Nhãn

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

Ký ức làng Cùa (tiếp theo kỳ trước)



                                     Ký ức làng Cùa

                             Tiểu thuyết của Đặng Văn Sinh

                                           Chương năm


                                                            1

L
àng Cùa tạm thời trở lại yên tĩnh. Khúc Kiệt bắt đầu thực hiện một số cải cách mà việc đầu tiên là trưng thu con ngựa bạch của nhà chánh Đàm. Hôm nào cũng vậy, ông ta dậy từ lúc còn mờ đất, nhảy phốc lên con tuấn mã chạy nước kiệu ra bến sông Lăng. Đường làng lúc này còn vắng, thỉnh thoảng mới gặp một bà nhặt phân chó. Những bà này nghe tiếng vó ngựa từ xa đã lẩn vội vào ngõ ngách hoặc bụi rậm. Cách đây mấy hôm, cô Mận thọt con ông trương Thình đã bị mấy hèo mây vào lưng vì tội dám để gánh phân thối hoắc giữa đường chắn lối đi của thủ lĩnh áo Đen. Mấy hôm sau, Khúc Kiệt mời các vị chức sắc trong làng ra đình hiến ruộng cho Cách mạng. Chánh tổng Cao Lộng dù chẳng muốn tí nào cũng phải rứt ruột nộp ra hai mẫu. Lý Quỳnh ngậm đắng nuốt cay mất toi một mẫu tám sào mà không kêu vào đâu được. Người chống đối gay gắt nhất là bà cả Huê. Bà ta lấy thế mẹ goá coi côi chẳng những không chịu nộp ruộng mà còn dứt khoát đòi con ngựa. Khúc Kiệt vốn không phải là người có tính nhẫn nại, nghe và chị dâu gọi mình là quân ăn cướp thì bật dậy như chiếc lò xo bị nén quá lâu, hàm răng ám khói thuốc lào nhe ra, giọng gầm gừ:
- Yêu cầu bà Huê không được xúc phạm đến Cách mạng, nếu còn mồm loa mép giải, chúng tôi buộc phải có biện pháp cứng rắn.
- Cách mạng gì các người. - Bà Huê đỏ mặt tía tai - Một lũ thổ phỉ thì có.
- Này ! Chị đừng có quá đáng. Tội của nhà chị tử hình còn là nhẹ.
- Có giỏi thì cứ bắn đi. Con này không sợ đâu nhé !
Rõ ràng là Khúc Kiệt đang bị khiêu khích. Mặt ông ta tím lại, tay run run sờ vào bao súng lục. Phía bên này chánh tổng Cao Lộng che miệng giấu nụ cười khó hiểu. Giữa lúc Khúc Kiệt đang nghĩ cách trừng phạt bà vợ chánh Đàm để răn đe những kẻ có máu mặt ở làng Cùa đang rắp tâm chống đối thì người thư ký từ ngoài vào đưa một mảnh giấy. Ông ta đọc lướt qua rồi chau mày, ngồi thừ ra một lúc dường như chẳng để ý gì đến các khổ chủ bị triệu đến hiến gia sản. Bọn Cao Lộng thấy thái độ của thủ lĩnh áo Đen như vậy, ngầm đưa mắt cho nhau lặng lẽ rút lui. Các đội viên gác ngoài cửa định giữ lại thì Khúc Kiệt phẩy tay ra hiệu để cho họ đi sau đó chuyển mảnh giấy cho Lại Xuân Kiên vừa đi tuần tra về. Viên đội phó xoay dọc xoay ngang tờ giấy mãi không đánh vần nổi nhưng con chữ nghệch ngoạc bằng mực tím đành trả lại đội trưởng.

- Bác đọc giúp, tôi chịu…
Khúc Kiệt có vẻ như không mấy quan tâm đến vẻ lúng túng của Lại Xuân Kiên mà lên giọng hậm hực:
- Thượng cấp cảnh cáo chúng ta manh động vì thời cơ chưa đến. Họ còn ra lệnh giải tán ngay đội công tác và xử lý kỷ luật tôi. Chú thấy bây giờ ta nên làm thế nào ?
- Không được. - Lại Xuân Kiên lắc đầu - Bác mà giải tán đội áo Đen thì bọn Lê Bang, Cao Lộng, Ngô Quỳnh tha hồ làm mưa làm gió, dân Ba Tổng lại vô cùng khốn khổ.
- Tôi cũng nghĩ thế.  - Khúc Kiệt châm tờ giấy vào ngọn nến, đợi cho nó cháy hết rồi mới nói tiếp - Các ông thượng cấp ngồi dưới hầm bí mật cách xa chúng ta hàng trăm dặm biết thế quái nào được phong trào nông dân làng Cùa. Quan binh phủ Đông Giàng mang súng ống kéo nhau về đây bị chúng ta giã cho một trận tơi bời, còn bọn hào lý thì bạt vía kinh hồn, không dám lên mặt hách dịch. Đây chính là thời cơ thuận lợi để ta cướp chính quyền, vậy thì tại sao họ khai trừ tôi ra khỏi tổ chức và bắt chúng ta giải tán lực lượng ?
- Cũng có thể cấp trên phòng xa bọn Nhật kéo về.
- Nhật cũng chẳng sợ. Nếu chúng đem quân về đây ta sẽ rào làng chiến đấu, chú thấy thế nào ?
Lại Xuân Kiên vẫn phục Khúc Kiệt là tay lắm mưu nhiều kế lại đọc chữ Quốc ngữ vanh vách nên tán thành ngay chủ trương của đội trưởng.
- Được quá đi chứ . Bọn giặc Lùn thì cũng là người chứ có phải ba đầu sáu tay đâu mà lo.
Nửa tháng trôi qua, làng Cùa vẫn bình yên vô sự. Khúc Kiệt cho rằng thượng cấp quá lo xa. Bọn Nhật còn mải đánh nhau với Pháp, hơi đâu chúng đem quân về cái làng hẻo lánh bên cạnh sông Lăng này.
Một hôm Hàn Hành đến làng Cùa. Khúc Kiệt tiếp đón ông ta ở đình Cả như một thượng khách. Rượu được một tuần, Khúc Kiệt hỏi:
- Có việc gì mà Bác quá bộ đến đây hay là được cấp trên cử đi công cán ?
Hàn Hành lắc đầu, giọng nhạt nhẽo:
- Tôi đã xin ra khỏi Đảng, bây giờ không còn trong tổ chức nữa.
- Sao thế ? - Khúc Kiệt nghĩ mình nghe lầm - Bác xin ra ?
- Phải, nếu không tự nguyện rút lui, trước sau họ cũng khai trừ. Cách đây ít ngày có một phái viên từ tỉnh về đưa cho tôi một cái giấy. Nội dung trong giấy nói tôi manh động, không chấp hành nghị quyết Trung Ương làm thiệt hại đến phong trào.
- Hôm qua tôi cũng nhận được một cái thông báo như thế - Khúc Kiệt khoát tay ra vẻ bất cần đời - Tưởng chỉ có tôi, hoá ra bác cũng bị.
- Có lẽ đấy là chủ trương chung.
- Điều tôi lo là ở chỗ khác kia. - Hàn Hành hạ giọng thì thầm - Có một vài đảng viên ở bên Nam Ngạn đã bị mất tích. Chắc cấp trên sợ họ bất mãn, phản bội khai ra các đường dây bí mật, cho nên …
- Cho nên bác mới tạm rời làng đi làm nghề thầy tướng chứ gì ?
- Cũng là vạn bất đắc dĩ. - Hàn Hành chép miệng
Khúc Kiệt mừng quá vì có thêm đồng minh, nắm chặt tay ông bạn cùng cảnh ngộ:
- Thế thì bác ở đây với tôi. Lính Triều Đình đến cũng đánh. Nhật cũng đánh. Chúng ta sẽ giải phóng tất cả các làng bên hữu ngạn sông Lăng để xem cuối cùng chủ trương của ai đúng. Nói thật, tôi cũng bị xử lý kỷ luật rồi, nhưng đừng hòng Khoá Kiệt này giải tán đội quân áo Đen. Thời buổi hỗn quân hỗn quan phải có lực lượng vũ trang trong tay mới làm nên chuyện.
Hàn Hành là kẻ thích vũ trang bạo động, nghe chủ trương của Khúc Kiệt, phấn khởi lắm liền bỏ nghề, ở lại làng Cùa.
Sớm hôm sau, trời vẫn còn mờ tối, tiếng mõ cầm canh chưa kịp gióng hết hồi thứ ba, trên con đường thập tự đã vang tiếng vó ngựa rầm rập. ít phút sau đoàn kỵ sĩ rẽ vào làng Cùa. "Bọn Nhật !"  có ai đó gào lên, giọng lạc hẳn đi vì sợ. Khúc Kiệt vừa thức dậy vãn còn ngái ngủ, ra lệnh cho các đội viên không được mở cổng. Hàn Hành ra sức thúc trống báo động còn Lại Xuân Kiên tập hợp anh em áo Đen chuẩn bị chiến đấu. Khúc Kiệt cử một đội viên trèo lên nóc đình gọi loa thông báo cho cả làng.
- A lô ! Thưa bà con ! Bọn Nhật đã kéo quân về làng Cùa. Mọi người hãy ở yên trong nhà, cấm ra đường, để lực lượng tự vệ Cách mạng chuẩn bị chiến đấu, tiêu diệt bọn giặc lùn. A lô ! A lô !
Một lúc sau, người gọi loa đi dọc theo đường trục từ đình Cả xuống bến sông, tiếp tục thông báo:
- Cấm mọi người liên hệ với Nhật làm tay sai chỉ điểm cho chúng. Ai cố tình ra khỏi làng sẽ bị xử bắn tại chỗ.
Trong khi ấy, bọn Nhật thông qua sự chỉ dẫn của tên phó Lãnh binh bại trận lần trước đang tìm cách đột nhập vào làng. Đầu tiên chúng cũng cho người gọi loa:
- A lô ! Dân làng Cùa nghe đây. Quân đội Thiên Hoàng về đây để tróc nã tên trùm Cộng sản là Khúc Kiệt cùng đồng bọn đã xúi giục bà con chống thuế và đánh lại binh sĩ Triều Đình. Yêu cầu không ai được giúp bọn phiến loạn. Kẻ nào trái lệnh sẽ bị chém đầu.
Để phụ hoạ cho tiếng loa của tên thông ngôn là loạt đạn bắn thẳng vào cổng làng. Đạn súng trường Nhật không xuyên thủng được cánh cổng lim nhưng là ngón đòn tâm lý đánh vào cân não làm già trẻ gái trai trong làng nháo cả lên. Ai cũng muốn ra khỏi làng nhưng lập tức bị những đội viên áo Đen chặn lại. Họ như con chạch bỏ giỏ cua, ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, người nào cũng lo ngay ngáy.
Bọn Nhật xuất hiện quá bất ngờ, Khúc Kiệt chưa kịp hạ lệnh bắt giam bọn sắc mục thì lý trưởng Ngô Quỳnh đã vượt rào chạy ra ngoài. Hàn Hành sau khi nghe Lại Xuân Kiên thông báo nội tình làng Cùa liền bàn với Khúc Kiệt:
- Việc lúc này rất gấp, không thể chần chừ. Vì vậy, cần phải cho bắt ngay chánh tổng Cao Lộng, chánh hội Hạp và con mẹ Huê vợ cả chánh Đàm. Để bọn này thoát được là chúng ta tự tay ký vào bản án tử hình.
Vừa lúc ấy, một đội viên áo Đen xách mã tấu thở hổn hển vì vừa chạy từ ngoài cổng làng vào:
- Báo cáo ! Anh em vừa bắt được chánh tổng luồn theo lối chuồng lợn nhà vệ Toan trốn ra ngoài.
Cao Lộng cởi trần trùng trục, người dính toàn phân lợn, đầu tóc vẫn còn vương mấy đám mạng nhện. Lão ta giả làm người vớt bèo, lẩn xuống ao nhà phó lý Huấn, chạy đến nhà vệ Toan thì bị tóm. Khúc Kiệt liếc mắt nhìn Cao Lộng cười gằn:
- Hừ ! lần này thì không thể tha được. Anh em đâu ! Mang ra ngoài miếu Cô Hồn xử bắn.
Cao lộng nghe hai tiếng "xử bắn" hồn vía đã lên mây. Lão quỳ mọp xuống vái lấy vái để:
- Tôi chót dại, mong ông Khoá mở lượng khoan hồng, sau này nguyện làm trâu ngựa đền đáp công ơn trời biển.
Khúc Kiệt nghe lời cầu xin rất là ai oán đã có vẻ mềm lòng, Hàn Hành vội bấm vào tay ông ta khẽ bảo:
- Làm Cách mạng là phải triệt để chuyên chính vô sản, không nên để thứ tình cảm mềm yếu của đàn bà chen vào. Bác mà tha hắn hôm nay, ngày mai hắn sẽ treo cổ tất cả lũ chúng ta lên cây đa đầu đường Thập Tự.
Khúc Kiệt ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
- Bác nói phải !
Cao Lộng bị trói quặt hai tay ra sau lưng, một đoạn thừng còn vòng qua cổ bắt chéo trước ngực như là quai đeo ba lô. Dải băng đen chẳng biết xé từ chiếc áo của ai bịt cứng hai mắt làm viên chánh tổng bước đi chệnh choạng. Mớ tóc chớm bạc xổ tung ra bay phất phơ trước gió. Bà vợ lão từ đằng sau lập cập chạy lên định quấn lại tóc cho chồng bị một người áo Đen dộng báng súng vào ngực. Bà ta kêu đến "hự" một tiếng nhổ ra một bãi máu tươi.
Lần này cần phải hành quyết thật nhanh trước khi dân làng kéo đến. Để đỡ xảy ra rắc rối, Khúc Kiệt cử mấy đội viên áo đen quản thúc Khúc Thị Nhân không cho ra khỏi nhà. Miếu Cô Hồn nằm trên một bãi hoang, cây cối rậm rạp. Cạnh miếu có cây gạo cổ thụ. Những chùm hoa đỏ rực rỡ như lửa đang thả dần từng cánh mỏng hình lòng thuyền xuống nước. Mặt ao nổi lềnh bềnh toàn một thứ bèo ong màu xám. Thỉnh thoảng một con cá rô tinh nghịch vọt lên đớp lũ chuồn chuồn ớt. Bọn này xoè cặp cánh mỏng như tơ nhện, bay là là mặt bèo, chốc chốc lại đập đuôi xuống nước như là cố tình trêu ngươi. Trên cây cọc rào giữa ao, một con chuồn chúa hoa vàng dáng dấp đầy vẻ quý phái đậu gần như bất động, khoe chiếc đuôi dài óng ánh như được làm bằng giấy trang kim. Chú chuồn này xem ra chẳng mấy quan tâm đến chuyện người ta sắp sửa bắn nhau mà đang trầm tư thiền định mong sớm được chuyển kiếp làm người. Từ lâu lắm, theo các bậc cao niên kể lại thì xung quanh khu vực ao Quan này đầy ma đói ma khát của những kẻ chết đuối. Những cô hồn không nơi nương tựa thường rủ nhau vào làng quấy nhiễu dân lành, bắt trẻ con, dụ dỗ đàn bà con gái. Sau mấy lần mời thầy pháp về yểm bùa làm phép trừ tà không ăn thua, các vị chức sắc bàn nhau quyên tiền xây miếu và trồng cây gạo để những linh hồn vật vờ có chỗ đi về. Hằng năm, vào những ngày sóc vọng, lý trưởng phải mang hương hoa, phẩm vật cúng tế dân làng mới yên ổn làm ăn, mưa thuận gió hoà, mùa màng phong túc. Từ khi vỡ đê, miếu đổ, chỉ còn trơ lại cây gạo với mấy bụi tre gai bị sóng đánh lật nghiêng, trơ gốc khiến cho cảnh vật trở nên xơ xác, tiêu điều.
Chánh tổng Cao Lộng bị trói vào cây gạo bằng mấy vòng thừng. Lúc này chẳng biết bởi nguồn sức mạnh nào, lão ta đã lấy lại được đảm khí, khác hẳn thái độ hèn nhát ban đầu, xem thường cái chết, dõng dạc bảo Lại Xuân Kiên đang chỉ huy bọn áo Đen chuẩn bị thi hành bản án:
- Ta muốn gặp Khóa Kiệt.
Lại Xuân Kiên lắc đầu:
- Ông ấy đang bận chỉ huy anh em đánh nhau với Nhật không hơi đâu nói chuyện với một tên Việt gian như ngươi.
- Ta không thèm xin tha mạng, mà trước khi bị các người giết, muốn khuyên Khoá Kiệt một câu.
- Có việc gì cứ nói, tôi sẽ báo lại cho ông ấy.
Cao Lộng ngẩng cao đầu, bình thản nhấn mạnh từng tiếng như thể lão ta mới là người tuyên án:
- Cái thứ cách mạng hão huyền của những kẻ hủ nho như Khúc Kiệt trước sau cũng tan thành mây khói mà bản thân hắn cũng không tránh được hình phạt treo cổ. Hãy nhớ  lấy lời Cao Lộng này.
Lại Xuân Kiên tái mặt, hối hận vì chót để cho tên cáo già nói lời cuối cùng lăng nhục Cách mạng, anh ta lập bập hô:
- Tất cả lên đạn !
Tiếng khoá nòng nghe có vẻ không đều lắm vì năm chiến sỹ áo Đen sử dụng bốn loại súng khác nhau. Có khẩu đã han gỉ kéo mãi mới bật được chốt an toàn.
- Bắn !
Một loạt tiếng nổ lẹt đẹt như pháo. Đạn bay chiu chíu cắm phầm phập vào thân cây gạo sau khi xuyên qua ngực và bụng nạn nhân. Viên chánh tổng chết ngay, đầu gục xuống một cách miễn cưỡng, mái tóc muối tiêu ướt đẫm máu, chảy thành vệt, nhuộm đỏ dưới gốc cây. Từ ngõ nhà trương Hoà, bà vợ bé Cao Lộng tóc tai bù xù vừa gào vừa khóc vừa chửi ba đời Khúc Kiệt là kẻ sát nhân, mấy chiến sĩ áo đen túm áo giữ lại nhưng không ăn thua. Mụ ta lồng lộn như con thú dữ đã trúng thương, cắn vào tay một đội viên rồi xé quần áo nhảy xuống ao Quan.
Phía cổng làng rộ lên một loạt súng. Bọn Nhật bắn đầu khai chiến. Mặt trời lên chừng nửa con sào. Trên cao, một đàn sếu xếp thành hàng mũi tên bay chếch về hướng đông nam. Con đầu đàn có bộ lông trắng như lông thiên nga đang nhịp nhàng vỗ cánh dẫn đường chợt loạng choạng rơi khỏi đội hình theo chiều thẳng đứng. Lúc ấy giờ mới có tiếng súng trường dội về. Một tên Nhật nào đó chơi trò tâm lý bắn chim trời để chứng tỏ tài thiện xạ của lính Thiên Hoàng. Đứng trên tầng hai nhà chánh Đàm, phó hội Hạp xuýt xoa thán phục:
- Các quan Nhật bắn giỏi thế kia bọn lính áo Đen của Khoá Kiệt chỉ có nước về chầu ông vải.
Lúc này bà cả Huê đang bị giam trong hậu cung đình Cả. Ngôi nhà hai tầng kiên cố như một pháo đài lại là nơi tránh đạn của cả làng. Khúc Luận mang cơm cho mẹ Cả, nhìn thấy Khúc Kiệt, mắt nó ánh lên những tia căm thù. Cậu ta vẫn còn là trẻ con chưa hiểu sự đời.
Bên ngoài, những con ngựa chiến của quan binh Phù Tang phi như điên dọc theo các bờ ruộng hướng tây nam, thỉnh thoảng lại nổ một phát súng uy hiếp tinh thần đối phương. Trung uý Hirôsi, thanh kiếm dài kéo lệt sệt, thỉnh thoảng lại chạm lách cách vào chiếc ủng da bóng lộn, cao quá đầu gối mà người lại thấp, thành ra mỗi bước đi của hắn đều giật cục chẳng khác gì thằng đánh gậy. Hắn quen đi ngựa, và lúc xuất trận, người ngựa gắn thành một khối vững chắc, tha hồ tung hoành trên chiến địa, vung kiếm tàn sát kẻ thù. Đem quân về làng Cùa theo lệnh quan tư Yamađa, Hirôsi gặp phải một địa hình rất khó chơi. Đó là một làng cổ An Nam được vây bọc chung quanh bởi luỹ tre gai dày đặc và một hệ thống ao chuôm liên hoàn hạn chế tối đa tác dụng của kỵ binh. Hắn đã tác chiến ở hầu hết các quốc gia Đông Nam á, đã từng khuất phục người Tân Gia Ba, đè bẹp sự kháng cự của các tín đồ thiên chúa giáo Phi Luật Tân, ruổi ngựa trên thảo nguyên mênh mông của vương quốc Mãn Châu ăn bánh ngô với nước sốt thịt cừu pha rượu hồ đào, và cuối cùng là những cô gái xinh đẹp da vàng xứ Mã Lai thơ mộng. Tất cả những vùng đất đạo quân của Hirôsi đi qua đều đặt được nền thống trị của Thiên Hoàng. Vậy mà đến xứ Bắc Kỳ có vẻ như tình hình không được thuận buồm xuôi gió bởi sự bất lực của chính quyền Nam  triều, sự cản trở của bọn Pháp bại trận và lũ dân đen bị chủ nghĩa Cộng sản mê hoặc. Điển hình là cái làng này. Không khó khăn lắm những kỵ binh thiện chiến của Hirôsi đã phá được cổng làng. Cánh cửa vừa đổ sập xuống lập tức một loạt đạn súng trường mútxcơtông hạ gục hai tên võ sĩ đạo. Viên quan hai khoát tay ra hiệu cho tên lính có bộ ria nhọn nhưng đầu trọc lốc mang trung liên đặt trước cổng. Khẩu súng nòng dài, miệng loe nổ liên hồi kỳ trận khạc ra hàng tràng đạn theo hình cánh quạt bay chiu chíu vào làng. Phía cổng hậu, bọn Nhật cũng đã mở được đột phá khẩu. Khẩu trung liên thứ hai do một tên cai gầy nhằng vừa khai hoả được một lúc thì bị Lại Xuân Kiên từ góc bếp nhà Ba Vếnh tương cho một phát súng "dóp" trúng đầu. Hàn Hành rê nòng khẩu súng kíp, ngắm thật kỹ rồi mới xiết cò. Đạn ghém quả là thứ vũ khí lợi hại. Mấy tên lính thập thò ở mép tường rào đều bị dính đòn phải rút ra ngoài không kịp kéo khẩu trung liên. Lại Xuân Kiên mừng quýnh khi tịch thu được khẩu liên thanh cùng mấy băng đạn vàng choé. Các đội viên nhìn khẩu súng với thái độ vô cùng kính trọng nhưng rất tiếc là không ai biết sử dụng. May có Hàn Hành võ vẽ đôi chút vì cách đây ít lâu, ông ta mua được khẩu tiểu liên của Pháp cho Đoàn thể. Mầy mò một lúc rồi Hàn Hành cũng bắn được. Ông ta đặt khẩu súng ở sân nhà Phó Đát. Tại vị trí này có thể khống chế được khu cổng hậu. Thằng nào lớ ngớ thò mặt vào là nổ súng.
Đội kỵ binh của Hirôsi vừa đánh vừa thăm dò đã vào gần giữa làng. Bảy đội viên áo đen thiệt mạng, Khúc Kiệt bị một vết kiếm chém sượt cánh tay trái nhưng chỉ vào phần mềm không nghiêm trọng. Điều tệ hại là họ sắp hết đạn, mà giao đấu tay đôi với bọn lính Thiên Hoàng thì phía ta hoàn toàn bất lợi. Chúng phần lớn là những tay thiện chiến , trình độ kiếm thuật cực kỳ điêu luyện. Dao chín, mã tấu và mác búp đa khó có thể thắng được thứ kiếm Lưu Cầu vừa dài vừa sắc như nước của đạo quân viễn chinh với tinh thần võ sĩ đạo và học thuyết Đại Đông á làm tư tưởng chỉ đạo. Bị đẩy bật khỏi cổng hậu, sau một trận hỗn chiến, Hirôsi tập trung hoả lực vào hướng đông bắc. Phía này ít chướng ngại vật, đường làng rộng có thể đưa kỵ binh luồn theo các ngõ hẻm mà Ngô Quỳnh đã chỉ điểm đánh vào sân đình tiêu diệt đại bản doanh của quân áo Đen. Khúc Kiệt ra lệnh cho anh em tiết kiệm đạn, chỉ nổ súng khi địch đã đến gần nhằm kéo dài trận đánh đến đêm. Bọn Nhật chiếm dần từng căn nhà một. Đây đó đã có một vài đám cháy không hiểu lính Thiên Hoàng đốt hay quân của Khúc Kiệt nghi binh. Phía cổng lớn vọng về tiếng gào khóc rất thảm thiết. Đó là nhà Trương Dật gần giếng làng. Dật có hai con gái, đứa lớn mười bảy, đứa nhỏ mười lăm. Khi bọn Nhật vào đến cổng hắn đang bê nồi cám cho lợn ăn. Tên lính mặt sẹo có cái mũi hếch vẫy tay nói một tràng líu lô như khướu hót tồi chỉ tay ra cổng. Dật chẳng hiểu tên Nhật nói gì, sợ quá quăng nồi cám ù té chạy. Tên thứ hai đảo mắt nhìn quanh rồi nâng súng nhằm Dật bóp cò. Máu từ ngực anh ta trào ra ướt đẫm tấm áo cộc vá chằng vá đụp. Cái Là cái Lượt vội đẩy cửa nhào ra. Nhìn thấy gái, mắt hai thằng Lùn ánh lên những tia man rợ như thú dữ nhìn thấy con mồi. Cả hai thằng đều quăng súng vồ lấy thị Là, thị Lượt, xé toang áo, lột váy trong trạng thái hoàn toàn điên loạn. Trước khi bị hiếp, Thị Lượt cắn vào tay tên mặt sẹo. Vết cắn khá đau làm tên này nổi đoá bạt tai nó mấy cái nổ đom đóm mắt rồi bế xốc đến gian bếp bẩn thỉu ngập ngụa những rơm rác lẫn với đầu mẩu khoai lang. Thị Là khoẻ hơn bị tên Nhật khoá cứng hai tay. Hắn đã tốc ngược váy của nó lên đến ngực,chỉ còn vướng chiếc thắt lưng da quân dụng ngang lưng nên phải thả lỏng một tay. Vào lúc tên Nhật còn đang loay hoay với chiếc khoá đồng, Thị Là quài tay vớ được con dao cau vẫn để trong rổ con mà trong lúc thị Lượt giằng co với tên giặc Lùn bị hất ra ngoài. Nó lén đẩy con dao vào dưới hông xong nhẹ nhàng vuốt lưng thằng kỵ binh như là một cử chỉ âu yếm. Tên võ sĩ đạo vòng tay ôm ngang sườn thị Là, cà hàm sâu chổi sể vào mặt nó chuẩn bị cho hành động đốn mạt. Trong khi tên Nhật sờ soạng vào bẹn thị Là thì nó giả vờ mân mê chiếc dương vật cứng ngắc làm hắn như mê đi. Đúng lúc ấy một nhát dao sắc ngọt lia ngang bằng tất cả lòng căm thù của một thiếu nữ bị sỉ nhục, cứa đứt đôi "của quý" của gã quỷ lùn. Hắn thét lên một tiếng khủng khiếp chẳng khác gì tiếng gầm của loài mãnh thú đột ngột sa bẫy. Tên mặt sẹo đang cơn hoan lạc trên cái cơ thể trần truồng gần như bất động của thị Lượt, nghe tiếng thét kinh hoàng vội bật dậy, lập cập mặc quần rồi chạy ra sân vồ lấy súng. Thằng bạn hắn đang lăn lộn giữa sân ôm lấy cái bẹn nhoe nhoét máu. Hắn điên tiết kéo khoá nòng xả đạn vào hai chị em Thị Là, thị Lượt vẫn còn trong tình trạng loã lồ.
Hirôsi rút đám kỵ binh bên ngoài bổ sung cho hướng tấn công chính. Quân Nhật đã vào được nhà chánh Đàm. Ngô Quỳnh lúc này đã lẻn về nhà làm nội ứng cho quân Nhật thông qua gã phiên dịch người Nam Bộ. Khẩu trung liên của Hàn Hành hết đạn thành vô tác dụng. Ông ta quẳng nó xuống ao sau đó luồn theo đường chùa Hà về đình Cả, nhưng vừa ra khỏi vườn nhãn thì bị một tên Nhật bắn vào chân. Viên đạn xuyên qua đầu gối làm hàn Hành khựng lại rồi ngã. Lý Quỳnh lập tức cho giải ra gốc gạo trình với Hirôsi. Viên quan hai hỏi:
- Các ông có bao nhiêu quân ?
Hàn Hành liếc nhìn tên Nhật cười gằn:
- Nhiều lắm, đếm không hết.
Hirôsi lại hỏi:
- Chắc là quân áo Đen sắp hết đạn phải không ?
Hàn hành quắc mắt:
- Còn đủ đạn chiến đấu với giặc Nhật đến người cuối cùng.
-Nếu ông chịu đầu hàng, hợp tác với quân đội Thiên Hoàng thì tôi sẽ đảm bảo tính mạng - Hirôsi đề nghị.
-Người Cách mạng không bao giờ phản bội đồng chí của mình. Ta thà chết chứ không thèm làm việc đê tiện ấy.
- Vậy thì được. - Tên quan hai hất hàm bảo gã thông ngôn - Hỏi ông ta có dặn gì gia đình trước khi chết không ?
- Ta biết chắc quân đội Nhật sẽ bại trận và đấng Thiên Hoàng đáng kính của nhà ngươi sẽ phải lên đoạn đầu đài.
Nghe đến tiếng cuối cùng tuy gã thông ngôn chưa kịp dịch hết ý, Hirôsi đã rút kiếm bên sườn vung lên, bằng động tác chuẩn xác với kỹ thuật hành hình điêu luyện, trong chớp mắt đầu Hàn Hành đã lìa khỏi cổ. Hirôsi lau kiếm vào chiếc quần đi ngựa, nhét vào bao rồi bảo tên thượng sĩ mang cặp kính dày cộp như đít chai, khoác tiểu liên đứng bên cạnh:
- Về phía cổng phụ truyền lệnh cho thiếu uý Mátsumôtô bao vây chặt đoạn mương nước không cho bọn Cộng sản trốn thoát. Từ giờ đến tối là phải giải quyết xong lũ phiến loạn.
Lúc này đội quân áo Đen đã bị tổn thất khá nặng. Lại Xuân Kiên bị đạn vào cằm vỡ quai hàm. Anh ta nhổ ra mấy chiếc răng gẫy dính máu, loạng choạng được vài bước rồi phủ phục xuống góc bếp nhà chưởng bạ Giang. Những đội viên còn lại rút về hướng đình Cả. Hirôsi cho lính kéo khẩu trung liên vào sân nhà Khúc Đàm xoay nòng bắn sang nhà Khúc Kiệt. Bà vợ ốm yếu của ông ta loạng choạng đứng dậy chạy ra ngoài, bị dính đạn ngã sóng soài xuống nền nhà. Khúc Vĩ hoảng quá nhảy quáng quàng xuống ao, một lúc sau ngoi lên bị tên lính đeo kính  cận xả một băng tiểu liên chết ngay tại chỗ. Khúc Văn lúc ấy đang ở ngoài đình. Khúc Thị Nhân, Khúc Thị Nghĩa, Khúc Thị Lễ trong lúc bối rối chẳng biết làm thế nào đành chui xuống gầm giường, nằm nín thở phó mặc số phận cho thần may rủi. Mái nhà lợp rạ bén nửa, bùng lên, trong khoảnh khắc đã thành một đám cháy lớn. Khói đen cuồn cuộn bốc lên, rui mè nổ lốp bốp như pháo đùng ngày tết.
Phía bên kia ao, nhà Cả Phê cũng đang cháy ngùn ngụt. Ngọn lửa bỏng rát, nóng hầm hập, liếm lem lém vào mái bếp, thiêu trụi đống rơm rồi há cái mõm đỏ lòm phun phè phè vào chái nhà Hai Doạc. Đám cháy khủng khiếp lại được những ngọn heo may đầu mùa tiếp sức thành trận địa liên hoàn như con rắn lửa khổng lồ huỷ diệt tất cả những gì nó gặp trên đường. Trời tối hẳn, làng Cùa trở thành biển lửa sáng rực như ban ngày. Khắp nơi đâu đâu cũng dậy lên tiếng la ó, gào thét lẫn với tiếng khóc thảm thiết. Lũ chim sẻ, chào mào, bồ các, thậm chí cả những gia đình quạ vẫn tá túc trên luỹ tre gai, giờ bay tán loạn, kêu quang quác vì mất tổ. Một đàn liếu điếu không chịu nổi đám khói dày đặc, khét lẹt, lao vút lên cao, bay loạn xạ như thể làng Cùa sắp đến ngày tận thế. Một con sẻ đồng lạc đàn, bay qua ao nhà Cả Phê định thoát khỏi làng nhưng lập tức bị rơi xuống đám lửa đang cháy rần rật của ngôi nhà phó lý Dần.
Đội quân áo Đen sau một ngày quần nhau với Nhật còn không quá hai chục người. Khúc Kiệt tập trung anh em lại phổ biến kế hoạch rút lui khỏi làng bằng đường thuỷ. Họ lợi dụng trời tối, trườn xuống ao đình, theo ngòi Mác ra ao Quan rồi vào rừng Hóp. Rừng Hóp kề ngay đầm Ma, địa hình hiểm trở, có thể tạm thời ẩn náu, chờ quân Nhật rút đi.
Gần sáng, khi lý Quỳnh dẫn Hirôsi và hơn chục tên Nhật vào đình Cả thì Khúc Kiệt và những đội viên áo Đen còn lại đã vượt vòng vây thoát ra rừng Hóp để lại khá nhiều xác chết. Cánh cửa hậu cung vừa bật mở, mọi người vội vàng bịt mũi khạc nhổ vì thứ mùi xú uế nồng nặc bay ra từ đống phân và bãi nước tiểu ngang dưới bệ thờ. Bà cả Huê tóc tai rũ rượu như một con điên, cặp mắt long sòng sọc, mồm lảm nhảm chửi ông em chồng bằng thứ giọng thều thào của kẻ sắp chết đói.
Hoả hoạn do quân Nhật gây ra thiêu trụi quá nửa làng Cùa nhưng chính Hirôsi cũng phải trả giá đắt vì sáu lính Thiên Hoàng tử trận và năm tên khác bị bỏng nặng. Sau cuộc hỗn chiến, hắn không còn đủ lực lượng truy đuổi đạo quân của Khúc Kiệt đành phải tạm thời rút về Phú Xuyên. Khắp làng chỗ nào cũng thấy những đụn khói xám đục bốc lên. Đó là những đống rui mè, kèo cột hoặc gióng chuồng trâu còn đang âm ỉ cháy. Năm gian nhà tranh của Khúc Kiệt được anh em áo Đen dựng lại cách đây chưa lâu giờ chỉ còn là đống tro tàn. Khúc Thị Lễ, Khúc Thị Nghĩa gần như bị nướng chín cùng với con chó vằn khi mái nhà bén lửa sập xuống đè gẫy chiếc trường kỷ bằng trúc. Khúc Thị Nhân may mắn thoát được do lách qua khe vách gian buồng nhưng bị lửa bén trụi sạch tóc. Cô ta phải lấy khăn vuông quấn đầu mới dám ra đường. Bà mẹ chết từ chiều hôm trước, người mỏng như tờ giấy, lạnh cứng, mắt trợn trừng trừng, Nhân phải vuốt ba lần mới khép lại. Khúc Vĩ vẫn còn chìm dưới ao. Chỗ bị thương cả bầy đỉa bám vào hút máu. Con nào con ấy no căng. Nhân không còn đủ sức kéo xác anh lên bờ. Cô ta ngồi bệt xuống đất, vuốt tàn than bám vào cái đầu lởm chởm, thở hổn hển. Đôi mắt ráo hoảnh gần như vô cảm. Có lẽ nỗi mất mát quá lớn làm người con gái mới mười bảy tuổi này bị sốc nặng, không thể khóc được.
Lý Quỳnh không thể ngờ mình cúc cung tận tuỵ phục vụ các quan Nhật mà vợ con ông ta lại chết cháy do chính quân đội Thiên Hoàng gây ra. Ngay từ sáng sớm, khi biết tin Hirôsi đem đội kỵ binh về, lý  Quỳnh đã cấm vợ con ra ngoài. Đề phòng Khúc Kiệt cho lính áo Đen sát hại người nhà, trước khi tìm cách bắt liên lạc với quân Nhật, ông ta đã nhốt họ vào buồng, khoá lại, sau đó đóng chặt cổng, quấn thêm mấy vòng dây xích cho chắc. Cẩn thận quá hoá ra lại hại chính mình. Lửa từ hướng đông bắc sau khi thiêu huỷ toàn bộ dinh cơ nhà cả Phê, nhanh chóng lém sang chái buồng nhà Ngô Quỳnh. Khói đặc sệt bị áp lực của hoả thần, chảy vào tất cả mọi ngóc ngách như những chiếc vòi bạch tuộc trắng nhợt, đùng đục hoặc vàng nhạt, toả mùi khét lẹt làm bất cứ ai ngửi phải cũng ho sặc sụa. Mấy mẹ con bà Lý không chịu được khói, tìm cách phá cửa buồng, nhưng bộ cánh bằng lim lõi, lắp bản lề ngược, lại khoá ngoài thành ra cứ trơ trơ chẳng suy suyển gì. Tiếng gào của họ bị chìm trong tiếng súng liên thanh cùng với tiếng lửa réo của hàng trăm ngôi nhà đang cháy tạo thành thứ tiếng động hỗn tạp, có lúc ù ù như xay lúa, có lúc lại đùng đoàng như sấm tháng tư. Xét đến cùng, trong cơn khổ nạn này, không một người dân lương thiện nào ở làng Cùa còn đủ tâm trí lo cho tính mạng người khác ngoài bản thân mình. Vợ con lý Quỳnh chết vì khói trước khi sức lửa giải phóng cánh cửa gỗ lim. Họ ngồi bên nhau theo đủ các tư thế. Tất cả các gương mặt nạn nhân đều xám ngoét vì tức thở, cặp mắt mở trừng trừng thảng thốt trong nỗi kinh hoàng tột đỉnh.
Mấy anh em trương Kiệm xóm Cầu Đá, lúc nhà mới bén lửa còn gọi nhau múc nước giếng Bụt té lên. Sau lửa cháy rát quá không ăn thua đành phải bỏ. Lửa ba bề bốn bên, nóng như lò bát quái. Ngoài đường súng nổ lẹt đẹt lúc thưa lúc nhặt. Đàn bà, trẻ con chạy quáng quàng như kiến bò trong chảo, chỗ nào cũng gặp lửa. Cái giếng đã cạn. Chẳng ai bảo ai đều tranh nhau nhảy xuống, chỉ một loáng đã chật cứng người. Giếng hẹp và sâu hơn hai mét, chung quanh ghép đá ong gần như thẳng đứng, cầu múc nước lại hẹp, đông người xô đẩy chen chúc, ai cũng muốn có chỗ của mình, thành thử một số đứa trẻ bị ngạt thở. Tình trạng lộn xộn đến mức, người khoẻ dẫm lên đầu người yếu, hy vọng kiếm chút không khí trong lành. Trên cao, khói cháy nhà vẫn chảy cuồn cuộn, lúc này tựa như không phải lửa sinh ra mà là từ dưới đất chui lên. Nhưng đụn khói dày đặc nóng bỏng với đủ các hình thù kỳ dị bò vào miệng giếng như một con quái vật có khả năng biến hình, phút chốc mọc ra hàng trăm cánh tay chộp lấy mấy chục nạn nhân đang ngắc ngoải bởi không còn dưỡng khí.
 (Xem tiếp kỳ sau)

                                   

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét