“Bác
sĩ trưởng khoa” hay bi kịch một thời của người trí thức Việt Nam?
Đặng Văn Sinh
Nếu đọc kỹ ở
cấp độ sâu hơn, chúng ta sẽ nhận ra một điều, “Bác sĩ trưởng khoa”* không đơn
thuần chỉ là cuốn tiểu thuyết hư cấu được hình thành trên nền tảng những đặc
điểm của Chủ nghĩa hiện thực cổ điển
rất phổ biến ở thế kỷ XX, đem đến cho người đọc những trang viết đầy cảm xúc,
mà phía sau nó, còn một hồ sơ chuyên môn, được ghi chép trung thực bởi một nhà
văn, vốn là chuyên gia phẫu thuật, dưới dạng những đoạn hồi ức như một thủ pháp
đông hiện, phơi bày những góc khuất của ngành y mà dư luận công chúng chưa từng
biết đến. Đồng thời, cũng từ mặt trái của chuỗi bệnh viện công, người ta có
quyền suy luận đến hiện trạng xã hội, một hiện trạng rất không bình thường, ẩn
chứa nhiều rủi ro bất trắc, liên quan đến số phận cộng đồng nhưng lại bị giấu
kín qua lớp vỏ bọc hào nhoáng.
Vấn đề của
“Bác sĩ trưởng khoa” là vấn đề thời đại. Tinh thần thời đại ấy bao quát mọi
hoạt động xã hội. Nó dường như đã trở thành một hình thái văn hóa, đạo đức chi
phối hành vi và nhân cách mỗi viên chức trong hoạt động chuyên môn hàng ngày.
Nói như vậy, có nghĩa là, mỗi một kíp mổ và quá trình mổ xẻ trong bệnh viện nào
đó, đều được xem như một công đoạn vận hành của cấu trúc xã hội. Vì thế, nó
không dừng lại ở những y cụ như dao kéo, panh, bông gạc hay gây mê, hồi sức… mà
còn là tâm thức xã hội, sự tử tế hay bất lương, và rộng hơn là triết lý sống
mang trong mình nó tư tưởng nhân văn hay lạnh lùng vô cảm của cả một cộng đồng.
Về mặt bố cục,
chỉ cần đọc vài trang ở bất cứ phần nào của cuốn tiểu thuyết, chúng ta dễ dàng
nhận ra những chỉ dấu của phương pháp Hiện
thực cổ điển qua lối kể đơn tuyến kết hợp thủ pháp hồi cố với nỗ lực đan
cài sự kiện theo trình tự thời gian tuyến tính. Tuy nhiên, giới hạn phân cách
giữa dòng chủ câu chuyện với các phụ lưu của “Bác sĩ trưởng khoa” lại khá mờ
nhạt, đôi lúc bị xóa nhòa, khó phân biệt được đâu là lời dẫn với mạch hồi tưởng
của cùng một sự kiện nhưng lại được định vị ở những khoảng thời gian khác nhau.
Sự lệch pha giữa trực tiếp và gián tiếp trong cách xử lý văn bản đương nhiên là
gây khó khăn cho việc tiếp nhận nắm bắt mạch truyện, đôi khi cũng là một biện
pháp nghệ thuật, có tác dụng như chiếc phanh hãm nhằm điều tiết trạng thái cảm
xúc, tạo ra những khoảng “lặng” để người đọc có sự chuẩn bị cần thiết về mặt
tâm lý trước khi tìm hiểu những phần tiếp theo câu chuyện.
Nhân
vật chính, bác sĩ Trần Tử Khang xuất hiện thường xuyên suốt 470 trang sách,
nhưng quá trình hoạt động của ông luôn bị gián cách bởi các trường đoạn, lúc
thì được chèn vào bằng ca phẫu thuật của một bác sĩ non tay nghề cắt nhầm nội
tạng bệnh nhân dẫn đến tử vong nhưng vẫn vô can (!?), đơn giản chỉ vì anh ta có
lý lịch bần cố nông; lúc lại kéo dài cả một chương phơi bày mưu lược triệt hạ
đồng nghiệp của những quan chức thiếu bản lĩnh chuyên môn nhưng thừa thói đố kỵ
nhân tài. Cũng có đoạn trình bày khá tỉ mỉ về gia cảnh Đặng Vũ Hoàng Anh mà ông
bố là cán bộ cao cấp của Đảng, được tiêu chuẩn mua hàng Tông Đản, mỗi khi có
việc “nhạy cảm” cần phải bí mật thì ông bà nói với nhau bằng tiếng Pháp, nhưng
lại rất dị ứng với thành phần xuất thân có nguồn gốc “nhà quê” của Trần Tử Khang nên đã dùng cả những thủ đoạn không
mấy tử tế cho con gái ly hôn mà chẳng mảy may để tâm đến đứa cháu ngoại vẫn còn
trứng nước. Đó là chưa kể đến những cảnh tượng kinh hoàng ở một trạm phẫu tiền
phương sau trận không kích của máy bay Thần Sấm, Con Ma mang tính hủy diệt được
phục hiện làm bối cảnh cho sự phát triển của mạch truyện.
Như vây, về
mặt tổng thể, ở phần bình diện, “Bác sĩ trưởng khoa” như một bức tranh toàn
cảnh với những điểm nhấn khác nhau, chia đều cho cả hai miềm Nam Bắc về sự khốc
liệt của chiến tranh. Tình cảm, lương tri và nhân cách con người bị hủy diệt
không chỉ bởi súng đạn, mà còn bởi ý thức hệ. Học thuyết Đấu tranh giai cấp,
chủ nghĩa lý lịch là thứ vũ khí vô cùng sắc bén để loại bỏ một cách có hệ thống
giai tầng trí thức. Nếu có ai đó may mắn thoát thoát khỏi những cuộc đấu tố
trong Cải cách ruộng đất hay Cải tạo tư bản tư doanh thì cũng bị vô hiệu hóa,
biến thành những công chức gọi dạ bảo vâng, sống vật vờ như các xác không hồn.
Qua hệ thống
nhân vật, xét về tương quan thế lực, người đọc không khó nhận ra, đây là một
cuốn tiểu thuyết được dàn dựng khá mất cân đối. Trước khi bàn về vấn đề này,
chúng ta nên tìm hiểu thêm một chút về phương pháp sáng tác mà người viết bài đã
đề cập ở phần trên. Không còn nghi ngờ gì nữa, “Bác sĩ trưởng khoa” là tiểu
thuyết được sáng tác theo khuynh hưởng Hiện
thực cổ điển xuất hiện ở Việt Nam vào những năm ba mươi của thế
kỷ XX với hai tuyến nhân vật chính diện
và phản diện (hoặc thiện và ác). Các
nhân vật này đấu tranh với nhau phản ánh những mâu thuẫn xã hội, những xu hướng
chính trị… thể hiện quan điểm sáng tác của người cầm bút qua hàng loạt biến
động lịch sử. Nhân vật, rất nhiều trường hợp trở thành người phát ngôn cho tác
giả về quan điểm thẩm mỹ, tư tưởng thời đại cũng như cách nhìn nhận lịch sử. Vì
thế, với tiểu thuyết Hiện thực chủ nghĩa,
hệ thống nhân vật chính là linh hồn tác phẩm. Số lượng nhân vật và sự tương
quan giữa hai tuyến chính diện và phản diện thường không có quy định rõ
ràng, mà tùy vào hoàn cảnh cụ thể, nhà văn tạo ra chúng theo yêu cầu nội tại
của tác phẩm, miễn là phù hợp và cân đối với cấu trúc tổng thể.
Trở lại với
“Bác sĩ trưởng khoa”, nói theo quan điểm của các nhà nghiên cứu theo trường
phái Hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì
nhà văn Vũ Oanh rất “mất lập trường chính trị” khi mà ông chỉ để cho một bác sĩ
Trần Tử Khang đứng chênh vênh trên “chiến tuyến” ý thức hệ “tiểu tư sản bấp
bênh”, còn bên kia là cả một đám đông, mang danh đồng nghiệp nhưng thực
chất lại rất khác nhau về tầm vóc văn hóa, kỹ thuật chuyên môn và cả phẩm
giá con người. Họ nhân danh lý tưởng cao
đẹp, khoác trên mình đủ thứ học hàm, học vị, chức danh xủng xoảng, nhưng thực
chất lại là lũ hoạt đầu, kiến thức nông cạn, trong đầu chứa đầy mưu ma chước
quỷ, rình cơ hội chèn ép nhân tài, hãm hại người trung thực. Công sở, bệnh
viện, thậm chí các cơ quan nghiên cứu trở thành diễn trường đấu đá, sẵn sàng hạ
gục nhau giành quyền lực, bổng lộc, cho dù trong
cuộc họp vẫn gọi nhau là “đồng chí”(!?).
“Bác sĩ trưởng
khoa” được nhìn nhận như bức tranh với gam chủ đạo màu xám, khi mà, một bác sĩ
Trần tử Khang phải đối đầu với cả một tập thể các nhà chuyên môn bị tha hóa.
Bệnh thành tích, thói háo danh và sự ghen ghét người khác hơn mình đã ăn mòn
lương tâm họ. Trần Tử Khang cho dù có đôi bàn tay vàng cũng không thể nào giải
phẫu được căn bệnh nan y này, một khi nó đã hằn sâu trong não bộ của những Phạm
Quang Minh, Bùi Cường, Lã Hồng Quân hay Đinh Mãn Độ…
Có thể nói,
ngay sau khi ra trường, cho dù là học trò yêu của Giáo sư Tôn Thất Tùng, Trần
Tử Khang đã phải sống trong một môi trường xã hội không bình thường mà hệ tư
tưởng của nó được thiết kế dựa trên nền tảng ý thức hệ vô sản, lấy Đấu tranh giai cấp làm động lực phát
triển. Học thuyết Đấu tranh giai cấp
luôn gắn với động loạn xã hội. Những cuộc xung đột sắc tộc hay nội chiến đều
được nhân danh lý tưởng cao siêu cùng với nghệ thuật tuyên truyền thượng thặng
đã tạo nên hội chứng đám đông, huy động được hàng triệu cá thể sẵn sàng “bỏ bút
nghiên theo nghiệp binh đao”. Cuộc chiến tàn khốc, dai dẳng đã hủy hoại sinh
lực cộng đồng, tàn phá nguyên khí quốc gia, biến những công trình văn hóa phải
mất nhiều thế kỷ mới tạo dựng được thành phế tích.
Trong bối cảnh
xã hội lúc ấy, Trần Tử Khang không thể từ chối vào chiến trường. Anh chỉ là con
tốt trên bàn cờ thế sự. Người ta sẵn sàng thí tốt chứ không đời nào thí xe, cho
dù “con tốt” ấy có một bàn tay tài hoa và cái đầu tỉnh táo, biết phân tích tình
hình thời cuộc ở trình độ bậc thầy của những chính khách “xôi thịt” xuất thân từ giai cấp công nông.
Hàng loạt trí
thức tài năng như Trần Tử Khang bị đưa vào chiến trường với đầy đủ lý do không
thể chối cãi, nhưng nguyên nhân đích thực của nó thì người ta lại cố tình lờ
đi. Chính vì thế mới có chuyện, phó tiến sĩ “hữu nghị” Phạm Quang Minh hay bác
sĩ Đinh Mãn Độ, được bổ nhiệm làm giám độc bệnh viện chỉ vì có các bậc sinh
thành là cốt cán trong thời kỳ Cải cách ruộng đất.
Sau nhiều năm lăn
lộn ở chiến trường, tuy thân xác vẫn nguyên vẹn, nhưng tâm hồn Trần Tử Khang bị
thương tổn nặng nề. Ra khỏi cuộc chiến, Khang trở thành con người hoàn toàn
khác cho dù tay dao của ông vẫn duy trì phong độ của một phẫu thuật viên hàng
đầu. Nói cách khác, sự tổn thương về tinh thần của người bác sĩ phẫu thuật phải
được nhìn ở góc độ tư tưởng triết học. Vết thương ấy chẳng những không lành mà
còn di căn như một khối u ác tính luôn gây ra những cơn kịch phát mỗi khi trái
gió trở trời.
Thân phận của
Trần Tử Khang chính là bi kịch của lớp trí thức tài năng, chứa chan nhiệt huyết
nhưng gần như suốt đời không được trọng dụng bởi chủ trương “trí phú địa hào
đào tận gốc trốc tận rễ”, mà trớ trêu thay, thành phần nguyên khí quốc gia ấy,
từng được Thân Nhân Trung coi là bảo vật, khắc vào bía tiến sĩ, lại là những kẻ
đầu tiên bị triệt hạ. Chưa hết, những kẻ lãnh đạo cơ hội còn dùng đủ mọi
“mưu hèn kế bẩn” hạ nhục người bác sĩ tài hoa, mà một trong những trò đó là
đẩy cho ông mổ những ca khó, ca nặng, chỉ cần sơ sẩy một chút là kỷ luật
“treo dao”.
Ở đây như có
một nghịch lý nhưng buộc phải chấp nhận, cuộc đời này không có chỗ cho những
người như ông dung thân, chưa nói là thi thố tài năng. Người ta không cần một
cá nhân nổi trội vượt lên trên dàn lãnh đạo thiển cận nhưng vô cùng ngạo mạn,
mà họ cần một đám đông vô danh được giáo dục theo phương thức phục tùng mệnh
lệnh một khi đã có nhóm người “ưu tú” suy nghĩ thay cho cả dân tộc.
Muốn lý giải
hiện tượng này, ta hãy điểm lại một vài chân dung nhân vật, những “gương mặt
thời đại” của ngành y, một lĩnh vực đặc biệt gắn liền với sinh mệnh con người,
nhưng các vị trí chủ chốt trong cơ cấu hoạt động lại được trao vào tay những kẻ
dốt nát, cơ hội, hãnh tiến và ham hố thành tích như Phạm Quang Minh, Bùi Cường,
Lã Hồng Quân, Đinh Mãn Độ. Điều đáng lo ngại ở đây lá, sự dốt nát, tính cơ hội
cũng như thói đố kỵ nhân tài ấy lại được hợp thức hóa dưới danh nghĩa “tập thể lãnh đạo”. Chiêu bài “tập thể”, “tổ chức đảng”, “lập trường”
hay “ý thức giác ngộ giai cấp”…thực
chất chỉ là những cái ô bảo kê cho sự lộng hành của những cán bộ tha hóa nằm
trong hệ thống quản lý khá chặt chẽ, được gia cố bằng tư tưởng Marxisme giáo
điều và tinh thần tiến công cách mạng nơi đầu môi chót lưỡi: “Cái tài rồi thì sớm muộn gì cũng rèn dạy
được. Có ngô nghê, ú ớ thế nào rồi cũng thành. Cứ vào các trường đại học của
ta, là chúng mày dù có thần kinh, đần độn, ngớ ngẩn… cũng sẽ thành nhân tài
tuốt tuột. Chứ còn cái lý lịch làm sao thay đổi? Cái đạo đức của tầng lớp địa
chủ tư sản và người lao động cũng thế. Là ta chỉ rèn giũa đào tạo những con
người ưu tú, từ con cái của giai cấp công nông lao động trong sạch, những gia
đình cách mạng kiểu mẫu mà thôi”(tr. 287-288).
Phó tiến sĩ
Phạm Quang Minh, Giám đốc Bệnh viện quân y 101 là trở ngại đầu tiên của Trần Tử
Khang khi ông có ý định ra khỏi quân đội sau nhiều năm phục vụ chiến trường.
Đại tá Phạm Quang Minh có đầy đủ phẩm chất của một trí thức công nông, trong đó,
thói kiêu ngạo cộng sản (Lenin) và
“lập trường giai cấp” vững vàng chính là kim chỉ nam của “quy trình” vô hiệu
hóa nhân tài. Ông ta luôn tìm mọi cách dìm họ xuống để mình nổi bật lên: “Minh xuất thân bần nông. Là người được cấp
trên nâng đỡ và tin cậy ngay từ khi tham gia cách mạng…vào Đảng lúc mười tám
tuổi, rồi học y tá. Sau chống Pháp ông học y sĩ, rồi tôt nghiệp đại học. Sau
khi nhận danh hiệu Anh hùng trên đường Trường Sơn, ông được ra Bắc học chuyên
khoa ngoại cấp hai. Và sau cùng, ông có bằng phó tiến sĩ y khoa…vừa đúng mười
sáu năm ròng” (tr. 26 – 27). Ngoài bệnh háo danh hành xử theo cách tiểu
nhân như chiếm đoạt công trình khoa học của người khác, Phạm Quang Minh còn là một kẻ lạnh lùng, tàn
nhẫn trong cách cư xử với đồng nghiệp: “Không
có thằng này, những ca khó khăn như thế, và những ca phẫu thuật gan, mật, đại
tràng, trực tràng, thực quản… Ai mổ? Bác sĩ ngoại khoa đông nhưng họ chưa làm
được. Tại sao thằng này mổ giỏi nhiều mặt bệnh… chỉ có một mình nó xử lý an toàn ” (tr. 15). Bộ mặt thật
của viên đại tá phó tiến sĩ rởm một lần nữa lại được bóc trần qua diễn biến tâm
lý của ông ta: “Mình cương quyết không
cho nó đi. Chỉ cho nó làm phẫu thuật viên và bác sĩ điều trị. Không cho danh
hiệu “Thầy thuốc ưu tú”. “Thầy thuốc nhân dân” lại càng không được! Mấy năm nay
nó đòi ra quân liên tục. Đừng hòng! Đừng có tưởng bở! Tổ chức Quân đội nhân dân
Việt Nam
anh hùng, chứ đâu phải bọ quân hồi vô phèng” (tr.16).
Để vô hiệu hóa
Trần Tử Khang, Phạm Quang Minh đã huy động cả hệ thống tổ chức. Viên đại tá rất
phấn khởi khi đọc được những dòng “bút phê” trong lý lịch của đồng nghiệp từ
chiến trường gửi ra: “Từ khi Khang mới
về, ông đã đọc kỹ lý lịch, nhất là những nhận xét của người chỉ huy ở chiến
trường B3 Tây Nguyên. Họ lưu ý các cấp chỉ huy về tư tưởng lệch lạc, phi vô sản
và lập trường bấp bênh của viên trung úy bác sĩ. Trong đó ghi rõ, đã kiểm điểm
với quy mô sâu rộng, cả về thời gian cũng như số người tham gia phê phán. Cần
phải theo dõi giáo dục lâu dài, vì bản chất giai cấp thì rất khó cải tạo, thay
đổi (tr.14). Đọc đến đây ta phải hiểu được ẩn ý của tác giả phía sau những
con chữ. Buồn thay cho nền y học nước nhà khi mà những kẻ thiển cận ở tầm học
vấn “bình dân học vụ”, lại nhân danh lập trường này, tư tưởng nọ để làm một
công việc ngược đời là “giáo dục” tầng lớp trí thức(!?). Cách hành xử trái quy
luật tự nhiên và đạo lý đã dẫn đến những
hệ lụy mà cái giá phải trả rất không nhỏ khi con người được dùng làm vật thí
nghiệm cho những thầy thuốc thiếu trình độ chuyên môn nhưng lại rất vững vàng quan
điểm, lập trường.
Trường hợp “bán dao” của Phạm Quang Minh hay Bùi Cường và Lã Hồng Quân trong
các ca phẫu thuật không phải là hiếm một khi nó trực tiếp liên quan đến tính
mạng con người. Cử chỉ”xuống thang” của của vị phó tiến sĩ đối với Trần Tử
Khang xem ra có phần sượng sùng: “Ca này
ổ bụng dính đặc như bí. Khang mổ được không? Khang vào làm giúp” (tr.18).
Còn Lã Hồng Quân, tuy đã mấy lần buộc phải “bán dao” để mong cứu sống bệnh nhân
sau cái chết oan ức của lão Mộc Đen nhưng vẫn trâng tráo thỏa thuận với Trần Tử
Khang một “hợp đồng’ hết sức vô liêm sỉ: “Bây
giờ tôi thống nhất thế này…Từ nay, mỗi ca lớn nhỏ, tôi đều vào mổ với bác. Ta
cùng làm với nhau. Về danh nghĩa, tôi là bác sĩ Chuyên khoa cấp hai, lại là
trưởng khoa, là lãnh đạo. Tôi đứng tên, tôi che chắn cho bác trên phương diện
pháp ký và đối ngoại. Tức là tôi sẽ phải đối mặt với các vụ kiện cáo… Để bác
rảnh tay, chuyên tâm mổ xẻ. Mà có thế, giám đốc Bùi Cường mới chịu ký duyệt cho
mổ. Trong hoàn cảnh hiện nay, không có tôi, bác không thể làm ăn gì được” (tr.
324).
Bộ sưu tập về “trí
thức bần cố” trong “Bác sĩ trưởng khoa” còn phải kể đến Nguyễn Quý Thân, Phạm
Quang Thoảng, Bảo Hiên, Phạm Phát… Tất cả những nhân vật tai tiếng này đều có
một thứ báu vật vô giá bảo hiểm cho sự cất nhắc địa vị mà Trần Tử Khang dù có
nằm mơ giữa ban ngày cũng đành chịu phép, là nguồn gốc xuất thân. Lý lịch trong
sạch lúc ấy quan trọng lắm. Các nhà
lãnh đạo nhìn cái gì cũng có tính giai cấp, kể cả khoa học và người
làm khoa học . Chính vì thế, một gã lưu manh như Lã Hồng Quân, chỉ nhờ mấy
đôi lợn giống và một bữa rượu thịt chó ông bố tiếp đãi ban tuyển sinh huyện
mà được xét tuyển vào đại học Y khoa: “Lý lịch và đạo đức
thằng cháu Quân đây, là tuyệt vời rồi! Cả bố mẹ đều cố nông và đều là du kích
thời đánh Pháp oanh liệt. Thế mày thích đại học, hay thích vào bộ đội, hở Quân?
Đằng nào khoái hơn?” (tr. 288). Với loại thầy thuốc như Lã Hồng Quân, con bệnh
qua tay anh ta không nhanh chóng ra nghĩa địa mới là sự lạ: “Họ im lặng nghe giám đốc Bùi Cường lăng xê
trưởng khoa Ngoại mới. Anh ta vốn dốt, bỗng chốc thông minh; thiển cận lập tức
trở thành sáng suốt, nhìn xa trông rộng; hiểu biết ít ỏi, nông cạn, thoắt đã
uyên bác, hàn lâm… thoắt cái đã là bác sĩ chuyên khoa cấp hai và chễm chệ ngồi
ghế trưởng khoa”(tr. 290). Sở dĩ đồng nghiệp ở bệnh viện Hồng Phúc đàm tiếu
về tư cách tân trưởng khoa Ngoại - Sản với lời lẽ không mấy tốt đẹp như vậy,
một phần cũng bởi cái chức danh chuyên khoa cấp hai có được của anh ta là do ăn
cắp luận án: “Giáo sư Nguyễn Đức Tấn cho
Quân mượn cái luận án của học trò cũ từ hơn mười năm trước. Quân sao lại một
bản rất sạch sẽ. Đề tài ‘Mổ điều trị thủng ổ loét dạ dày, tá tràng’. Quân có
thêm bớt một số chữ, vài câu, vài dòng ở mỗi trang, mỗi đoạn. Cái thủ thuật
sáng tạo ấy thì Quân giỏi. Các bảng biểu, phân tích, biện luận…trong luận văn
đều được giữ nguyên. Chỉ thay đi những con số người bệnh mổ và ngày tháng năm
viết luận văn ở cuối. Tổng số mổ khâu lỗ thủng dạ dày trong luận án của Quân
lớn hơn bất cứ ai đã bảo vệ trước đó. Người ta có kiểm tra những con số trên
mặt giấy với bệnh nhân được mổ thực bao giờ! Quân thuê làm vi tính, in ra nhiều
bản. Và Quân bảo vệ tại Hội đồng Giáo sư cấp nhà nước, do chính tiến sĩ Nguyễn
Đức Tấn đứng vai Giáo sư chủ tịch”(tr.275).
Còn Đinh Mãn
Độ thì dùng ngón nghề “B quay hợp pháp” để leo dần từ gã y tá quèn chuyên bưng
bô đổ vịt đến chức vụ giám đốc bệnh viện tỉnh rồi trở mặt trả thù những người
từng cưu mạng mình.
Phạm Quang
Minh, Bùi Cường, Lã Hồng Quân, Phạm Phát, Thủ, Nguyễn Quý Thân, Nguyễn Chủng,
thậm chỉ cả GS.TS. Nguyễn Đức Tấn, PGS.TS. Lương Ngọc Bình… đều có một mẫu số
chung là trí tuệ thấp kém nhưng không hẳn là những kẻ xấu xa bẩm sinh. Họ là sản
phẩm của một xã hội khuyết tật, được thăng tiến dựa trên tiêu chí thành phần
giai cấp. Môi trường xã hội ô nhiễm chính là điều kiện lý tưởng để nuôi dưỡng
những dục vọng thấp hèn.
Một điều rất
đáng bàn nữa trong “Bác sĩ trưởng khoa” là nhân vật Trần Tử Khang, không hiểu
do vô tình hay cố ý, được xây dựng trong tình trạng cô đơn. Tuy nhiên, đây
không phải là sự cô đơn tâm lý của một cá nhân bất đắc chí, mà là của cả một
thế hệ trí thức được đào tạo bài bản ở thời kỳ còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của
nền giáo dục phương Tây, bị học thuyết Đấu tranh giai cấp loại khỏi cộng đồng
bằng những ngón đòn triệt hạ chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Nhìn lại quá
khứ, hầu hết các vương triều phong kiến Việt Nam đều trọng dụng kẻ sĩ, coi trí
thức là nguyên khí quốc gia. Vì thế, triều đình thường có chiếu cầu hiền cùng
với quy chế tiến cử nhân tài. Thế nhưng, khi lịch sử Việt Nam mở sang trang mới,
đất nước không còn giặc ngoại xâm, thì những đối tượng bị thanh trừng hoặc vô
hiệu hóa đầu tiên lại là thành phần tinh hoa của dân tộc.
Trần Tử Khang
cô đơn vì ông không có điều kiện thi thố tài năng cứu người bênh, chấn hưng nền
y học èo ọt ngày càng nhếch nhác bởi hệ thống quản lý yếu kém và tệ tham nhũng đã
trở thành quốc nạn. Nỗi buồn của ông cũng là nỗi buồn của cả một dân tộc chỉ có
thói quen nhìn lại phía sau, vui vẻ gậm nhấm dần vinh quang có thật và tưởng
tượng trong mớ bùng nhùng của lịch sử mà ít khi dám ngẩng đầu nhìn đến tương
lai.
Từ những đoạn
hồi ức được phục hiện bên cạnh những trường đoạn của thời hiện đại, giống như
kỹ xảo đồng hiện trong phim truyện, người đọc có thể hình dung được thân thế,
sự nghiệp cùng nhân cách của Trần tử Khang qua sự dàn dựng bố cục không mấy
mạch lạc của văn bản. Những dính dấp trong mạch truyện, phương pháp diễn đạt
không liền mạch cũng như thủ pháp hòa trộn giữa ngôn ngữ kể với ngôn ngữ nhân
vật luôn tạo ra những mê cung, đánh đố người đọc trước mỗi ngã rẽ, khiến ta
không thể phán đoán ngay được ý đồ của tác giả.
Phải thừa nhận
một điều là, xung quanh Trần Tử Khang có khá nhiều đàn bà. Ông có sức hấp dẫn
phụ nữ như nhụy hoa thu hút bầy ông tìm mật. Tuy thế, cuộc đời tình ái của
người bác sĩ tài hoa này lại hoàn toàn không suôn sẻ. Với người phụ nữ nào Trần
Tử Khang cũng bị phản bội trừ Trần Lam Khương.
Đến đây, người
đọc lại nhận ra, cấu trúc mất cân đối trong “Bác sĩ trưởng khoa” xâm thực sang
cả địa hạt ái tình. Cách viết về tình yêu, hôn nhân của Vũ Oanh hầu như đều
trượt ra khỏi quỹ đạo chính tắc. Các mối quan hệ trong cuốn tiểu thuyết, dù là
tình yêu, tình dục hay đơn giản chỉ là sự lợi dụng lẫn nhau đều phát triển
nương theo quy luật tự nhiên mà không bị gò ép vào những tiêu chuẩn đạo đức giả
vốn chỉ được đặt ra để các “đồng chí” giăng bẫy triệt hạ nhau.
Đọc “Bác sĩ
trưởng khoa”, ta có cảm giác như người viết cố tình xây dựng hai cốt truyện đan
cài vào nhau trên cùng một văn bản nghệ thuật. Cốt truyện về chuyên môn thì đầy
rẫy những pha đấu đá, lừa lọc, thanh toán nhau trong bệnh viện bằng các biện
pháp “tổ chức”, còn cốt truyện về tình yêu, hôn nhân thì lại cho ta một cái
nhìn toàn cảnh về phông văn hóa của những người thầy thuốc tự nhận là trí thức,
trong đó, không hiếm trường hợp huy động cả thành phần xã hội đen vào cuộc để
thỏa mãn sự ghen tuông mà trong đó, chi tiết khá điển hình là cuộc hành hung
Đào Thị Như Hoa (tr 113 - 120).
Phần lớn các
mối quan hệ nam nữ trong “Bác sĩ trưởng khoa” đều đươc “giao dịch” ở phía bên
kia của sự minh bạch. Danh xưng “tổ chức” giam hãm con người trong cái lồng của
hệ ý thức giáo điều, duy ý chí, biến họ thành những cỗ máy vô cảm. Chủ nghĩa xã
hội có tham vọng giáo dục công dân của mình thành những vị thánh. Trong xã hội
không tưởng đó, tình yêu nam nữ được xếp vào phạm trù đạo đức. Yêu đương vụng
trộm là tội lỗi. Tình cảm tự nhiên vốn được tạo hóa ban cho, qua một thời gian
dài bị khống chế quá giới hạn chịu đựng, tự nó sẽ gây ra những đột biến giống
như hiện tượng “tức nước vỡ bờ”. Đến lúc ấy, những dạng thức ngoại tình mà nòng
cốt của nó là tình dục phát triển thành dòng ngầm, lúc ẩn lúc hiện, vô cùng
sinh động với kỹ xảo biến hình như trò
chơi ảo thuật.
Đặng Vũ Hoàng
Anh và Ngô Ngân Hà là hai người phụ nữ từng đi qua cuộc đời Trần Tử Khang để
lại trong ông những vết thương lòng. Với Đặng Vũ Hoàng Anh, khi còn là sinh
viên trường y, cô có một tâm hồn trong sáng, dâng hiến con tim non trẻ, cuồng
nhiệt của mình cho tình yêu. Thế nhưng, Hoàng Anh được sinh ra trong một gia
đình cán bộ cao cấp mà ông bố và bà mẹ đều nhiễm thói kiêu căng, hợm hĩnh cũng
như thấm nhuần sâu sắc học thuyết Đấu tranh giai cấp. Từ một thiếu nữ hồn nhiên,
yêu đời, Hoàng Anh bị tha hóa, phản bội chồng từ chính nhân sinh quan méo mó
của những bậc sinh thành. Từ một bác sĩ được đào tạo bài bản, tương lai đầy hứa
hẹn, trở thành gái bao, từ chối nghĩa vụ làm mẹ, ăn chơi thác loạn, Hoàng Anh cũng
như Ngân Hà và Bảo Hiên chính là kết quả của nền giáo dục nhồi sọ, luôn véo
von tự ca ngợi mình bằng những bài văn sáo rỗng.
Với Trần Tử
Khang, mối tình ấy ám ảnh ông suốt đời, thì ngược lại, Đặng Vũ Hoàng Anh coi đó
chỉ là thứ trò chơi mơ mộng nhất thời của tuổi học trò nên sẵn sàng rũ bỏ chạy
theo những thứ phù vân.
Ngô Ngân Hà
thừa hưởng được của bố mẹ vốn là tiểu thương sự tính toán hơn thiệt kể cả ở địa
hạt tình yêu, làm sao có lợi nhất trong các phi vụ làm ăn. Thời điểm ấy, bác sĩ
đối với cô chỉ là nghề tay trái. Cho dù được đào tạo chính quy, “vừa hồng
vừa chuyên”, lại có biên chế chính thức trong bệnh viện Hồng Phúc nhưng cô ta
lại sống bằng nghề môi giới vật liệu cho những chủ thầu xây dựng. Ngân Hà đi
học lấy bằng thạc sĩ y khoa nhưng chưa bao giờ dám cầm dao mổ, đến khi mở phòng
khám riêng, bệnh nhân xẩy ra sự cố lại phải nhờ đến Trần Từ Khang. Là một kiểu
phụ nữ ham mê nhục dục, bất cần các quy chuẩn đạo đức tối thiểu, sống buông
thả, tuy đã qua mấy đời chồng, sẵn sàng lên giường với bất cứ người đàn ông
nào, nhưng Ngân Hà chưa bào giờ thỏa mãn. Cuộc làm tình đầu đời giữa Ngân Hà
với anh lái xe Trường Sơn trên đường đi thăm người yêu được Vũ Oanh tái hiện
như là sự nổi loạn giới tính đầy sức thuyết phục. Đó chính là sự khởi đầu cho
một chuỗi sự kiện xẩy ra sau này làm nên tính cách rất khác thường của người nữ
bác sĩ kể cả khi cô ta đã leo lên đến chức vụ Bí thư đảng ủy, phó giám đốc bệnh
viện Hồng Phúc.
Cuộc hôn nhân
bất đắc dĩ của Ngô Ngân Hà với Nguyễn Quý Thân đầy kịch tính khi mà nửa đêm cô
ta lẻn dậy bắt quả tang ông chồng già đang làm tình với con Ô sin Thị Nở ngay
trên giường mẹ đẻ, hay sự gá nghĩa muộn màng chẳng phải vì tình yêu với Trần Từ
Khang, đều là những trò chơi tạm thời trong hành trình tha hóa nhân cách. Xét
đến cùng, cả Đặng Vũ Hoàng Anh, Ngô Ngân Hà, thậm chỉ cả bác sĩ Bảo Hiên, cũng
là những phụ nữ đáng thương, bị cuộc đời lừa lọc nên tìm mọi cách trả thù đời
mà Trần Tử Khang, một trí thức ngu ngơ, ngẫu nhiên rơi vào tầm ngắm của họ.
Như vậy, về
mặt sự nghiệp, Trần Tử Khang hoàn toàn thất bại, nếu nhìn nhận theo quan điểm của
những kẻ cơ hội, bợ đỡ, nhưng ông đã để lại dấu ấn đậm nét trong lòng người
bệnh về tài năng và nhân cách. Trần Tử
Khang, với tư cách là một nhà khoa học, một nghệ
sĩ có bàn tay vàng trong làng phẫu thuật tầm cỡ quốc gia, không học hàm,
học vị, không chức danh, chức vụ, nhưng thật sự là một thầy thuốc nhân dân, cho
dù bị cả một hệ thống quyền lực xúm nhau lại đánh đòn hội chợ. Về mặt tình yêu,
gia đình, Trần Tử Khang cũng là một kẻ thất bại ê chề. Lúc bắt đầu khởi nghiệp,
Khang bị ông bà Đặng Vũ Chí Thành xúc phạm, bị Hoàng Anh phản bội, khi đã luống
tuổi, trong quan hệ gia đình không mấy tốt đẹp, ông lại bị Ngô Ngân Hà hạ nhục.
Cuộc đời Trần Tử Khang từng nếm trải
không ít đắng cay, nhưng ông khác người ở chỗ là bình tĩnh đón nhận, coi nó như
một phần tất yếu trong cuộc nhân sinh đầy bất trắc. Đôi khi Trần Tử Khang còn
hóa giải được nó như đã từng hóa giải sự sai lầm trong các ca phẫu thuật của
đồng nghiệp, cứu sống không ít bệnh nhân. Cuối đời, sau khi giải nhiệm, chỉ còn
mỗi Trần Lam Khương là người yêu ông thật lòng thì lại đi xa.
Trần Tử Khang
là một bác sĩ đáng trọng nhưng cũng đáng thương. Ông chính là thân phận của
người trí thức được đào luyện trong lò giáo dục của chế độ mới nhưng lại bị
chính guồng máy quan liêu, tham nhũng ấy đẩy ra ngoài lề cuộc sống bằng những
thủ đoạn bẩn thỉu.
Viết “Bác sĩ
trưởng khoa”, tác giả Vũ Oanh tìm được một cốt truyện mà tính hiện thực của nó nổi
trội hơn những cuốn tiểu thuyết viết về ngành y như “Thành trì”, “Những
năm ảo vọng”, “Thân phận thầy lang” của Anh Quốc; “Người tình tuyệt vời”,
“Bác sĩ Bređơ”, “Một ca suy tim” của Mỹ;
“Đèn không hắt bóng”, “Gia đình Nire” của Nhật; “Thầy lang” của Ba
Lan; “Cái chết của ông bác sĩ” của Hungari; “Một gia đình lớn” của Liên
Xô. Mấy chục năm qua, Việt Nam cũng đã có vài tiểu thuyết về đề tài trên, mà
điển hình là “Chân trời”, “Lời thề Hypocrate”, “Màu trắng không im lặng”,
hoặc “Cát bụi nhân ai”…, tuy nhiên, hầu hết chúng đều
diễn ngôn theo khuôn mẫu của phương pháp sáng tác Hiện thực xã hội chủ nghĩa thông qua đặc trưng điển hình hóa nhân
vật, để cuối cùng có được sự kết thúc phe
tích cực chiến thắng, còn phe tiêu cực thất bại như một công thức bất thành văn. Ngược lại, “Bác
sĩ trưởng khoa” có một cái kết buồn khi Trần Tử Khang nghỉ hưu, sống lặng lẽ
như một dật sĩ đã quá hiểu lẽ đời. Sự thất bại của người thầy thuốc từng trải
này là phù hợp với quy luật phát triển của một xã hội mà những người quản lý nó
không chấp nhận những giá trị phổ quát đang vận hành của nền văn minh nhân
loại. Từ lâu, họ đã tạo ra cho mình một nền văn hóa “đậm đà bản sắc” khác
người, không thể dung nạp được những nhân cách lớn. Trong khi ấy, Trần Tử Khang
vẫn “bảo thủ” không chịu tuân theo luật chơi của họ, trở thành một kẻ khác, được hiểu ngầm như là
“thế lực thù địch”, đương nhiên sẽ bị vô hiệu hóa. Một lần nữa ta phải nhìn
nhận, thân phận của Trần Tử Khang là một tất
yếu lịch sử. Bi kịch đời ông chính là bi kịch của cả một thế hệ chỉ vì muốn
sống và làm việc theo những chuẩn mực văn hóa của xã hội văn minh.
Chí Linh,
7/10/2015
Đ.V.S.
*“Bác sĩ trưởng khoa”,tiểu
thuyết của Vũ Oanh, NXB Hội Nhà văn - 2013, tái bản 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét