Nhãn

Chủ Nhật, 8 tháng 4, 2012

Giới thiệu tuyển tập Nguyễn Đào Trường

Giới thiệu tuyển tập Nguyễn Đào Trường

Đào Thái Văn

C
uối tháng 2 năm 2012, nhà thơ Nguyễn Đào Trường, hội viên Hội VHNT Hải Dương, vừa ra mắt tập sách "Lũ bến Hàn Giang" dày 360 trang, giấy đẹp, bìa cứng, khổ 14,5x 20,5, do NXB Hội Nhà văn ấn hành. Đây được xem như một tuyển tập Nguyễn Đào Trường gồm những tác phẩm thơ, văn xuôi, dịch thuật và tạp văn được ông sáng tác trong thời gian từ những năm tám mươi của thế kỷ XX đến nay.
Nguyễn Đào trường tuổi Ất Hợi (1935, đã ở tuổi 78) tại Nhân Kiệt, Hùng Thắng, Bình Giang, Hải Dương, là hậu duệ đời thứ chín Chuẩn Quận công Nguyễn Đức Nhuận, từng có huân công với triều Lê Trung hưng (hiện tại khu lăng mộ hoành tráng của cụ vẫn còn tại thôn Đạo Khê, xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Nguyễn Đào trường là viên chức ngành đường sắt hồi hưu, CCB Quân đội Nhân dân Việt Nam, hiện đang cư trú tại 65 Đinh Văn Tả, thành phố Hải Dương.
          Phần thơ của tuyển tập "Lũ bến Hàn Giang" được chia thành các mục: "Thơ lục bát", 65 bài, gồm cả 7 bài "Giải đố Kiều" dự thi chương trình"Tìm trong kho báu" của Đài Tiếng nói Vịệt Nam năm 2009. Ở mục "Lục bát" Nguyễn Đào Trường có không ít bài gây ấn tượng với người đọc mà một trong số đó phải kể đến bài:

Ăn xương thương trâu

 "Vua là tượng gỗ dân là thân trâu"

Trời ơi! Xương xẩu thế này!
Hùa nhau bóc gặm bát đầy bất vơi
Thịt da thăn lọc kỹ rồi
Toi thân trâu mộng hết đời nghé con.

Khi xưa cày kéo mỏi mòn
Đói no rơm cỏ hẩm ngon mặc lòng
Quanh năm khao khát mạch trong
Chậm chân ngoảnh lại cả dòng đục thêm.

Cày bừa nợ ách triền miên
Chão thừng dằng dịt dưới trên trong ngoài
khỏe làm chẳng mấy đoái hoài
hâm hiu trở gió lắm người cầm dao.

Mục "Thơ Đường" có 36 bài; "Thơ tự do", 15 bài, , "Thơ xướng họa", 8 bài; "Thơ dịch", 18 bài, trong đó có những bản dịch đầy cảm hứng như "Cảm hoài" của Đặng Dung,"Cổ thành Quảng Trị", "Khiêm lăng tiền hữu cảm" của Đặng Văn Sinh:
感懷
             鄧容
世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉載月磨

Phiên âm:
Cảm hoài
                Đặng Dung
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.


Dịch nghĩa:
                   Cảm hoài
          Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
          Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
          Khi gặp thời, người làm nghề bán thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
          Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
          Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
          Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
          Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
          Bao phen mang gươm báu mài dưới trăng.

Dịch thơ:
          Cảm hoài
Tháng ngày đằng đẵng chân trời
Cuộc say dằng dặc việc đời mênh mang
Tiểu nhân trưởng giả vênh vang
Anh hùng thất thế bầm gan nuốt hờn.
Trung thành phò chúa chẳng sờn
Sông Ngân gột giáp mỏi mòn đứng trông
Bạc đầu thù trả chưa xong
Mài gươm rửa hận khuyết trăng hận còn.
Nhà sáng tác Đại Lải
Ngày 10/6/2010

              
                  
亡魂 ?
" ".
                     , , , 七日


Phiên âm:
Cổ thành Quảng Trị

                              Đặng Văn Sinh
Quảng Trị hoang thành tuyệt giá cô,(2)
Phong xuy cựu trủng chiểm vi lô.
Thùy tri tử sĩ vong hồn hận?
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô".
           Quảng Trị, Bính Tuất niên,
             trọng thu, sơ thất nhật

Dịch nghĩa:
       Thành cổ Quảng Trị

Thành hoang Quảng Trị đã hết loài chim đa đa,
(Chỉ có) gió thổi làm lung lay đám lau sậy trên những ngôi mộ cũ.       
Nào ai biết vong hồn tử sĩ còn vương hận?
Một tướng làm nên chiến công phải đổi bằng vạn sinh mạng.
                              Quảng Trị, ngày mồng 7,
                                     tháng 9, năm Bính Tuất
 Dịch thơ:

Thành Cổ Quảng Trị
                 
Lau sậy hoang thành lạnh gió xô
Lung lay mộ cũ chiến trường xưa
Nào ai tử sỹ vong hồn hận
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô". 
                             Nguyễn Đào Trường                 
 Phần "Câu đối", Nguyễn Đào Trường dịch 36 câu đối chữ Hán, 11 hoành phi trong các đền , miếu, và từ đường các dòng họ. Chẳng những thế, ông còn sẵn sàng viết tặng một số câu đối (cả Hán và Việt) cho các gia đình hoặc nhà thờ họ nếu gia chủ yêu cầu. Một trong những câu đối hay Nguyễn tiên sinh viết gần đây là đôi liễn tặng  gia đình luật sư Hoàng Thâu:
 曾咨問安民互律
 訴辯公護國除非
Tăng tư vấn an dân hỗ luật
Tố biện công hộ quốc trừ phi
Dịch nghĩa:
 Tranh biện việc trừ gian trị nước
Giúp nhân dân hiểu luật bình yên.
Phần "Tạp văn" cũng khá phong phú với 16 bài ghi chép về những điều tai nghe mắt thấy cùng những suy nghĩ, kiến giải của tác giả về nhân tình thế thái trong một xã hội đầy rẫy bất công, những suy thoái về đạo đức cũng như sự biến dạng của các thang giá trị. Phần cuối là bản dịch ba tấm bia "Tự sự nghiệp bi","Tự báo đức bi" tại quần thể lăng mộ Chuẩn Quận công Nguyễn Đức Nhuận, và "Phối thần bi ký văn" tại xã An Trì, Vĩnh Bảo, Hải Phòng cùng các bài viết giới thiệu lai lịch 4 chi thuộc dòng họ Nguyễn sau mấy trăm năm mới tìm lại được cụ Tổ qua những tư liệu chính xác trên bia đá Đạo Khê.
                                                                      ĐTV

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét