NGUYÊN KHÍ
Tiểu
thuyết của Hoàng Minh Tường
9.
ỨC TRAI TIÊN SINH
Đủng đỉnh chiều hôm
dắt tay
Trông thế giới phút
chim bay.
( Mạn
thuật 4 – Quốc âm thi tập – Nguyễn Trãi)
Lại nói về quan Thừa chỉ Hành khiển Nguyễn Trãi.
Tận dụng những
ngày ở Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã dồn hết tâm trí để hoàn thành bộ “Quốc triều
Hình luật” mà ông đã hứa với vua Lê Thái tổ trước phút ngài lâm chung. Đây cũng
chính là phần hai của “Bình Ngô sách” mà ông từng tâu lên Bình Định vương khi
hội kiến người ở Lam Sơn. Ông từng nói với Lê Lợi:“Giành lại nước trong nanh
vuốt giặc Ngô lúc này là vô cùng gian nan cực khổ, nhưng không phải là bất khả.
Thời Trần thế giặc Nguyên Mông còn lớn gấp bội giặc Minh bây giờ. Vó ngựa quân
Mông Cổ từng tung hoành khắp mặt đất, từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, giặc
Thát dày đạp Trung Nguyên, khiến người Hán mấy chục năm sau còn khiếp sợ. Vậy
mà đến nước Nam
ta thì thất bại. Hưng Đạo Đại vương cùng vua tôi nhà Trần ba lần làm cho giặc
Nguyên Mông vỡ mật, Thái tử Thoát Hoan phải chui ống đồng mới toàn mạng… Chỉ
cần chúa công dùng chước “mưu phạt tâm công” biết đánh vào lòng người, biết dựa
vào sức dân, thì nguy nan đến mấy, Đất Nước cũng có ngày giành lại được. Nhưng
thưa chúa công, giành được độc lập đã khó, nhưng xây nền tự chủ còn nguy nan
gấp bội…”
Rất tiếc là ngay
sau khi giành được độc lập, vua Lê Thái tổ đã quá say sưa chiến thắng, choáng
ngợp vì vinh quang, tự mãn về công đức, đem lòng nghi kỵ công thần, thích
nghe bọn xu xiểm, bỏ ngoài tai lời nói
thẳng. Tiếp đến là những năm ông vua trẻ Lê Thái Tông ham chơi, ít chịu học, ưa
dùng bọn lộng thần. Vì thế việc lớn nhất là xây dựng rường cột quốc gia, đưa
triều chính vào kỷ cương, khuôn trăm họ sống theo luật pháp… vẫn chưa làm được.
Nguyễn Trãi cáo quan, bãi triều, tiếng là trí
sỹ, ẩn dật, nhưng tất cả tâm trí sức lực vẫn dồn hết cho bộ “Quốc triều Hình
luật” mà ông đã thai nghén từ thuở “góc thành nam lều một căn”. Rồi từ hơn chục
năm nay, ông cùng các văn thần đồng môn đồng tuế bao phen lao tâm khổ tứ, đào bới từ những
tàng thư bị giặc Minh tiêu hủy để tìm vốn liếng còn lại của ông cha, nhờ các
đoàn sứ thần sưu tầm các bộ hình luật của các triều đại Đường, Tống, Minh… để
tra cứu, tham khảo. Bây giờ thì bộ sách đồ sộ “Quốc triều Hình luật” gồm 6
quyển, 13 chương, hơn 700 điều, đã hầu như hoàn thành, đang nằm trên án thư
kia. Đó sẽ là món quà quí giá nhất mà Trãi này sẽ dâng lên đức vua để ngài phê
chuẩn ban bố cho trăm họ. Nước Nam ta từ nay sẽ có quốc luật, quy định mọi hoạt
động của nhà nước từ triều đình đến hương xã, từ quan đến dân; mọi lĩnh vực đời
sống kinh tế, văn hoá, chủ quyền, lãnh thổ, bang giao, quân sự, thuần phong, mĩ
tục; một bộ luật kỳ vĩ, là rường cột quốc pháp cho muôn sau.
Nhiều đêm, như
mộng du, Nguyễn Trãi chợt tỉnh giấc, đi lại án thư, mở một chương, tìm một điều
khoản, nhẩm đọc lại, dùng bút son khuyên một vòng, hoặc sổ một nét bên lề, rồi
lặng lẽ ngồi suy ngẫm.
Hồi mới chuyển về Côn Sơn, nhân dựng căn nhà
ngang làm nơi dạy học, Cúc Pha Nguyễn Mộng Tuân, người bạn đồng khoa đỗ Thái
học sinh năm Canh Thìn (1400) cùng Nguyễn Trãi, từ kinh đô đi thuyền xuống, chỉ
để bàn với Ức Trai về mấy điều trong chương “Điền sản”.
Cúc Pha nói:
- Dân Nam mình,
ngoài ruộng vườn, còn có sản nghiệp gì để mưu sống?Vậy mà đám công thần tham
lam đồi bại, bọn người nhà của đám kiêu binh Lam Sơn, bọn quan hoạn lộng quyền…
dám ngang ngược chiếm đất của dân Kẻ Bưởi, Kẻ Sủi, Dương Nỗ, Văn Giang…Mấy
tháng nay dân tình kêu khóc như ri đội đơn kêu oan đi khắp các cửa quan. Phải
có điều luật quy định tư hữu về ruộng đất, người dân mới có cơ may sống nổi…
Cúc Pha than
phiền về đám Lam Sơn hội, cậy thế Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh đang đêm đuổi dân Kẻ
Bưởi ra ngoài bãi sông để cướp đất xây cất phủ đệ. Ông nói, chính ông đã hai
lần khải tấu lên đức vua cho triệu thỉnh quan Thừa chỉ Hành khiển về triều.
- Cám ơn Cúc Pha
tiên sinh đã ưu ái kẻ tài hèn sức mọn này – Nguyễn Trãi nói – Sư huynh còn nhớ
lần chúng ta cùng tranh biện ở Tập hiền viện không? Nhân nói đến Hạng Vũ, huynh
cho rằng Tịch dòng dõi con nhà tướng nhưng chỉ là kẻ võ biền, có thể ngồi trên
lưng ngựa mà lấy được thiên hạ, nhưng không thể ngồi trên lưng ngựa mà cai trị
được thiên hạ. Chính vì thế mà đất Quan Trung sau này đều về tay Lưu Bang cả.
Huynh nói vậy, tại hạ
hiểu ngay thâm ý là muốn nói tới Tiên đế. Xã tắc đã qua những ngày ngồi trên
yên ngựa. Hết võ công phải đến thời văn trị. Quốc thái dân an là một đại nghiệp
lớn, khó lắm thay. Trãi tôi như khúc gỗ mục không đáng cấy mộc nhĩ. Lục thập
nhi thụ lão…Toàn bộ chút hơi tàn đã dồn hết vào bộ “Quốc triều Hình luật” kia
rồi…
Nguyễn Mộng Tuân
vuốt chòm râu bạc, cười hà hà:
- Văn Nhược này
vừa đọc trộm bài “Lão dung” của Ức Trai tiên sinh rồi. Khẩu khí còn ngạo đời
lắm, gừng càng già càng cay. Để đọc lại xem trí nhớ Cúc Pha còn đáng tin không
nhé:
“ Tìm được lâm tuyền chốn
dưỡng thân
Một phen xuân tới một phen xuân
Tuy đà chưa có tài lương đống
Bóng cả như còn rợp đến dân.”
Nguyễn Trãi vội
xua tay:
- Bài này Trãi
làm vịnh cây đa già trước Thanh Hư động. Không có ý tự phụ khoe khoang gì. Xin
chớ để đến tai bọn lộng thần…
Cúc Pha cả cười,
ánh mắt đầy tinh nghịch.
- Ha ha… Ức Trai
tưởng chỉ bọn giá áo túi cơm này say, còn một mình tiên sinh tỉnh hay sao?
Không đâu. Văn Nhược vừa chợt lóe một tứ
thơ trong đầu. Xin tiên sinh giấy bút để bỉ nhân đề tặng.
Nguyễn Trãi bảo
người nhà mang giấy và nghiên bút ra. Rồi tự tay Ức Trai rót rượu, đưa mời bạn. Cúc Pha nâng chén đáp lễ,
nhìn quanh tầng tầng giá sách và căn nhà đơn sơ của bạn, nghiêng đầu như xuất
thần, rồi vung tay múa bút:
HẠ THỪA CHỈ ỨC TRAI TÂN CƯ
Thiện trị ưng
tri kế Tử Kinh(1)
Hà tu lậu ốc hộ tân minh
Nhất điều thủy lãnh tri tam quán(2)
Tứ bích gia bần phú lục kinh
Mai ảnh nguyệt miêu lai giáng trướng
Hà hoa phong đệ tống sơ linh
Huề hồ nghĩ dục đồng thanh thưởng
Giai túy tùy nhân vật độc tinh.
( MỪNG NHÀ MỚI
THỪA CHỈ ỨC TRAI
Tử Kinh nối chí khéo làm nhà
Lậu ốc cần chi có bản ca?
Lạnh lẽo một dòng quan cực phẩm
Xác xơ bốn vách sách nghìn pho
Dáng mai trăng tạc nơi màn đỏ
Sen ngát hương qua cây cối thưa
Mang rượu đến ông cùng thưởng thức
Say theo người chớ tỉnh riêng ta)(3)
Đọc bài thơ của
Cúc Pha viết tặng, Nguyễn Trãi lặng đi, giấu hai ngấn lệ bên khóe mắt. Cúc Pha
khéo mượn ý trong bài “Ngư phủ từ” của Khuất Nguyên: “ Nhân giai túy, duy ngã
độc tỉnh hề” ( Mọi người đều say, riêng ta vẫn tỉnh) để nói với Trãi này.“Mang
rượu đến ông cùng thưởng thức. Say theo người chớ tỉnh riêng ta”.
Sao Văn Nhược
bạn thấu hiểu trái tim ta đến vậy? Hơ hơ… Nhân giai túy, duy ngã độc tỉnh hề…
Ức Trai rót tiếp
hai ly rượu.
- Nào, Văn
Nhược, ta uống với bạn suốt đêm nay. Nhân giai túy, duy ngã độc tỉnh hề. Trãi
này đâu muốn tỉnh một mình. Thế thái nhân tình này, buồn nhất là không thể say
được…
***
Nguyễn Mộng Tuân
đi rồi, Nguyễn Trãi trống vắng cả tuần trăng. Rồi Côn Sơn cho ông những thời
khắc bình lặng, khoan hòa. Ông tự hỏi: Xa chốn bon chen bụi hồng, ta sống thực
là mình, ta sống tốt lên chăng?
Am trúc hiên mai ngày tháng qua
Thị phi nào đến
cõi yên hà
Bữa ăn dầu có
dưa muối
Áo mặc nài chi
gấm là
Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải
luống ương hoa
Trong khi hứng
động vừa đêm tuyết
Ngâm được câu
thần dặng dặng ca.(4)
Không ở Côn Sơn
không thể có những khắc giây thần bút như thế. Không lời thị phi nào lọt tai,
mới lão thực đến thế. Ức Trai hiểu ra con người chỉ hạnh phúc khi không còn
màng danh lợi:
Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng
Phiến sách ngày
xuân ngồi chấm câu
Dưới công danh
đeo khổ nhục
Trong dầu dãi có
phong lưu…(5)
Sau những thời
khắc san nhuận “Quốc triều Hình luật”, hầu như
ngày nào cũng có thơ. Thơ như tuôn chảy từ cảm xúc tự do, tự tại, từ tâm thế
giã từ trần tục, hòa đồng với cỏ cây.
Nhưng, đó mới chỉ là nửa con người Nguyễn
Trãi. Thấp thoáng trong thơ, ông không giấu được con người thế sự, không che
được bộ phẩm phục quan nhất phẩm và chiếc mũ ô sa. Nhiều đêm ông thảng thốt
ngồi vục dậy, buông một câu than:
“ Quân thân chưa báo lòng canh
cánh
Tình phụ cơm trời áo cha”(6)
“ Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung” (7)
“ Bui có một lòng trung với hiếu
Mài chẳng khuyết nhuộm chẳng đen”(8)
“ Những vì chúa thánh âu đời trị
Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn
Thừa Chỉ ai rằng thời khó ngặt
Túi thơ chứa hết mọi giang san”(9)
“ Chữ học ngày xưa quên hết dạng
Chẳng quên có một chữ cương thường”(10)
Quả là Cúc Pha
tiên sinh đã thấu thị gan ruột Nguyễn Trãi.
Thế nên, khi có
thánh chỉ:
“Năm Nhâm tuất,
mùa thu, tháng tám, ngày 4, đức vua Lê Nguyên Long sau khi tuần thú miền Đông
và duyệt quân tại thành Chí Linh sẽ ghé thăm quan Thừa chỉ Hành khiển, Tư phúc
tự Côn Sơn, Nguyễn Trãi”, thì trong lòng Ức Trai vô cùng bối rối. Tại sao Hoàng
thượng lại biệt ân với Trãi này?Nếu cần Trãi thì Hoàng thượng cứ tuyên triệu về
triều, hà cớ gì hạ mình tới chốn thâm sơn cùng cốc?
Ký ức bỗng hiện
về tuổi ấu thơ xa lắc.
Hơn năm mươi năm trước, sau khi cậu bé Nguyễn
Trãi năm tuổi theo ông ngoại là quan Tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Trần
Nguyên Đán về an trí ở Côn Sơn, đã có lần đức Thượng hoàng Trần Nghệ Tông vi
hành về động Thanh Hư thăm ông ngoại, để hỏi về quốc sự.
Ngày ấy, sao quá thần tiên.
Có thể nói, mười
năm thơ ấu của Nguyễn Trãi là mười năm thần tiên. Năm năm đầu sống cùng cha mẹ
ở tư dinh quan Tư đồ tại kinh thành Thăng Long, mặc dù thỉnh thoảng phải chạy
loạn giặc Chiêm Thành, nhưng vẫn là những tháng năm sống trong nhung lụa. Rồi
năm năm ở Côn Sơn, được ông ngoại khai tâm chữ thánh hiền, chiều chiều lên
Thạch Bàn nằm nghe thông reo, suối chảy,
chim ca, vượn hót và nghe ông ngoại đọc thơ. Những ngày ấy, nhiều khi Trãi thấy
ông ngoại ngẩn ngơ buồn, nhưng cậu bé đâu hiểu được rằng trong lòng ông ngoại
đang trĩu nặng ưu tư vì việc nước, rằng ông như kẻ lực bất tòng tâm, thấy trước
sự sụp đổ của vương triều già cỗi ruỗng mọt mà không có cách
nào cứu vãn được. Bây giờ, Trãi này cũng ngoài lục thập, sắp bằng tuổi ông
ngoại. Trãi cũng trốn triều về ở ẩn. Trãi cũng bất lực. Nhưng là sự bất lực của
kẻ không giúp gì cho một vương triều mới khai sinh mà đã có mầm mống của sự
thối rữa…
Cuộc viếng thăm
Côn Sơn của Hoàng thượng lần này, không đơn thuần chỉ như cuộc thăm viếng của
Thượng hoàng Trần Nghệ Tông năm xưa. Nguyên Long cần gì ở Trãi này?Phải chăng
Hoàng thượng biết “Quốc triều Hình luật” đã soạn thảo xong và muốn được ngự
lãm?
Bao nhiêu câu
hỏi dồn dập trong đầu.
Chưa giải đáp kịp đã lại có tin mới:“Quan Lễ
nghi Học sĩ sẽ theo xa giá vua cùng về Côn Sơn”.
Rồi, một tin
khẩn cấp hơn: “Tiệp dư Ngọc Dao sắp lâm
bồn tại chùa Huy Văn. Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh có âm mưu thủ tiêu cả hai mẹ
con...”
Người mang tin
khẩn này chính là Nguyên Phong.
Nhìn chàng trai
khôi ngô tuấn tú, dáng vẻ phong sương nhưng hào hoa phong nhã, Nguyễn Trãi ngờ
ngợ, như đã gặp chàng ở đâu.
Nguyên Phong vội
quỳ xuống, đưa hai tay ngang mày:
- Dạ, con là
Trần Nguyên Phong, cháu nội của quan Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn.
Nguyễn Trãi giật
mình, nhìn quanh. Lát sau định thần lại, vội đỡ chàng trai dậy.
- Ta nhớ ra rồi.
Con là trưởng đích của Trung Khang Trần Doãn Hữu. Ta có lỗi lớn…Từ ngày ông nội
và phụ thân con mất đi…
Nguyên Phong lấy
trong búi tóc ra một cái trâm lông nhím.
- Dạ thưa Tướng
công. Xin tướng công hãy đọc lá thư này.
Ức Trai mở lá
thư bí mật viết bằng nước lá cây trên một thứ lụa cực mỏng, hơ lên ngọn bạch
lạp, lập tức nét chữ quen thuộc của Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn hiện ra:
“ Gửi sư huynh
Trần Văn,
Chắc huynh còn
nhớ Trần Võ, đứa em ngỗ ngược đã cùng huynh bôn ba đi tìm chân chúa, rồi cùng
nằm gai nếm mật cho tới ngày đại định…
Trần Nguyên
Phong, người cầm lá thư này là cháu đích tôn của Trần Võ đệ, sẽ kể cho huynh
nghe mọi chuyện…Trần Võ vẫn sống đến bây giờ không phải như loài cẩu trệ, tham
sinh úy tử, mà chỉ là ước vọng được sống tự do, sống đúng nghĩa như trời đất
ban tặng…
Mai danh ẩn
tích, xa lánh miền tục, nhưng lúc nào đệ cũng nhớ tới huynh, lo cho huynh cùng
nghĩa tỷ Nguyễn Thị Lộ. Sư huynh và nghĩa tỷ lạc lõng giữa triều đình khác nào
gà con giữa bầy quạ, thỏ non giữa hùm beo?
Sư huynh còn nhớ
lời Trần Võ đệ nói về tướng chim của Việt vương Câu Tiễn không? Rất buồn là đức
Tiên đế cũng không khác gì Câu Tiễn. Đệ đành bắt chước người xưa Phạm Lãi…
Biết tin sư
huynh dời bỏ chốn quan trường về sống ẩn dật ở Côn Sơn,Trần Võ này mừng lắm.
Hãy nhanh chóng đưa nghĩa tỷ về cùng, và nhớ đừng bao giờ trở lại nơi trướng
hùm màn sói ấy…”
Đốt lá thư trên
ngọn bạch lạp, Nguyễn Trãi vã hết mồ hôi.
Vậy là Trần
Nguyên Hãn vẫn còn sống?
Mười ba năm rồi.
Hay là Hãn đã kịp đầu thai sang một kiếp khác?
***
Suốt đêm ấy,
chàng trai Nguyên Phong đã kể cho Ức Trai nghe thiên đại bi hùng sử về ông nội
của mình.
Số là, Trần
Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chú cùng Nguyễn Trãi là nhóm người quyết phò
tá Quốc vương Tư Tề lên ngôi thái tử. Trước hội thề Đông Quan, sau Bình Định
vương Lê Lợi, thì quyền bính, thế lực cao nhất của quân Lam Sơn thuộc về ba
người là Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn, Hữu Tướng quốc Tư Tề, rồi đến Thái úy
Phạm Văn Xảo.
Hữu Tướng quốc
Lê Tư Tề, con trai trưởng của Lê Lợi văn võ song toàn, từng kinh qua chiến
trận, lập nhiều công trạng, sau chuyến cùng Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan
làm con tin để có cuộc hội thề hòa hiếu với giặc Minh, buộc Vương Thông rút
quân về nước, đã rạng danh trong ba quân là người kế vị xứng đáng khi Lê Lợi
lên ngôi Hoàng đế, tuyên với trăm họ “Bình Ngô đại cáo”.
Nhưng rồi phái
công thần Lam Sơn, đứng đầu là Lê Sát, Lê Ngân, Lê Thận, Lê Vấn, Lê Hoành, Lê
Thụ, Lê Liệt, Lê Linh, Lê Bí, Lê Xí, Lê Lăng… thấy quyền bính có nguy cơ lọt
khỏi tay phái Lam Sơn, nếu Tư Tề kế vị ngôi báu, bèn xúi đức vua lập Lê Nguyên
Long làm Hoàng Thái Tử, để thực hiện lời hứa với bà Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc
Trần.
Lê Lợi vốn là
người mê tín dị đoan, lại bị phe Lam Sơn o ép, xúi bẩy, nhất là Lê Vấn, Lê Hoành, hai người anh ruột của Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần, bèn đưa Lê Nguyên Long mới sáu tuổi lên ngôi Hoàng
Thái tử, Lê Tư Tề làm Quốc Vương giúp coi việc nước. Sau sự việc này, Tư Tề suy
sụp, lấy gái rượu làm khuây, Trần Nguyên Hãn chán nản, xin về trí sỹ ở Sơn
Đông. “Thập đạo kinh luân mao ức lý, nhân cựu trạch tử miếu”, sau mười năm
chiến tranh quay về ngôi nhà cũ.
Bọn lộng thần
không chịu dừng ở đó. Đã đánh rắn phải đánh giập đầu. Chúng sàm tấu với Lê Thái
Tổ rằng Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo, Lưu Nhân Chú… có âm mưu phò giúp Tư Tề
phản nghịch. Phạm Văn Xảo bị giết. Lưu Nhân Chú sau đó cũng bị Lê Sát bức hại.
Lê Quốc Khí và
Đinh Bang Bản theo mật lệnh của Lê Sát hùng hổ dẫn quân cấm vệ lên Sơn Đông.
Khi Trần Nguyên Hãn cùng hai bộ tướng là Bế Khắc Triệu, Nông Đắc Thái và con trai cả là Trần Doãn Hữu
bị áp giải về kinh, đi quá ngã ba
sông
Lô thì thuyền bị bọn Lê Quốc Khí sai quân lặn xuống nước đục thủng đáy. Trần
Nguyên Hãn biết đã mắc kế hiểm, bèn đứng trên mũi thuyền ngửa mặt lên trời mà
than rằng: “Tôi với Hoàng thượng cùng mưu cứu nước, cứu dân. Nay sự nghiệp lớn
đã thành, Hoàng thượng nghe lời dèm mà hại tôi, Hoàng Thiên có biết không?”
Rồi gieo mình
xuống sông, trước khi thuyền bị nhấn chìm.
Lạ thay, như có
bàn tay đỡ, như có ai dìu quan Tả Tướng quốc ngược dòng lên thượng nguồn, rồi đưa ông táp vào một bãi
sông. Tỉnh ra, Trần Nguyên Hãn biết mình đang ở đoạn Đà Giang độc bắc lưu.
Cải trang thành
một lão nông, Trần Nguyên Hãn đi mãi về nam. Ông đi qua những vùng kháng chiến
năm xưa, nơi gợi nhớ những trận Trà Lân, Bồ Đằng, Cổ Lộng… và dừng lại ở một
thung lũng tít thượng nguồn sông Khả Lam. Ông lẫn vào cỏ cây, lẫn vào đám tiều
phu, ngư phủ…
- Vậy là hiền đệ
Trần Nguyên Hãn của ta vẫn còn sống – Nguyễn Trãi bỗng kêu thầm, ngửa nhìn
trời, hai tay ôm lấy mặt, như ông muốn nhìn sâu vào ký ức để hình dung từng nét
thân thương của người em họ ngoại.
Nguyên Phong thì
thào:
- Ông nội con đã
mai danh ẩn tích đổi họ thay tên rồi. Tướng công thử đoán xem ông nội con đổi
họ gì?
Ức Trai chau mày
rồi nhìn thấu thị vào Nguyên Phong.
- Ta đoán nhé.
Ông nội con lấy họ…Đào, tên Trần Võ, đúng không?
Chàng trai không
giấu được nét con trẻ, reo lên:
- Trời ơi! Ông
nội con nói không sai. Tướng công tiên đoán như thần. Đúng là nội con đổi họ
tên là Đào Trần Võ, còn con là Đào Nguyên Phong. Riêng hai chú Trần Trung Khoản
và Trần Đăng Huy, ông nội lại bảo đổi họ Quách. Vậy là họ Trần Nguyên giờ đã
đổi thành hai họ Đào và Quách.
Giọng Ức Trai
trầm xuống:
- Ta biết cha
con, Trung Khang Trần Doãn Hữu đã mất trong thuyền… Nhưng còn hai chú con thì
sao?
- Dạ, hồi ấy con
mới bẩy tuổi. Con nhớ là lúc quan quân triều đình lên Sơn Đông, trời đã quá
chiều. Tình thế nguy cấp lắm rồi. Ông nội con bảo các bà nội và các chú hãy
chạy vào trong rừng Thần. Chú Trần Trung Khoản mang bà hai xuống thuyền theo Cống Khẩu vào Đầm Rạch. Chú
Trần Đăng Huy mang bà nội và số người còn lại
vào ao Tó, nơi ông con vẫn tập thủy quân…Riêng cha con, một mực xin được
theo hầu ông nội về triều đình. Cha con bảo, dù đức vua bắt tội chết, cha con
cũng nguyện chết theo…
Nguyễn Trãi lặng
người. Thấm thoắt đã nửa đời người. Cái ngày hai anh em Trần Văn, Trần Võ tìm
vào Lam Sơn gặp minh chủ, khi nhìn thấy Lê Lợi
ngồi thái thịt, Trần Võ đã thầm bảo với Trần Văn:“ Sư huynh có nhớ lá
thư của Phạm Lãi gửi Văn Chủng khi bỏ sang nước Tề không?” Trần Văn gật đầu và
khẽ đọc: “Phi điểu tận, lương cung tàng. Giảo thỏ tử, tẩu cẩu phanh. Việt Vương
vi nhân trường cảnh điểu uế, khả dữ cộng hoạn nạn, bất khả dữ cộng lạc.” ( Chim
bay mất hết, cung tốt được cất đi. Thỏ khôn chết, chó săn bị nấu. Việt Vương là
người cao cổ, miệng chim, chỉ có chung hoạn nạn mà không thể chung vui)…(11)
Nào ngờ…linh cảm
ấy mười năm sau đã ứng nghiệm. Trần Nguyên Hãn
biết mình oan đã không chịu chết mà quyết chí bỏ vào núi, bắt chước Phạm
Lãi, cũng lấy họ Đào. Phạm Lãi thành Đào
Chu Công, còn Trần Nguyên Hãn thành Đào Trần Võ. Chỉ tiếc rằng xưa Phạm Lãi
xuống thuyền vào Ngũ Hồ, có người đẹp Tây Thi đi theo, nay Đào Trần Võ vào Hoan
Ái chỉ có một mình…
Nguyên Phong
chợt nhận ra trong khóe mắt của Ức Trai long lanh hai giọt nước.
- Dạ, thưa Tướng
công…- Nguyên Phong muốn an ủi Ức Trai -
Chính bây giờ ông nội con lại lo cho Tướng công nhiều hơn là người lo cho ông
nội...
Nguyễn Trãi đưa
tay lên ra hiệu cho chàng trai đừng nói gì. Ông chợt nhớ tới kỳ thi Đình tháng
ba vừa rồi, kỳ thi đầu tiên của triều Hậu Lê đã chọn được 33 tiến sĩ. Đây là
thành công lớn với riêng Nguyễn Trãi khi ông quyết định chọn Nguyễn Trực để
trình đức vua tấn phong Trạng nguyên với bài văn sách khoáng đạt mà hào sảng,
vu khoát mà thâm thúy, bàn về quân tử và tiểu nhân, về kế sách tiến cử hiền tài…
Nhưng đó là niềm
vui không trọn vẹn. Bởi Ức Trai luôn canh cánh một nỗi buồn vì sự hèn kém của
kẻ sĩ. Làm chánh chủ khảo mà ông không dám can vua hãy sửa lại đề sách vấn do
bọn cận thần hắc tâm sàm tấu. Đề sách vấn của nhà vua có đoạn lên án Phạm Văn
Xảo và Trần Nguyên Hãn, thế này:
“… Đức Thái tổ Cao Hoàng đế ta lấy được thiên
hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển, trong khi
ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng
sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mờ thăm thẳm, bọn Ngân bọn Sát
lại gian ngoan chúa ác. Sao người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như
vậy?…”(12)
Mười ba năm rồi.
Trắng đen đã rõ cả rồi. Chính đức Lê Thái Tổ trước lúc lâm chung đã rất hối hận
vì nghe lời sàm tấu của bè lũ năm tên Lê Quốc Khí, Đinh Băng Bản, Nguyễn Tông
Chi, Lê Đức Dư, Trịnh Bá Hoành, do Lê Sát giật dây mà giết nhầm Phạm Văn Xảo,
Trần Nguyên Hãn. Nhà vua đã biết tội bè lũ năm tên và đuổi chúng đi. Sau đó, Lê
Nguyên Long đã nhận ra dã tâm của bọn Sát, bọn Ngân mà giết đi…Vậy hà cớ gì,
trong đề thi tuyển chọn người tài Hoàng thượng Nguyên Long lại nhắc lại chuyện
cũ? Và Trãi này, người anh em chí cốt
của Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, với cương vị Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Quốc
tử giám, Chánh chủ khảo kỳ thi, lại không
nói được một câu minh oan cho hai người, không dám khuyên can nhà vua sửa lại
đề sách vấn cho hợp đạo lý, cho thỏa hương hồn người đã khuất. Hóa ra Trãi này
cũng chỉ là kẻ cầu an, bảo mạng, phường giá áo túi cơm, thấy đồng bọn oan mà
không dám kêu giúp, thấy trái đạo mà không dám sửa. Ôi,Trãi này còn kém xa quan
Ngự sử đài Phan Thiên Tước dám dâng sớ sáu điều đàn hặc bọn Lê Thụ và can gián
đức vua…
Nguyên Phong làm
sao hiểu nổi trong lòng Ức Trai vừa dội lên niềm xót xa ân hận và sự tự xỉ?
Chàng chợt hỏi Ức Trai:
- Dạ thưa Tướng
công. Người có tin rằng ông nội con được thủy thần cứu giúp không ạ?
Nguyễn Trãi nói:
- Ngay từ ngày
ta với ông nội con vào Lam Sơn đầu quân theo Lê Lợi, chúng ta đã được quan hà
bá phù trợ. Chính ông nội con đã nghĩ ra cách dùng mỡ viết lên lá cây dòng chữ
“Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thần” cho kiến đục thủng rồi thả xuống sông,
nhằm làm cho dân chúng tin rằng Lê Lợi đã được trời giúp đánh đuổi giặc Minh.
Nhiều phen chúng ta bị rớt xuống sông, bị nước cuốn, vậy mà lần nào cũng được
cứu sống…
Nguyên Phong
nói:
- Con thì lại
nghĩ, chính tài bơi lội đã cứu ông nội con thoát chết khi thuyền bị đục thủng
và ông nội con biết trước, nên đã nhảy xuống nước. Ông nội con bảo, cả vùng quê
Sơn Đông bên dòng sông Lô, ai cũng có tài bơi lội, đặc biệt là bơi chó, tức là
bơi đứng. Bơi cả ngày không biết mệt. Người trên bờ không biết có người đang
bơi đứng dưới sông. Khi ông nội Trần Nguyên Hãn từ mũi thuyền nhảy xuống, bọn
quan quân triều đình tưởng ông bị chết chìm dưới đáy sông, kỳ thực, ông đã lặn
một hơi ngược lên thượng nguồn, rồi ngược lên ngã ba Bạch Hạc, rẽ ngang Đà
Giang…Thưa Tướng công, ông nội Đào Trần Võ sai con mang thư này trao tận tay
Tướng công và giao trọng trách cho con phải bằng mọi giá bảo vệ Tướng công…
- Đừng lo cho
ta... Ta biết con đã được thụ giáo ông nội các môn võ nghệ cao cường, đủ sức
địch muôn người, như ngày xưa ông nội từng tả xung hữu đột giữa ngàn vạn quân
Minh. Ta biết , ông nọi con rất lo cho ta - Nguyễn Trãi nói và lại nhớ đến lời
dặn của Trần Võ: “Nhớ đừng bao giờ trở lại nơi trướng hùm màn sói ấy”- Bây giờ
con hãy giúp ta một việc.
- Dạ, Tướng công
cũng như ông nội con. Con sẽ làm mọi việc Người giao.
Nguyễn Trãi trao
cho Nguyên Phong hai lá thư đã viết sẵn:
- Đây là thư ta
viết cho quan Lễ nghi Học sĩ. Còn đây là thư cho Nguyễn Khuê, con trai trưởng
của ta. Con phải trao tận tay hai lá thư này. Họ sẽ làm theo điều ta dặn.Việc
gấp lắm rồi. Tiệp dư Ngọc Dao sắp lâm bồn và Đức vua cũng sắp xa giá xuống đây.
Con đi ngay đi, không thể chậm trễ.
Nguyên Phong quỳ
lạy nhận thư. Chàng nói:
- Tướng công hãy
tin ở con. Chắc Tướng công còn nhớ tài luyện chim đưa thư của ông nội con?Con
đã được ông nội truyền dạy bí quyết này.
Nói rồi Nguyên
Phong ngước nhìn về phía núi, đưa hai tay vỗ năm tiếng. Lập tức, từ đâu đó phía
đỉnh Yên Tử, một chấm nhỏ hiện lên giữa vầng mây. Chấm nhỏ lớn dần, đảo những
vòng hẹp dần, hiện ra một cánh chim câu. Rồi con thư điểu lượn một vòng nhỏ và
sà xuống, đậu trên vai chàng.
Ức Trai vuốt ve
con chim nhỏ, lòng bồi hồi nhớ Trần Nguyên Hãn da diết.
Nguyên Phong lấy
trong tay áo chút thức ăn cho con chim câu, giọng âu yếm:
- Thư điểu, đây
là ông nội của ta. Ngày mai chim sẽ đưa thư tới người cho ta, chim nhé.
Rồi Nguyên Phong và con chim nhỏ giã biệt Ức
Trai trở về Thăng Long.
***
Con chim câu của Nguyên Phong mang tin đến kia
rồi.
Ức Trai nhìn lên bầu trời. Một cánh chim đang
lượn vòng tít trên tầng mây. Mỗi lúc vòng lượn thêm nhỏ lại. Ức Trai xòe tay,
con chim nhỏ cổ đeo cườm, mắt đen tròn, chân buộc lạp thư, sà xuống.
- Cám ơn thư
điểu – Nguyễn Trãi vuốt nhẹ lên mình chim rồi lấy bức lạp thư, mở ra đọc.
“Thiếp Nguyễn
Thị Lộ kính trình Tướng công.
Mọi việc đều
diễn ra đúng như Tướng công trù liệu. Sư thầy Thích Chân Như cùng Chân Tín, Cả
Khuê, Nguyên Phong, Tiểu Mai… đã cùng
thiếp hoàn tất mọi việc. Tiệp dư Ngô Thị
Ngọc Dao đã sinh Hoàng nhi. Hoàng thượng đã ban tên chữ Lê Tư Thành cho Ấu
vương và bố cáo với trăm họ. Tiệp dư và Hoàng nhi đang trên đường ra An Bang
như kế sách của Tướng công. Thiếp không đi theo hầu xa giá. Hoàng thượng muốn
thiếp về với Tướng công trước để Tướng công yên lòng…”
Ức Trai nhìn lên
bầu trời, nơi bóng con điểu thư chỉ còn là một chấm nhỏ rồi mất hút. Ông thầm
cảm tạ trời đất đã phù hộ cho Tiệp dư và Hoàng tử. Chà, đức vua đã đặt cho
Hoàng tử một cái tên quá đẹp: Lê Tư Thành. Mà sao nàng lại gọi là Ấu vương?
Nàng đã tiên cảm được tương lai của hoàng tử rồi sao? Vậy là chỉ đêm nay,Tiệp
dư và hoàng tử Lê Tư Thành sẽ ra tới An Bang, nơi mà quan An phủ sứ Nguyễn Nhật
Thăng, bạn của Trãi này đã trù liệu mọi bề. Hoàng hậu Nguyễn Thị Anh dù có ba
đầu sáu tay cũng không thể hãm hại Tiệp dư và Ấu vương được nữa.
Thời gian còn
lại, Ức Trai tưởng như mình đang trong cõi mộng du. Ông thấy mình như trôi về
những ngày tự giam cầm ở góc thành nam. “ Góc thành nam, lều một căn. No nước
uống thiếu cơm ăn”…Đó là những ngày bế tắc nhất của đời ông. Nếu không gặp nàng
bán chiếu bên hồ Tây chiều ấy, đời ông sẽ ra sao?Trời ơi, nàng thông thái mà bí
ẩn, trẻ trung mà sâu sắc, duyên dáng mà tinh nghịch. “ Xuân xanh chừng độ trăng
tròn lẻ. Chồng còn chưa có, hỏi chi con?” Thơ ứng tác mà uyên thâm, bác học.
Nàng làm ta say từ phút gặp ban đầu. Không có nàng, có lẽ ta không đi nổi con
đường vào xứ Thanh, không đủ sức vượt qua những ngày nằm gai nếm mật: “ Khi
Linh Sơn lương hết mấy tuần. Lúc Khôi Huyện quân không một lữ…” Và những ngày
mũ áo xênh xang, vênh váo công thần, nhưng
ta cô đơn biết bao, nếu không có nàng ở bên. Nàng không sợ đầu rơi máu chảy,
quyết quì trước điện rồng kêu oan cho ta khi đức Vua hạ ngục ta vì nghi ta cùng mưu phản với Trần Nguyên Hãn và Phạm
Văn Xảo. Nàng không chỉ hội tụ tứ đức công dung ngôn hạnh mà còn hơn cả bậc anh
hùng liệt nữ.
Những
ngày ở Côn Sơn với Ức Trai dài như cả đời người. Bởi không có nàng bên cạnh.
Người ta đồn từ ngày nàng được phong chức Lễ nghi Học sĩ, được hằng ngày ra vào
cung cấm, được đức vua sủng ái, nàng đã có ý khác.
Có phải vậy không?
Nếu không có ý khác thì tại sao nàng lại sốt
sắng tìm nàng Mẫn cho ta để đưa về Côn Sơn, trong khi bà hai Nhạn, lại ra sức
cản phá? Không còn yêu Trãi này nữa nên nàng mới tìm người khác thay thế mình?
Nàng mượn cớ ta ở Côn Sơn không thể không có người chăm bẵm giấc hòe, sớm khuya
cơm nước, trong khi nàng phải hầu vua ở Thăng Long. “ Tướng công không nghe
thiếp, thiếp buộc phải xin đức vua theo
Tướng công về Côn Sơn cùng người” – Nàng giận dỗi bảo vậy. Ta nói với nàng:“Thì
ta ở một mình có sao đâu. Nàng đừng vì ta mà trái lệnh Hoàng thượng”. Nàng lại
bảo:“ Nhưng Tướng công phải đưa nàng Mẫn
đi theo. Nàng Mẫn là người bên họ vợ chú Nguyễn Thư. Thiếp phải thân hành vào Cổ Họach thỉnh ý chú. Sểnh cha còn chú mà. Chú Nguyễn
Thư bảo: “Từ ngày sư huynh Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt sang Tàu, mọi việc
trong họ chú đều hỏi ý trưởng đích Ức Trai. Quan Nhập nội Hành khiển bây giờ là
nguyên khí quốc gia chứ không còn là của riêng dòng họ Nguyễn nhà ta, cho nên
tìm cho quan Thừa Chỉ một người hầu thiếp thì không ai bằng Phạm Thị Mẫn.”Lý lẽ
của nàng, Trãi này không thể bẻ được.
Nhắc
đến chú Nguyễn Thư, lòng Ức Trai lại day dứt như người có lỗi. Lâu lắm rồi, có
dễ dến hai năm, ông không về trang Cổ Hoạch, tức Canh Hoạch, vùng đất có tên
nôm là làng Vác, để thăm ông già chú ruột của mình.
Số là, dòng họ
Nguyễn Trãi vốn gốc ở làng Chi Ngãi, Chí Linh. Nhà nghèo, nhưng không muốn các
con thất học, ông nội Nguyễn Trãi quyết định dời nhà về làng Nhị Khê huyện
Thượng Phúc, vừa làm nghề dạy học, vừa bốc thuốc để nuôi ba con trai là Nguyễn
Sùng, Nguyễn Ứng Long và Nguyễn Thư ăn học. Nguyễn Ứng Long được mời làm gia sư
cho nhà quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dạy cô con gái lớn Trần Thị Thái. Rồi hai
người yêu nhau, có mang Nguyễn Trãi. Quan Tư đồ quí tài Nguyễn Ứng Long, gả con
gái lớn cho, lại giúp cho học tiếp, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi
Khanh, ứng thí, đỗ Thái học sinh năm Xương Phù thứ 8 (1384). Nhưng vua Trần vốn
cổ hủ, chê Phi Khanh con thường dân mà dám lấy quận chúa, không bổ dụng. Phải
tới triều Hồ, ông mới được mời làm quan, chức Trung thư Thị lang, Tư nghiệp
Quốc tử giám.
Thời
gian ấy, Nguyễn Thư lấy vợ, rồi lập nghiệp ở làng Canh Hoạch, Thanh Oai. Làng
Nhị Khê cách làng Canh Hoạch mấy cánh đồng, đi chừng nửa buổi đường. Đường vào
Nhị Khê có ngã ba Quán Gánh với bánh dày Quán Gánh nổi tiếng. Đường về Canh
Hoạch có ngã tư Vác. Hai anh em, người ở Gánh, người ở Vác. Anh Gánh em Vác,
phù giúp nhau,làm rạng danh dòng họ Nguyễn Chi Ngãi.(13)
Lại
nói về cuộc tình duyên éo le giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ ngày Nguyễn Trãi
bị giam lỏng ở thành Đông Quan. Khi ấy, nếu không có ông chú ruột ở làng Vác chắc cũng khó thành. Bà Lộ coi cụ
đồ Nguyễn Thư như nghĩa phụ, có việc gì cũng đến thỉnh giáo. Việc Nguyễn Trãi
về Côn Sơn một mình, khiến bà Lộ canh cánh không yên. Ý định chọn một người
thiếp cho Nguyễn Trãi khiến bà tức tốc vào Canh Hoạch thỉnh giáo ông chú ruột.
Nào ngờ ông già còn sốt sắng hơn. Cụ mở sách tử vi tính toán một hồi lâu rồi vã hết mồ
hôi, lắc đầu bảo:
- Quan Hành
Khiển không thể ở Côn Sơn một mình. Tuổi Canh Thân, năm Tuất có các sao Kiếp
sát, Đà la, Thiên hình, Phục binh, Phá quân đóng ở cung Mệnh; Tang môn, Cự môn,
Đẩu quân, Lưu hà ở cung Thân, lại có Địa không, Kình dương, Thái tuế, Thiên hư,
Thiên khốc xung chiếu; Tuần, Triệt ở cung Nô, cung Phúc. Đại hiểm họa. Chỉ có người
tuổi Nhâm Thìn may ra mới giúp được phần
nào...
Bà Lộ nói:
- Quan Nhập nội
Thái bảo Bùi Quốc Hưng bấm quẻ, cũng nói năm Tuất, Ức Trai gặp sao Thái Bạch,
La hầu…Xin nghĩa phụ tìm giúp Tướng công con một người tuổi Nhâm Thìn, để gánh
đỡ…
Cụ đồ Nguyễn Thư
trầm ngâm một hồi, rồi bỗng à lên:
- Chỉ có người
này mới cứu giúp được quan Hành Khiển. Ta nhớ ra rồi. Nàng Phạm Thị Mẫn, tuổi
Nhâm Thìn, con gái ông Cử Nhuần ở Thụy Phú, Phú Xuyên. Đẹp người đẹp nết. Chỉ
phải khí đứng tuổi… Nhưng thế mới tam hợp. Nàng Mẫn mà về Côn Sơn với Ức Trai
thì vẹn cả đôi đường. Để ta đánh tiếng với ông bà Cử Nhuần xem sao…
Đích thân cụ Đồ
Thư sai bà Lộ sửa lễ, rồi cụ dẫn bà xuống Thụy Phú, thưa chuyện với ông bà Cử
Nhuần. Chạm mặt nàng Mẫn, bà Lộ ưng ngay. Người như thế mới giúp bà yên tâm
phần nào khi Ức Trai về ẩn dật ở Côn Sơn.
Cuộc
nhân duyên với nàng Phạm Thị Mẫn, thực ra là cuộc sắp đặt của quan Lễ nghi Học
sĩ - Ức Trai thường tâm niệm như vậy. Hay nói đúng hơn nàng Lộ đã thay tạo hóa
tác thành cho Trãi này. Càng ngẫm, Ức Trai càng thấy tình yêu của nàng đã vượt
mọi tầm cỡ của giới đàn bà. Nàng Phạm Thị Mẫn
bằng tuổi con gái lớn Nguyễn Thị Trà của ta. Thực tình thì Trãi này rất ngại. Nhưng nàng ép quá, ta đành ưng
thuận. Sống với nàng Mẫn ở Côn Sơn, nhưng ta không thể nguôi quên nàng.
“ Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng
Thu đến đêm qua cảm vả mừng
Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt
Khoan khoan những lệ ác tan vừng…”(14)
Nàng muốn ta thay nàng bằng nàng Mẫn. Ta sống
hằng ngày với nàng Mẫn để dần quên nàng. Nàng ác với ta quá. Nhưng càng xa
nàng, ta càng không thể. Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng…Tiếc lắm. Xa nàng
nhưng có ngày nào Trãi này nguôi
quên
nàng. Thảng hoặc có tin từ kinh về, mách nàng được vua Nguyên Long sủng ái, ta
thấy mừng mà lại thấy lo. Lại có kẻ giả chữ giám quan Đinh Phúc, Đinh Thắng
viết cho ta nói nàng Lộ …đã khác. Lừa được Trãi này đâu phải dễ, nhìn chữ là
biết chân, giả . Lại có người bóng gió: Ta “phá chấp tòng quyền” dám để vợ ở
bên vua, để trục lợi. Đau lắm chứ. Bọn người ấy chỉ nghĩ gần mà không nghĩ xa.
Ta đâu“phá chấp tòng quyền” bằng mọi giá, mà là “tuỳ thời phá chấp”. Bởi ta dám
nghĩ đến cả việc giáo hoá ông vua trẻ. Đã có hồi bọn lão thần chúng ta, những
Nguyễn Mộng Tuân cùng Phan Thiên Tước, Nguyễn Thiên Tích, Lý Tử Tấn… vào kinh
diên đánh vật với chữ nghĩa mà vua có nghe đâu? Chỉ có nàng Lộ mới giảng sách
được cho vua, mới cảm hoá nổi một thiếu quân hung hăng thành một minh quân
khoan từ. Cho nên ta chấp nhận chịu tai tiếng với đời, để chăm lo cho quốc sự…
- Dạ
thưa Tướng công…
Có
tiếng của nàng Mẫn phía sau khiến Ức Trai giật mình quay lại.
- Dạ
thưa …Thuyền của quan bà từ kinh sư đang về.
Ức
Trai thảng thốt hỏi lại:
-
Quan Lễ nghi Học sĩ đến bến thuyền rồi chăng?
-
Dạ, thiếp đã nói người nhà làm cơm đãi quan bà và anh Cả Khuê cùng mọi người…
- Cả
Khuê và Nguyên Phong còn ra An Bang.. Có lẽ chỉ mình nàng Lộ về thôi…
Ức
Trai lập cập dời thư phòng. Rồi ông đứng sững, nhìn người thiếp hồi lâu. Gương mặt nàng Mẫn tái nhợt, nhịp thở gấp
gáp, nơi yết hầu phập phồng.
-
Sao nàng thở gấp vậy? Hình như nàng đã…?
-
Dạ…Không sao đâu... Chỉ vì thiếp mừng khi thấy quan bà về với Tướng công.
-
Vậy ư? Nàng đừng gọi là quan bà. Xa cách lắm. Hãy gọi là chị Lộ- Ức Trai cười
sảng khoái – Ta cũng mong như nàng. Vậy thì chúng ta cùng ra bến thuyền nhé.
***
Bây
giờ nói về quan Lễ nghi Học sĩ.
Sau
khi chia tay mẹ con Tiệp dư Ngọc Dao ở
cửa Lục Đầu, thuyền bà Lộ không về Côn Sơn ngay mà rẽ xuống vùng Trần triều hải
khẩu, qua Mỹ Xá, ghé lò gốm Chu Trang.
Số
là, lò gốm Chu Trang của ông Đặng Sỹ mới hình thành hơn chục năm nay, nhưng đã
tạo nên thương hiệu gốm Chu Đậu với chất men lam nổi tiếng khắp lộ Nam Sách,
sánh ngang với gốm sứ Bát Tràng vốn đã vang danh từ lâu. Người ta bảo rằng gốm
Chu Trang là loại sản vật độc nhất vô nhị vì nó được làm bằng nước thiêng Lục Đầu,
lửa thiêng Nam Sách và đất thiêng Chu Đậu.
Ngày xây cất lò gốm mới Chu Trang, chủ
nhân là Đặng Sỹ đã thân lên kinh đô rước quan Thái bảo Bùi Quốc Hưng rồi sang
Côn Sơn rước quan Thừa chỉ Nguyễn Trãi về khai lễ. Ghé thăm lò gốm lần này, ý
quan Lễ nghi Học sĩ muốn Ức Trai dành cho cuộc tiếp đón đức vua sắp tới những
món quà độc đáo bất ngờ.
Cuộc
hội ngộ giữa Ức Trai và quan Lễ nghi Học sĩ, ban đầu có vẻ quan cách, khách sáo
và giả tạo. Giữa đông người, họ như che giấu mình đi. Chỉ riêng nàng Mẫn là
nhận ra cái lõi của mối duyên ngầm giữa hai người. Có một thoáng, ánh mắt họ
gặp nhau. Nàng Mẫn rùng mình, tưởng như vừa mất đi tất cả. Hai ánh mắt họ như
hai dòng ánh sáng quấn bện vào nhau, hút lấy nhau. Họ như trẻ lại thời mười
tám, đôi mươi. Từ ngày về hầu hạ Tướng công, nàng Mẫn chưa từng thấy ánh mắt ấy
giành cho mình bao giờ.
Đêm
ấy,Côn Sơn có mưa.
Cuộc
gặp gỡ giữa Ức Trai và người tình muôn thuở Nguyễn Thị Lộ cảm động đến đất
trời, khiến Ngưu Lang, Chức Nữ lại tái hồi để tuôn mưa xuống hạ giới chăng?
Phải
đến lúc chỉ có hai người trong khuê phòng, bà Lộ mới nằm gọn trong vòng tay Ức
Trai mà thổn thức. Bao nhiêu thương nhớ, giận hờn, âu yếm dồn tích lại. Tưởng
như họ trở lại thuở làng Mai, hàn vi mà căng tràn sức trẻ. Sao chàng lại gửi
cho thiếp bài thơ xé ruột xé gan như thế: “Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng. Đầm
ấm thì thương kẻ lạnh lùng…” Chàng giễu nhại thiếp, hắt hủi thiếp, cho rằng
thiếp đã là khách lầu hồng sao? Đầm ấm gì nào?Hằng ngày giữa nơi hậu cung,
khoác chiếc áo Lễ nghi Học sĩ khác nào sống giữa muôn ngàn lưỡi đao, ngọn giáo,
giữa trăm nghìn ánh mắt ghẻ lạnh soi mói giết người không gươm. Hoàng hậu độc
địa, thâm hiểm, nanh ác như hổ cái rình mồi. Đám phi tần thì lăng loàn vô học.
Bọn thị nữ thì tham lam, lười biếng. Lũ hoạn quan như cú vọ, hồ ly. Cánh Lam
Sơn hội kéo bè kéo đảng như hùm beo cẩu trệ, khiến kẻ sĩ ngán ngẩm, người ngảnh
mặt làm ngơ, người tìm cách co mình sống yên thân. Còn Hoàng thượng thì không
ra trẻ con, chẳng ra người lớn. Mới mười chín tuổi đã có tới sáu vợ, và mấy
chục cung tần…Ấy đừng, nàng không được phạm thượng như vậy. Đức vua là Thiên
tử, con Trời… Thiếp chỉ nói riêng với chàng thôi. Trước kia thiếp thất vọng về
đức vua mười phần, thì nay chỉ còn hai ba phần. Mừng nhất là Hoàng thượng đã
không còn nghe lời xúi bẩy của Thị Anh trong việc đuổi Tiệp dư ra khỏi chùa Huy
Văn. Thế nên thiếp đã hoàn thành bổn phận mà Tướng công và quan Thái bảo Ngô Từ
ủy thác. Chàng biết không? Hoàng tử Tư Thành sinh ra trên trán đã có dấu ấn của
con Trời… Ta biết, đây không phải là một người thường. Rồi người này sẽ làm
rạng danh nước Việt, làm cho triều Lê ta hiển hách … Tiếc rằng ta không có
duyên nghiệp với người…
Tiếng
thở dài của Ức Trai khiến nàng Lộ giật mình. Nàng đang mơ màng phiêu du. Nàng
thấy mình đang cùng Ức Trai dong thuyền ra An Bang để thăm mẹ con Tiệp dư Ngọc
Dao.
“ Sóc
phong xuy hải khí lăng lăng.
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc.
Qua
trầm kích chiết ngạn tằng tằng…”
( Biển rung gió bấc thổi băng băng.
Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng.
Kình ngạc băm vằm non mấy khúc.
Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng…)(15)
Bài thơ ấy Tướng công làm trong chuyến đi
duyệt thủy quân cùng tướng quân Nguyễn Nhật Thăng năm nào, thiếp vẫn thuộc.
Kìa, sao Tướng công lại thở dài?Chuyến này đức vua thân hành xuống mời Tướng
công về triều, chắc chàng không thể thoái thác. Thú thật với chàng, chính thiếp
cũng không thể ngờ Hoàng thượng lại trưởng thành nhanh đến vậy. Từ sau ngày
Hoàng thượng thân chinh đi dẹp quân man ở châu Phục Lễ ngài đã có dáng dấp của
một đấng quân vương…Dáng dấp thôi ư? Thế thì sao nàng lại khuyên ta bỏ Côn Sơn
về triều? Vì sao ư?Chàng không nhớ câu ngạn ngữ : Uốn tre đừng đợi tre già, đó
sao?Đất nước chỉ hưng thịnh khi có một ông vua anh minh sáng láng, biết sử dụng người hiền tài, biết chăm lo cho muôn dân trăm họ. Lê
Nguyên Long sớm mồ côi mẹ, nên được đức Tiên đế nuông chiều, tựa như một cây
con trồng dưới bóng rợp, dễ bị cớm, bị èo uột, bị sâu bệnh. Nhưng trong con
người đó có khí chất bậc quân vương. Muốn đất nước có một vị vua anh minh sáng
láng cần có nhiều người tài phò giúp. Mà người tài nhất, cần cho xã tắc nhất
lúc này là chàng…
Ức
Trai trở mình, ôm gọn tấm thân nóng ấm thơm phức mùi thanh hao, thứ lá thơm Côn
Sơn mà lần nào về nàng cũng xông tắm. Ông cảm nhận hết những đường cong tuyệt
vời của nàng vẫn mềm mại, nồng nàn như thuở nào.
Đức
vua sai nàng về thuyết phục ta ư?- Ức Trai tinh nghịch chà sát chòm râu bạc vào
má nàng - Ta không dám trái mệnh vua, nhưng trong lòng ta đã nguội lạnh. Bao
hoài bão xây dựng một đất nước mà trăm họ sống thanh bình, xóm thôn âu ca, gia
đình hòa thuận…còn quá xa vời. Mới mười lăm năm sau bao chiến công hiển hách,
mà triều chính đã suy vi, vua nghi tôi, em giết anh, vợ lừa chồng; lộng thần,
kiêu binh coi phận người như cỏ rác. Đám kẻ sĩ thì như gà phải cáo, kẻ uốn
mình, múa mép cầu vinh, người mũ ni che tai quay lưng bảo mạng…Trãi này, kẻ
trói gà không nổi, chỉ biết mang chút học vấn tầm thường ra giúp nước, mang
lòng trung để phò vua. Nhưng tìm đâu ra vua sáng, chúa minh? Đành như Bá Di,
Thúc Tề trốn vào núi Thú Dương để khỏi phải ăn thóc nhà Chu.
Côn Sơn với ta cũng như núi Thú Dương vậy. Thông, trúc, cỏ cây, nước suối đủ
nuôi ta để không vướng bụi trần. Nàng dọa, nếu ta không hồi triều thì nàng sẽ
xin huyền chức Lễ nghi Học sĩ. Thì chiều nàng, ta sẽ về. Vào ngày 22 tháng tám
tới, là ngày kị nhật đức Tiên đế Lê Thái
Tổ. Ta sẽ mang bộ “Quôc triều Hình luật” về dâng Tiên đế và đức Vua, rồi ta xin
đức vua cho tấm thân già này về lại Côn Sơn…“ Vấn quan hà bất quy khứ lai? Bán
sinh trần thổ trường giao cốc?” Câu hỏi ấy luôn xoáy trong đầu ta, nàng biết không?
Vậy thì đừng ngủ vội nhé. Ta mới làm bài “Côn Sơn ca”. Để ta đọc nàng nghe:
Côn Sơn hữu tuyền
Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch
Nham trung hữu tùng
Vạn lí thúy đồng đồng
Ngô ư thị hồ yến tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc
Thiên mẫu ẩn hàn lục
Ngô ư thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc…
(
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta
nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn
Sơn có đá rêu phơi
Ta
ngồi trên đá như ngồi đệm êm
Trong
ghềnh thông mọc như nêm
Tìm
nơi bóng mát ta lên ta nằm
Trong
rừng có bóng trúc râm
Dưới
màu xanh ngát ta ngâm thơ nhàn…)
Tiếng nàng Lộ
thở đều đều. Ta chưa đọc hết “Côn Sơn ca”mà nàng đã ngủ rồi ư? Không biết vì
thơ của ta dở quá, hay ngoài kia mưa tí tách trên mái lá, tiếng suối chảy róc
rách, tiếng thông reo, tiếng nai tác rừng xa... đã ru nàng? Ôi, hèn chi nàng
trẻ lâu đến vậy. Nàng thật vô tư, vô lo vô nghĩ. Mà thôi, ta cứ đọc tiếp. Cho chính ta nghe:
Vấn quân hà bất
quy khứ lai
Bán sinh trần thổ trường giao cốc
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên
Ẩm thủy phạm sơ tùy phận túc…
( Về
đi sao chẳng sớm toan
Nửa
đời vướng bụi trần hoàn làm chi?
Muôn
chung chín vạc làm gì?
Cơm
rau nước lã nên tùy phận thôi…)(16)
Bên
ngực Nguyễn Trãi bỗng rung nhẹ. Nàng Lộ bật khóc.
Chao ôi, thì ra nàng chưa hề ngủ. Sao ta lại đọc thơ vào lúc này nhỉ? Người như
nàng, nghe thơ ấy, sao mà ngủ được?
Nguyễn Trãi xoay
người, nàng Lộ choàng tay ôm riết lấy ông. Nước mắt nàng ướt cả chòm râu ông.
Thôi nào,nín đi, ngủ đi…
Nhưng kìa, sao có
tiếng thổn thức ở đâu nữa?
Ai?
Ức
Trai lắng tai, rồi chợt lạnh người. Phòng bên, nàng Mẫn đang dỗi hờn với nàng
Lộ. Mẫn đang thút thít khóc.Thì ra những người đàn bà họ thường rất biết rõ về
nhau. Lúc nửa đêm, nàng Lộ khuyên ta về phòng với nàng Mẫn: “Dì Mẫn có thai rồi đấy. Vậy là chú
Đồ Thư đã tiên đoán không sai. Con người tuổi Nhâm thìn này sẽ gánh hết vận hạn
cho họ Nguyễn nhà ta. Nàng Mẫn sẽ sinh cho Tướng công một quí tử”.
Trãi
này thấy xấu hổ với nàng. Tuổi ngoại lục thập mà còn sinh con ư? Nàng Lộ
bảo:“Chàng không nhớ tích Lão Bạng sinh châu sao? Tuổi như chàng sinh quí tử là
đại phúc.”
Ôi, nàng khéo tìm cách an ủi ta. Nàng Lộ ơi,
ta có tội với nàng. Bao nhiêu năm ta khao khát có một đứa con với nàng. Mà
không thể!
Chú
thích
(1)
Sách Luận ngữ: “Tử Kinh thiện cư thất” ( Công tử Kinh người nước Vệ khéo làm
nhà ở).
(2) Tam quán: Chiêu văn quán, Tập hiền
viện, Sử quán, ba chức mà Nguyễn Trãi kiêm.
(3)Theo Website Nguyễn Xuân tộc phả.
(4) Ngôn chính thi – 3-
Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi.
( 5) Ngôn chính thi -2) Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi.
(6) Ngôn chính thi -7- Quốc
âm thi tập - Nguyễn Trãi.
(7) Thuật hứng -23- Quốc âm thi
tập - Nguyễn Trãi.
(8)Thuật hứng-24- Quốc âm thi tập - Nguyễn
Trãi.
(9) Tự thán -2- Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi.
(10) Tự thán – 12- Quốc âm thi tập - Nguyễn
Trãi.
(11) Sử ký Tư Mã Thiên.
(12) Văn sách thi Đình của trạng
nguyên Nguyễn Trực.
(13)Theo gia phả họ Nguyến Canh
Hoạch, Thanh Oai, Hà Nội. Chi họ Nguyễn này đến vụ án Lệ Chi viên, phải đổi thành
họ Phạm để tránh họa tru di. Sau có hai người đỗ Tiến sĩ là Phạm Bá Ký, tức
Nguyễn Bá Ký, Tiến sĩ khoa Quý mùi, Quang Thuận thứ 4, 1463 và cháu nội là
Nguyễn Khuông Lễ, Tiến sĩ Ất Mùi, Đại Chính thứ 6, 1535. Hai người đỗ trạng
nguyên là Nguyễn Đức Lượng( con Nguyễn Bá Ký, bố Nguyễn Khuông Lễ), trạng
nguyên năm Giáp Tuất, Hồng Thuận thứ 6, đời Lê Tương Dực,1514 và Nguyễn Thiến,
trạng nguyên năm 1532, triều Mạc Đăng Doanh. Trạng nguyên Nguyễn Thiến, chính
là tổ phụ dòng họ Nguyễn Tiên Điền, Hà Tĩnh, sản sinh đại thi hào Nguyễn Du.
(14) Tích thị cảnh –
1. Quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi.
(15) Phan Võ, Lê
Thước, Đào Phương Bình dịch (NB Văn Hoá - Viện Văn học, Hà Nội -1962.
(16) Côn Sơn ca- Ức Trai thi tập. Phan Võ, Lê
Thước, Đào Phương Bình dịch. NB Văn Hoá- Viện Văn học, Hà Nội, 1962..
(Xem tiếp chương 10 kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét