng mà hóa ra nhát thấy mẹ. Để chứng minh con chó quý người,
tôi huýt sáo và đưa tay vẫy vẫy. Quả nhiên con chó sà vào lòng tôi nũng nịu.
Tôi gãi đầu nó rồi ôm ngang người chú mực. Chú ra vẻ khoái quá, đuôi ngoáy tít.
(...) Thật ra đây là con chó nuôi của khu nhà lều, nếu là chó hoang hay chó sói
thì hôm nay Tường Tiểu Tử da ngựa bọc thây rồi. Tôi đoán chú mực quen mui sáng
sáng theo người đi ‘đại bác” ngoài bãi cỏ. Ở thảo nguyên thì làm gì có toilet
bán vé như ở Hà Nội... Hôm nay gặp ông khách từ Việt quốc sang đây nó cứ nghĩ
một cách hết sức máy móc như thế, nào có biết đâu ông ta đi tập thể dục...”
(tr. 200).
Còn nhà
văn Thúy Toàn, bậc trưởng thượng của những bản dịch tiếng Nga nổi tiếng thì
được/ bị nghỉ qua đêm cùng phòng với một nữ nhân viên Monggolia xinh đẹp trong
đoàn của tiến sĩ Dashtsevel, vốn là cựu sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội, có
tên tiếng Việt là Hà. “Quả hên” trời cho này khiến Tường Tiểu Tử vốn sẵn máu
phong tình có phần tiếc nuối: “Tường Tiểu Tử hình như chỉ chờ có thế để xả cái
tiếc rẻ tối qua. Gã nói thầm vào tai tôi: ‘Bác xem Toàn Đại Nhân ngủ trả bữa.
Đêm qua chắc cụ có tí ti’. Tôi cười nhìn anh Thúy Toàn ngủ ngon trên vai Phục:
‘Không đâu, bác là người lớn, nghiêm như cột điện đâu có léng phéng như chú’.
‘Thì em cũng tin như thế nhưng thấy bác ngủ trên xe thế này em hơi nghi
nghi...” (tr. 211).
Một chi
tiết rất đáng chú ý nữa là, trong những chuyến du hành ngang dọc thảo nguyên,
đoàn nhà văn được lãnh đạo địa phương tiếp đón trọng thị, khoản đãi chu đáo với
tư cách chủ nhà vô cùng hào phóng. Sự hiếu khách của bạn hoàn toàn xuất phát từ
tình cảm chân thành khi mà ba, bốn ông bà chủ tịch huyện cùng ra thảo nguyên
nghênh tiếp các văn nhân. Tình cảm ấy không phải là thứ đầu môi chót lưỡi sớm
nắng chiều mưa kiểu “mười sáu nhữ vàng” nhưng thật sự quý hơn vàng. Tuy là dân
du mục ở vùng thảo nguyên xa xôi nhưng các bạn Mongolia có văn hóa ứng xử của một
dân tộc văn minh khiến khách phải tâm phục khẩu phục. Trông người lại nghĩ đến
ta...
Trong
chuyến thăm một huyện vùng tây bắc, các nhà văn được ông chủ tịch giới thiệu về
huyện mình những con số thống kê (số thực chứ không phải “số đẹp” để ổn định
chính trị) mà người Việt Nam ta có nằm mơ giữa ban ngày cũng không thể tưởng
tượng nổi: “huyện Bagon có số dân 5.200 người, bình quân một người khoảng 40
héc ta đất, có 80.000 đại gia súc, 17.000 héc ta trồng trọt. Huyện có mỏ vàng
hàng năm khai thác khoảng 7 tấn. Số dân chăn nuôi được dùng điện chiếm 83%. Thu
nhập bình quân mỗi gia đình 4000 USD trong năm”.
Văn hóa ẩm
thực của người Mongo mới thật là “đậm đà bản sắc” làm Chiêu Kỳ Hiệp xuýt “tắc
tử”, còn Nhương Tác Nghiệp, Phục Bạch Đầu, Tường Tiểu Tử, thậm chí cả trưởng
lão Toàn Đại Nhân đều hào hứng nhậu món “Pó tực” độc nhất vô nhị, và cũng không
quên nhâm nhi khoản sửa ngựa trong những chiếc bát bạc giá 300 USD được dùng
khi tiếp khách quý. Đó là còn chưa nói đến những chiếc khăn xanh truyền thống
tặng khách như một nghi lễ mang màu sắc tâm linh hay loại len thượng thặng làm
từ lông bò tót chỉ có ở xứ sở của Thành Cát Tư Hãn. Và đây cũng lại là một chuyện
có yếu tố gây cười: “Tường và Chiêu lúc này nóng máu hỏi bò tót thật à. Tôi
vênh lên, chứ lại không, ông Dat không nói bậy bao giờ, các ông thấy ông và cô
Hoa mua nhiều không. Chả biết thế nào cứ mang về bảo vợ đây là len lông tơ bò
tót mua tại thành phố giáp Nga các bà ấy lại chả chảy nước mắt ra ấy à. Nghe có
vẻ bùi tai hai gã rủ nhau quay vào cửa hàng. Quả nhiên mỗi anh một cái áo len
xách ra với vẻ mặt hớn hở hiếm thấy...” (tr. 208).
Để thay
lời kết cho bài viết tùy hứng về thiên du ký đặc sắc của Trần Lão tiên sinh,
chúng tôi không dám bình luận gì thêm mà chỉ xin trích ra đây một đoạn ở cuối
cuộc hành trình trong “Tản mạn Mongo” trước khi 5 hiệp khách từ biệt quê hương
của các khan lên máy bay Boeing về nước, vẫn với giọng điệu gây cười: “Bữa trưa
hôm nay chúng tôi ăn kiểu cơm Tây. Phục Bạch Đầu ngồi gần Chiêu Kỳ Hiệp. Phục
gắp cho Chiêu hai miếng thịt nạc màu hơi sẫm, nói: ‘thịt bò đấy, tôi nhường
ông’. Chiêu Kỳ Hiệp: ‘Thank you!’. Tôi ý tứ nhìn Phục thầm hiểu ý Phục. Chính
hai miếng thịt đó là thịt cừu, lừa Chiều Kỳ Hiệp để khẳng định ngài ăn được
thịt cừu. Anh Thúy Toàn nói: ‘Đừng nói gì vội, để về đến Bắc Kinh hãy công bố”
(tr. 208).
Chí Linh,
26/11/2016
Đ.V.S.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét