Nhãn

Thứ Ba, 17 tháng 7, 2012

Về thăm làng Bùng Xứ Đoài...

       Hợp tuyển thơ văn Phùng Khắc Khoan
            Đầu thu năm 2011, trung tướng Phùng Khắc Đăng (lúc ấy đang là Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND Việt Nam) đại diện Ban Liên lạc họ Phùng Việt Nam, qua nhà văn Phùng Văn Khai, hiện đang công tác tại tạp chí Văn nghệ Quân đội, có mời nhà văn Hoàng Quốc Hải, tiến sĩ sử học Đinh Công Vỹ và chúng tôi (nhà văn Đặng Văn Sinh) về thăm làng Bùng, tức làng Phùng Xá, quê hương của ông. Phùng Xá là một làng cổ nổi tiếng xứ Đoài, nơi đã sản sinh ra những danh nhân nổi tiếng, trong đó có Phùng Khắc Khoan, từng được nhân dân yêu mến gọi là Trạng Bùng. Sau khi ra thắp hương khu lăng mộ, chúng tôi vào thăm nhà thờ Phùng tiên sinh. Tại đây, ngoài những tấm bia cổ được lưu giữ khá tốt, chúng tôi còn được xem một số hoành phi, câu đối và sắc phong của các triều Mạc, Lê, Nguyễn đối với công tích và sự nghiệp của ngài.
            Ngoài sự nghiệp chính trị và ngoại giao, Phùng Khắc Khoan còn là một nhà thơ lớn của dân tộc. Trước tác của ông phần lớn đều được viết bằng chữ Hán nhưng cho đến nay vẫn chưa được dịch trọn vẹn sang tiếng Việt. Cũng vì nguyên nhân này, Ban Liên lạc họ Phùng Việt Nam có kế hoạch xuất bản cuốn sách Phùng Khắc Khoan - Hợp tuyển thơ văn, đồng thời mời một số nhà nghiên cứu, nhà văn, dịch giả thông thạo chữ Hán tham gia dịch thuật trứ tác của Trạng Bùng.
            Dưới đây là một số bài thơ đã được các tác giả  Tham Tuyền, Trần Lê sáng, Bùi Duy TânĐặng Văn Sinh chuyển ngữ để phục vụ cho cuốn sách trên.

      Đặng Văn Sinh
                       
                                自 述 二 首
                                                       時 蓋 癸 丑 十 六 歲 也
                                                                          其 一
自 覺 年 方 志 學 秋
功 名 欲 遂 每 勤 劬
家 藏 活 計 書 其 寶
力 代 耕 鋤 筆 是 奴
遇 事 處 隨 中 道 合
致 身 必 出 正 途 由
男 兒 自 有 顯 揚 事
肯 作 昂 藏 一 丈 夫
            Phiên âm:
                                                TỰ THUẬT (NHỊ THỦ)
                                    (Thời cái Quý sửu, thập lục tuế dã)
                                                KỲ NHẤT
                           Tự giác niên phương chí học thu,
                           Công danh dục toại mỗi cần cù.
                           Gia tàng hoạt kế thư kỳ bảo,
                           Lực đại canh sừ bút thị nô.
                           Ngộ sự xử tùy trung đạo hợp,
                           Trí thân tất xuất chính đồ do.
                           Nam nhi tự hữu hiển dương sự,
                           Khẳng tác ngang tàng nhất trượng phu.

     
         
 


Dịch thơ:
Chí ta đương tuổi học hành
Cần cù để được công danh rỡ ràng.
Mưu sinh nhờ sách trân tàng,
Cày bừa sẵn bút vững vàng thay trâu.
Trung dung giữ đạo nhiệm màu,
Đường quang từ trước đến sau dẫn mình.
Tài trai lập nghiệp hiển vinh,
Ngang tàng phải xứng thân hình trượng phu.

Tham Tuyền dịch
                                     其 二

Phiên âm:
KỲ NHỊ
Thế sự nhàn khan tự úng kê,
An bài phú quý nhậm thiên nghê.
Bất hiềm bạch ốc nan vi dưỡng,
Duy hỷ thanh vân thượng hữu thê.
Tùng bách khởi kham hàng tuyết đống,
Kình nghê na khẳng luyến sầm đề.
Nam minh tằng kiến côn bằng phấn,
Vũ dực siêu thăng dữ Hán tề.


Dịch thơ:
Thế sự xem ra tựa bọ giòi,
Giàu sang sắp xếp mệnh trời soi.
Đói nghèo chẳng ngại đường sinh sống,
Vinh hiển mừng vui lối sẵn noi.
Tùng bách há hiềm sương tuyết đọng,
Kình nghê đâu quản lưới chài chòi.
Biển Nam sẽ thấy côn bằng dậy,
Vỗ cánh tung bay vút tận trời.

                           Trần Lê Sáng dịch


                                                          元 旦 書 堂
                                                       時 蓋 甲 辰 之 十 七 歲 也

Phiên âm:
NGUYÊN ĐÁN THƯ ĐƯỜNG
(Thời cái Giáp thìn chi thập thất tuế dã)
Tạc dạ đông phong nhập thảo lư,
Tín truyền xuân đáo ngũ canh sơ.
Đình nhân sinh thảo tri niên kỉ,
Phù bất tu đào giác quỉ trừ.
Tiêu trưởng mặc quan thiên địa đạo,
Quán thông tế nhận thánh hiền thư.
Một kỳ học dữ niên câu tiến,
Tự thị ngô tâm lạc hữu dư.


 Dịch thơ:

Mái rạ, gió đông đêm trước thổi
Canh năm xuân đã đến hiên nhà
Sân ngoài cỏ mọc mừng năm mới
Cổng trước không bùa cũng hết tà
Ngẫm thấy cơ trời tròn lại khuyết
Mới hay đạo thánh lẽ sâu xa
Tuổi cao sự học hầu cùng tiến
An lạc, thanh nhàn ấy chí ta.
                                                               Đặng Văn Sinh dịch

記 嚴 父 示 訓 詩
時 蓋 乙 巳 年 之 十 八 歲 也
時 余 之 耘 耕 遊 學 嚴 父 作 此 詩 以 訓 之



Phiên âm:
KÝ NGHIÊM PHỤ THỊ HUẤN THI
(Thời cái Ất tị niên chi thập bát tuế dã. Thời dư chi Vân Canh du học, Nghiêm phụ tác thử thi dĩ huấn chi)
Nhĩ ly ngô lý chúc ngô mao,
Tính bản thông minh kiến thức cao.
Nhất quỹ dụng công tu học Khổng,
Phân âm tích quá thả sư Đào.
Hiển dương nhị tự nghi thâm niệm,
Viễn đại tiền trình vật đạn lao,
Khoa táo khắc gia giai lệnh tử,
Trúng hồng phương khả phó ngô bào.

Dịch thơ:

Con là máu thịt của cha
Thông minh vốn sắn, tài hoa hơn đời
Thời gian chớ phí con ơi
Một sọt đất cũng nhớ lời Khổng gia
Hiển dương tâm niệm lo xa
Vì tương lai chớ nề hà gian lao
Hơn cha, việc đáng tự hào
Khoa này con được đỗ cao cha mừng.
                                         Đặng Văn Sinh dịch
                      登 佛 跡 山
                                                           時 夢 登 佛 跡 山 賦 詩 云
Phiên âm:
ĐĂNG PHẬT TÍCH SƠN
(Thời mộng đăng Phật Tích sơn, phú thi vân:)
Túc nhiếp thiên trùng thượng,
Thân cư đệ nhất tằng.
Hồi đầu siêu hạ phẩm,
Hoảng nhược Vũ Môn đăng.
Ngẫu nhân thừa hứng đáo nham tiền,
Ổn bộ vân cù thướng thản nhiên.
Điểu ngữ hoán nghênh tùng hạ khách,
Hoa dung tĩnh đối động trung tiên.
Túc siêu trần thế tam thiên giới,
Thủ trích tinh thần chỉ xích thiên.
Thí tảo thạch đài miêu ta cảnh,
Thi thành bút dĩ động sơn xuyên.
Dịch thơ:
Cất gót ngàn trùng tới,
Nơi đây đệ nhất tằng.
Ngoảnh đầu trông xuống thấp,
Ô! Vượt Vũ Môn chăng?
Bỗng đâu nảy hứng tới rừng thiền,
Nhẹ gót đường mây bước thản nhiên.
Chim dưới bóng thông chào đón khách,
Hoa trong hang núi lặng nhìn tiên.
Hái sao một với trời vịn tới,
Gạt bụi ba nghìn cõi sấn lên.
Vách đá, phủi rêu đề cảnh đẹp,
Thơ thành, bút khuấy động sơn xuyên.
Tham Tuyền dịch
                        遠 寄 友 人

Phiên âm:
VIỄN KÝ HỮU NHÂN
Tự quân biệt hậu đáo vu câm (kim),
Ngư nhạn thư hy ký ngữ âm.
Dịch viễn chiết lan mai hựu dị,
Canh lan tưởng xứ mộng tương tầm.
Giang sơn tuy cách thiên dư lý,
Đạo nghĩa do tồn nhất thốn tâm.
Tự cổ đại tài ưng đại dụng,
Trượng phu khẳng dữ thế phù trầm.


Dịch thơ:
Từ ngày xa bạn đến nay,
Tình xưa gửi nhạn mỗi ngày một thưa.
Dặm xa mai nở đương vừa,
Lan tàn mấy độ mộng đưa mấy lần.
Cách non tuy mấy nghìn tầm,
Tấc lòng vẫn nhớ đạo gần nghĩa xa.
Đại tài đại dụng đạo ta,
Không vương thế tục mới là trượng phu.
                                     Trần Lê Sáng dịch


             元  日
  時 蓋 丙 午 十 九 歲 也 是 歲 六 月 父 抵 受
  東 闌 縣 知 縣 余 與 弟 克 壯 從 至 任 所
椿 

Phiên âm:
NGUYÊN  NHẬT
(Thời cái Bính Ngọ, thập cửu tuế dã. Thị tuế lục nguyệt, phụ để thụ Đông Lan huyện Tri huyện, dư dữ đệ Khắc Tráng tòng chí nhậm sở)
Tự tòng nhất khí chuyển hồng quân,
Thặng hỉ niên lai tiết hậu tân.
Bách tửu khư hàn nghênh lệnh đán,
Tiêu bàn hiến tụng lạc phương thần.
Tiêu hồi tinh đẩu thời hành Hạ,
Án tích đồ thư nhật hữu xuân.
Chước liễu đồ tô vô tá sự,
Túc tương ngũ phúc chúc linh xuân.



Dịch thơ:
 Từ khi thời tiết chuyển xoay vần
Vui vẻ gia đình đón tiết xuân
Rượu bách trừ tà năm mới đến
Hoa tiêu chúc thọ buổi lương thần
Chuôi sao Bắc Đẩu xoay hành Hạ
Bàn xếp sách đầy đón cảnh xuân
Chén rượu đồ tô xong hết việc
Mới đem ngũ phúc kính song thân.
                                         Đặng Văn Sinh dịch



             病 中 書 懷 三 首
                            其 一
便
使

Phiên âm:
BỆNH TRUNG THƯ HOÀI (TAM THỦ)
KỲ NHẤT
Bình sinh chính trực hựu trung thành,
Tráng chí cao huyền nhật nguyệt minh.
Bút hạ tiên giao phong vũ động,
Thi thành giải sử quỷ thần kinh.
Tùng ư tuế hậu tiết vưu kính,
Mai hướng xuân tiên sắc dũ thanh.
Vinh tiến an bài thiên mệnh định,
                           Cổ lai bạch ốc khởi công khanh.

Dịch thơ:
Bình sinh chính trực lại trung thành,
Tráng chí cao ngời nhật nguyệt minh.
Hạ bút làm cho mưa gió động,
Thơ thành khiến được quỷ thần kinh.
Tùng sau năm rét tiết càng cứng,
Mai trước xuân hoa sắc vẫn trong.
Vinh hiển do trời an định sẵn,
Nhà tranh có chí vẫn thành danh.
                               Bùi Duy Tân dịch

                                          其 二

Phiên âm:
KỲ NHỊ
Thiết tác tâm tràng thạch tác can,
Lăng lăng kính khí nhật tinh hoàn.
Linh đài oánh nhược tam thu thủy,
Tố nghiệp hương ư ngũ quế san (sơn).
Gia hữu thư tàng xuân phú quý,
Lự vô trần mỗi nhật thanh nhàn.
Dĩ văn chương hiển ngô nho sự,
Đầu bút hà tu hiệu A Ban.




Dịch thơ:

Tâm tràng như sắt, đá đúc gan
Tinh nhật xông pha vũ trụ gian
Lòng tựa ba thu hồ nước lặng
Nghiệp nhà hơn cả Đậu Yên san
Đầy kho sách cổ càng phú quý
Rũ sạch bụi trần hưởng thú nhàn
Nho đạo hiển dương thành sự nghiệp
Cớ gì ném bút học chàng Ban?
                                              Đặng Văn Sinh dịch


                                                                其 三
耀

Phiên âm:
KỲ TAM
Văn tinh cửu dĩ hiện Phùng thôn,
Ưng vị ngô gia diệu phúc môn.
Phụ tử tương truyền Nho thị nghiệp,
Cổ kim bất biến đạo thường tồn.
Thanh chiên nghiệp kế gia thanh cựu,
Bạch nhật hoan thừa thái sắc ôn.
Thiên ý chí công vô hậu bạc,
Chỉ lưu phúc tố ngã nhi tôn.



Dịch thơ:

Văn Xương đến địa phận thôn Bùng
Chiếu ứng nhà ta sáng một vùng
Con nối chí cha hưng nghiệp lớn
Xưa nay chẳng đổi, đạo vô cùng
Nệm xanh kế nghiệp theo đường cũ
Ngày sáng vui hòa khúc nhạc chung
Thiên ý công bằng không lệch lạc
Chỉ lưu phúc đức hiển họ Phùng
                                         Đặng Văn Sinh dịch


                                                 除  夕
Phiên âm:
TRỪ TỊCH
Hảo bả tân thi tống cựu niên,
Chung tiêu thủ tuế vị thành miên.
Thiên môn thành thị khai đăng hỏa,
Kỷ thốc lâu đài náo quản huyền.
Đông bán dạ tiền hàn thượng thiển,
Xuân tam canh hậu tín sơ truyền.
Song tiền dĩ hữu mai hoa lịch,
Số học kham suy Thiệu tiên thiên.
Dịch thơ:

Tân thi viết tiễn cựu niên
Suốt đêm trằn trọc chẳng yên giấc vàng
Thị thành đèn đuốc sáng choang
Lâu đài náo nhiệt rộn ràng đàn ca
Nửa đêm lạnh vẫn chưa qua
Tin xuân sau lúc canh ba đã truyền
Hoa mai nở trắng ngoài hiên
Ngẫm ra thật phục cơ huyền Thiệu khang.
                                                          Đặng Văn Sinh dịch

           元  日
       時 蓋 己 酉 二 十 二 歲 也



Phiên âm:
NGUYÊN NHẬT
(Thời cái Kỷ dậu, nhị thập nhị tuế dã)
Thiên cơ vãng phục diệu nan ngôn,
Tiết đáo kim triêu hựu thượng nguyên.
Hạ lịch sơ ban tân tuế nguyệt,
Xuân quang đốn cải cựu càn khôn.
Hảo tương lục nghị thù hoa đán,
Học tiễn kim kê thiếp thượng môn.
Tối ái đông phong tằng thức diện,
Tảo truyền xuân tín đáo hoa côn (căn).

  Dịch thơ:

Cơ trời sắp đặt thật thông huyền
Tết sớm bây giờ đã thượng nguyên
Lịch cũ vừa sang năm tháng mới
Cảnh xuân phút chốc đổi càn khôn
Rượu tăm nên rót mừng nguyên đán
Học cắt gà vàng dán trước tường
Rất thích gió đông ta mới gặp
Sớm đưa tin trước báo xuân sang.
                                                        Đặng Văn Sinh dịch



    除 夕 書 懷
Phiên âm:
TRỪ TỊCH THƯ HOÀI
Đãi xuân tọa đối tiểu thư trai,
Chung dạ khiêu đăng ước cộng lai.
Quỷ khứ hà lao thôi bộc trúc,
Thần thanh độc tự hiếu quan mai.
Nhân tâm trực dữ thiên tâm hợp,
Tuế sự hà hiềm thế sự thôi.
Đông khứ xuân lai phong cảnh hảo,
Bách hoa tòng thử hướng dương khai.


Dịch thơ:

Một mình lặng lẽ phòng văn
Khêu đèn ngồi đợi tin xuân đang về
Chẳng đốt pháo, quỷ cũng đi
Tinh thần sảng khoái cần gì hoa mai
Lòng người hòa hợp ý trời
Việc nhà chẳng quản sự đời gian nan
Đông qua xuân lại tuần hoàn
Trăm hoa đua sắc nở tràn khắp nơi.
                                                     Đặng Văn Sinh dịch


                                 夢 覺 偶 成



Phiên âm:
MỘNG GIÁC NGẪU THÀNH
Trường tiêu ngọa đối tiểu trai đông,
Mộng đáo quân môn đệ cửu trùng.
Diện đối long nhan tài mật nhĩ,
Thân thừa thiên ngữ hảo ung dung.
Đáo đầu đốn dữ phàm trần quýnh,
Thức mục tần thiêm hỷ khí nùng.
Lai nhật thanh vân như đắc lộ,
Định tri thiên ý dĩ tiên tùng.

Dịch thơ:

Đêm dài ngoảnh mặt trái nhà đông
Mộng đến hoàng cung gặp cửu trùng
Lặng ngắm long nhan gần sát mặt
Tiếp lời thiên tử thật ung dung
Ngoảnh đầu nhìn lại phàm trần cách
Dụi mắt trông lên thụy khí nồng
Ngày khác đường mây ta nhẹ bước
Mới hay trời đất cũng chiều lòng.
                                              Đặng Văn Sinh dịch


                     元  日
                   時 蓋 辛 亥 之 二 十 四 歲 也

Phiên âm:
NGUYÊN NHẬT
(Thời cái Tân hợi chi nhị thập tứ tuế dã)
Nhân hiềm tuế nguyệt khứ như lưu,
Ngã hỷ niên phương dữ ngã câu.
Noãn nhật nghênh lai hảo thời tiết,
Xuân phong tống nhập mỹ đồ tô.
Bất phương phi tiễn thôi quang ảnh,
Cánh bả tân đào hoán cựu phù.
Duy hữu mai hoa tâm kết hữu,
Niên niên chiếm bảng tự ngô nho.

Dịch thơ:

Tháng năm trôi khiến người buồn
Ta vui vì tuổi xanh luôn bên mình
Trời ấm áp, khí tốt sinh
Đồ tô một chén mượn tình gió say
Ánh xuân chẳng ngại tên bay
Hãy đem bùa mới mà thay gỗ đào
Hoa mai kết bạn thanh cao
Giống như năm nào ta đỗ thủ khoa.
                                         Đặng Văn Sinh dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét