Đặng Văn Sinh
Từ lâu
nay Hoàn Nguyễn Maria vẫn được xem là người đàn bà làm thơ có nhiều phong cách
mà phong cách nào cũng để lại ấn tượng mạnh, tuy rằng đã hơn một lần chị có nhời với dân làng, mình chỉ là kẻ rong chơi trên miền chữ nghĩa.
Riêng tôi nghĩ, đấy chỉ là cách nói hình ảnh, còn thực chất, cái kiểu rong chơi
như Hoàn Nguyễn là nỗi khao khát cháy bỏng của không ít thi huynh, thi muội, hội viên của những hội văn chương sang trọng từ
tỉnh lẻ đến kinh thành, chỉ mong có một hai câu thơ được thiên hạ nhớ đến. Hóa
ra, cái nghiệp thi khách cũng gian truân lắm, không phải cứ nhãn mác đầy mình
là thành ngay ông nọ bà kia nếu vẫn cứ tự sướng với type thơ xay lúa ý tứ nhợt nhạt, từ ngữ mòn sáo,
cảm xúc hời hợt.
So với mảng thơ tình có yếu tố sex, hay gần hai chục bài Thị Mầu vừa chao chát vừa đong đưa, cái mà Hoàn Nguyễn gọi là thơ giỡn không phải dòng chính. Đó là loại thơ thường xuất hiện khi tinh thần Cô Dở bấn loạn hoặc tâm trạng buồn bực. Khá nhiều bài không đặt tiêu đề, thậm chí chỉ một cặp lục bát xuất thần trong khoảnh khắc, nếu không ghi kịp thời, ít phút sau là biến mất vô tăm tích.
Làm thơ giỡn không dễ, trước hết phải có khiếu
hài hước, bởi lẽ giỡn là một từ thuần
Việt có nội hàm khá rộng chỉ sự trêu đùa, châm chọc nhưng không có ác ý bởi phía sau nó là tiếng
cười dân gian có tác dụng điều chỉnh những hành vi không phù hợp với quy ước
văn hóa cộng đồng. Viết thơ giỡn lại
phải có cái nhìn tinh tế, phải tìm ra những thứ bất bình thường trong sự bình
thường của đối tượng mà người khác không thể nhìn ra. Phương tiện chủ yếu để thực
hiện hành vi giỡn là hệ thống từ ngữ
giầu sắc thái biểu cảm với tính đa nghĩa, đồng âm dị nghĩa, những từ láy đôi,
láy ba, đặc biệt từ nói lái luôn có khả năng tạo ra tiếng cười. Mục đích của
thơ giỡn là tiếng cười, nhưng không
hiếm trường hợp sau tiếng cười lại là sự ấm ức, đôi khi cả tiếng khóc nữa.
Đọc rồi mới biết,
thơ giỡn của Hoàn Nguyễn đã đạt đến độ
tinh quái vì Cô Dở có một kho từ vựng
phong phú đến mức bất cứ ai cũng thèm muốn. Đây chính là nguồn nguyên liệu tuyệt
hảo để khi cần sẽ gọi ra dễ như lấy đồ
trong túi, chẳng hạn vắt veo, thim thíp, tửng
từng tưng, lửng lừng lưng, mọng mòng mong, nõn nòn non, già ắc già ơ, tích tình
tình tang…Tuy nhiên, vấn đề ở đây là, Hoàn Nguyễn đã vận dụng hệ thống từ
loại khá hiếm hoi này đặt vào từng văn cảnh, từ đó nảy sinh những tình huống
khiến người đọc phải bật ra tiếng cười. Một trong những đặc trưng ở thơ giỡn
Hoàn Nguyễn là giễu cợt loại người trí tuệ nông cạn, phông văn hóa mỏng nhưng lắm
tham vọng, lúc nào cũng nghĩ mình là rốn
vũ trụ. Sự đối lập giữa nội dung và hình thức ấy, trước đám đông, rất dễ trở
thành lố bịch. Bài Giỡn có thể xem
như một thể nghiệm, tuy chỉ hai cặp lục bát bẻ dòng theo kiểu thơ bậc thang
nhưng lại thừa thãi yếu tố bi hài:
Cho anh
mượn
cái
đàn bà
Làm thơ
giết
mấy gã ba hoa
tình
Rồi còn
riêng mỗi đôi mình
Tha hồ
mà lại tính tình
tình tang
Theo văn bản
thì đây là một đấng mày râu muốn mượn cái
đàn bà của người phụ nữ, làm thơ giết
mấy gã ba hoa. Nhưng thật ra đó chỉ một hình thức thác lời của thi pháp ca dao
để làm nhẹ bớt sự khiêu khích, vì rằng
người làm thơ để giết ai đó không phải nam nhân mà chính là cô gái kia. Có thể nói, cái đàn bà ở đây đã trở thành vũ khí lợi
hại của phái đẹp, một kiểu ẩn dụ thông minh đặt trong sự tương quan với mấy gã ba hoa. Theo tôi, cái đàn bà ở đây được xem như là sự sáng
tạo độc đáo của Hoàn Nguyễn mang yếu tố hài hước. Nó vừa nghiêm túc vừa giễu nhại,
ám chỉ một thứ quyền năng phái yếu, vượt lên trên thói nữ nhi thường tình có đủ
bản lĩnh điều trị những anh chàng dở
người làm thơ lăng nhăng như cách đây hai trăm năm, nữ sĩ họ Hồ đã ghẹo dám nột nho(1) tinh tướng:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Thật ra, làm
thơ tán gái không có tội tình gì, đáng yêu là khác. Ở thời trai trẻ, gã đàn ông
nào chẳng có một lần lén lút nhét thơ vào cặp sách bạn gái mà anh ta si mê.
Nhưng chuyện ngược đời là ở chỗ, thời nay còn vô khối ông đạo mạo U60, U70 thậm
chí U80 vẫn tiếp tục làm thơ con cóc ve vãn người đẹp một cách trơ trẽn mà lúc
sinh thời, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp gọi là
đám giặc già lăng nhăng thơ phú(2).
Đây cũng là nguyên nhân khiến tác giả dẫn hai cặp lục bát trứ danh để minh họa
quan điểm của mình tuy có hơi tục một chút: Vợ
tôi nửa tỉnh nửa mơ/ Hôm qua nó bảo: Dí thơ vào l…/ Vợ tôi nửa dại nửa khôn/
Hôm nay lại bảo: Dí l… vào thơ!(3).
Hoàn Nguyễn nhẹ nhàng hơn. Chị gọi các thi
nhân đáng kính này là trống bỏi, tuy không nói trắng ra nhưng ai cũng hiểu nó
xuất phát từ câu thành ngữ già chơi trống
bỏi và hệ lụy không thể tránh khói là những vụ scandal tình ái khiến không
ít gia đình tan nát vì…thơ! Cho nên nữ sĩ mới ngầm cảnh báo để đám giặc già kia hãy tỉnh ngộ, nếu không sẽ
thân bại danh liệt bởi chứng bệnh nan y ba
hoa tình. Nhưng sự đời lắm nỗi éo le, bởi lẽ, tham vọng của các nhà không dừng lại ở chuyện tình tang mà họ còn muốn lưu danh muôn
thuở trên thi đàn bằng thứ văn vần lòng thòng như rau muống bè, kẽo kẹt chẳng
khác gì xay lúa. Có những vị thi hứng tràn trề in vài tập một năm, bỏ tiền thuê
viết phê bình, mở hội thảo, đăng báo rùm beng rồi tìm mọi cách, kể cả đi đêm để có được tấm thẻ hội viên. Sau
khi trở thành nhà chính danh, phong
cách lập tức thay đổi. Các ông thì tóc dài chờm vai, mỗi tuần nhuộm một lần, hễ
ra đường là áo đũi khuy tầu hoặc complét cravate. Các bà, các mợ thì son phấn
lòe loẹt, váy lửng, giày cao gót, giọng khinh khỉnh coi thiên hạ đếch ai bằng
mình. Lại còn có ông vác hẳn tập giáo trình
dày cộp kèm theo sơ đồ minh họa với đủ thứ tim gan phèo phổi, da dẻ
xương cốt rậm rạp như tán cây cổ thụ lang thang khắp đông đoài dạy đám văn nhân
tỉnh lẻ háo danh làm thơ. Cứ đà này chả mấy chốc xứ Đông Lào sẽ có rất nhiều
thi sĩ tầm cỡ Nobel nếu các học viên thuộc nằm lòng lý thuyết vàng ngọc của ông
thầy trứ danh kia. Cho nên ta cần phải
hiểu câu làm thơ giết mấy gã ba hoa tình
như một cách phúng dụ về hiện tượng lạm phát thơ kém chất lượng, là một loại
rác văn hóa cũng độc hại không kém gì rác thải công nghiệp. Thế nhưng, đến hai
câu sau thì tình hình khác hẳn, không khí hài hước mở ra với biên độ khá rộng
sau khi chàng dùng vũ khí cái đàn bà thanh tẩy được thứ thơ tán
gái (hoặc chim giai), trả lại môi trường trong lành, lúc ấy mới là hoàn cảnh lý
tưởng cho sự sáng tạo nghệ thuật:
Rồi còn riêng mỗi đôi mình
Tha hồ mà lại tính tình tình tang
Đọc đến đây
khó ai nén được nụ cười bởi sắc thái giễu cợt của mấy từ hóm hỉnh tính tình
tình tang như là lời kết cho bài lục bát mang âm hưởng giỡn.
Cũng vẫn là
thơ nhưng đôi khi thật oái oăm. Không hiếm thi nhân mà Hoàn Nguyễn gọi một cách
mỉa mai là trống bỏi còn có biệt tài sờ thơ. Trong tiếu lâm mới chỉ thấy anh mù ngửi thơ chứ chưa thấy anh sáng sờ thơ bao giờ. Có thể xem đây cũng là một
từ bản quyền của Cô Dở:
Có ông già ắc già ơ
Khen thơ thì dở sờ thơ thì tài
Không cần nói
cũng biết đây là thơ trào phúng dành riêng cho những thi hữu có sở thích bình
thơ bằng …tay! Mà đã dùng xúc giác thẩm định
thơ thì làm quái gì còn sự tao nhã của khách văn chương. Cái khéo của Hoàn Nguyễn
là cắt đôi ắc ơ rồi dùng từ già chèn vào tạo nên tổ hợp già ắc già ơ để chế giễu sự kệch cỡm của những lão già cốc đế nhân
danh thơ để tán tỉnh chị em.
Tài giỡn của Hoàn Nguyễn không chỉ ở lĩnh vực
văn chương. Bất cứ nơi nào có sự trái tai gai mắt đều không thoát khỏi tầm ngắm
của chị kể cả tầng lớp tăng lữ Phật giáo. Ở thời mạt pháp, xuất gia là cách làm
giầu nhanh nhất, không ít hương tự trở thành nơi hành lạc của những kẻ trốn việc quan đi ở chùa, thì cái đường tu ấy ắt phải là tu hú:
Nghĩ cái đường tu cũng vắt veo
Lắt léo vần xoay đến lộn lèo
Trở gió tu thành ma phá giới
Chũm choẹ tang tình móc kẽ rêu
Những từ vắt veo, lộn lèo, ma phá giới, móc kẽ rêu, chũm chọe
được đặt vào không gian trang nghiêm, tĩnh lặng nghe sao mà nặng mùi tình dục,
báng bổ thánh thần. Là bởi chùa từ lâu đã thành tụ điểm hành nghề mê tín dị
đoan như dâng sao giải hạn, cúng vong oan gia trái chủ, hay làm bùa chú trừ ma
quỷ, còn các đại đức, thượng tọa thì ngồi xế hộp Mercedes bạc tỷ, tay đeo đồng
hồ Rolex vài trăm triệu còn túi cà sa nhét smartphone bằng cả một gia tài người
nghèo.
Nói đúng ra, Tu hú là bài tứ tuyệt nhị thủ, tuy không
phải thơ Đường nhưng cấu trúc chặt chẽ, ý tứ lấp lửng, đặc biệt là cách sử dụng
lớp từ láy sáng tạo có khả năng làm gia tăng hiệu quả thẩm mỹ. Sư đã vậy, còn
các bà vãi, nhất là loại vãi non ngứa nghề
thì sao? Xin thưa, Hoàn nguyễn cũng không tha. Vẫn với giọng đùa giỡn, chị phác
thảo bằng thứ ngôn ngữ hoạt kê chân dung một nữ phật tử:
Loạng choạng vãi lần tràng hạt son
Đường tu lắt léo biết vuông tròn
Đảo tay phẩm oản im thim thíp
Ngán cái tu hành rất dở dom
Là cây bút đa năng, Hoàn Nguyễn đã có lúc thử sức mình ở cả mảng thơ Đường và thơ xướng họa mang tinh thần giỡn từ đầu đến chân. Thơ Đường chỉ mấy bài, chị làm vì danh dự. Tôi đã đọc và thật sự kính phục bởi ngọn bút tài hoa chẳng những ở kỹ thuật gieo vần, niêm luật đăng đối mà còn tái hiện được không khí Đường thi trung đại khiến đối tượng từng miệt thị Cô Dở im hơi lặng tiếng:
Xuân đã gần kề anh biết không?
Hơi đông lành lạnh thắt se lòng
Nụ đào còn ngậm - hương mùa đợi
Ánh nắng chưa về - sợi tóc hong
Bên cửa sương mờ - theo gió tạt
Tàn đêm gối lạnh - lệch đèn chong
Bâng khuâng tìm lại dư âm cũ
Cho thỏa tình xưa ngỏ mắt mong
Còn đây là bài họa lục bát của một nhà thơ tên
tuổi. Bản liệt kê dụng cụ nhà bếp chỉ là màn dạo đầu cho trò diễn hấp dẫn khi
mà tác giả tìm cách ghép được từ lục bát
là thể loại thơ truyền thống của dân tộc với hành động lục xoong nồi bát đĩa dựa
vào hiện tượng đồng âm. Nhưng tài tình hơn cả là ở công đoạn Hoàn Nguyễn khai
thác triệt để tính đa nghĩa của từ lục hồn
có vần ồn lấp lửng ngầm hướng người đọc
tưởng tượng đến thứ ngoài văn chương nếu thay đổi phụ âm đầu:
Lục bát, lục đĩa, lục mâm
Lục xoong, lục chảo, lục ăn... đầy mồm
Lục xong nổi hứng bồn chồn
Liêng biêng lại muốn lục hồn... xem thơ
Xưa nay, họa
thơ nguyên vận vốn đã khó, họa mà kết hợp được cả kỹ năng chơi chữ lại càng
khó. Vậy mà Cô Dở còn làm được hơn thế,
đấy là chưa tính đến cái từ láy liêng
biêng cũng rất đáng được bàn thêm.
Cũng vẫn vần ồn rất đáng ngờ luôn ám ảnh đấng mày
râu, nhưng ở bài không đề này, tác giả
lại hướng sự đùa bỡn đến những đối tượng khác như một thông điệp ngầm cảnh báo
trò ném đá giấu tay của những ai đó mà mình không cần chấp nhặt:
Chuyến phao bìu ríu đảo điên
Gió thông thốc phút lộ thiên hiện hồn
Em che sao nổi sóng dồn
Chị không chấp thứ sồn sồn đâu em
Bìu ríu, đảo điên, sồn sồn đều là những
từ láy có khả năng phát sinh nghĩa mới khi được đặt vào văn cảnh khác nhau. Nó
cũng thể hiện một thái độ, một cách ứng xử của chủ thể nhưng không gay gắt dữ dội
khiến đối tượng được nhắc đến phải nghiêm túc suy ngẫm hướng đến thay đổi hành
vi.
Phải nói rằng,
Hoàn Nguyễn khá có duyên với những vần
được xem là nhạy cảm trong ngữ âm, chẳng thế mà vần ồn được khổ chủ nhắc đi nhắc
lại nhiều lần:
ngờ đâu
ra cái vạ vơ
cõi người đưa đẩy
câu thơ đẫm buồn
buồn rồi ớ ẩn
mất khôn
mất khôn
Dở muốn tãi hồn ra phơi
Đành rằng là
nói thậm xưng, nhưng ai dám chắc thứ của lạ tãi
hồn ra phơi kia là của riêng Hoàn Nguyễn. Phơi hồn đã là một sự trái khoáy vạy đuôi rồi nhưng tiếng Việt vốn
đa nghĩa và trường liên tưởng thì vô tiền khoáng hậu, thôi thì tùy các bác, muốn
hiểu thế nào thì hiểu, miễn là ta công nhận với nhau đấy là thơ giỡn.
Hết giỡn thiên
hạ rồi đến lúc tự giỡn mình. Hóa ra Cô Dở
cũng lắm chiêu trò. Bài Đi tu là một
trong số đó. Đi tu chỉ mỗi cặp lục
bát mà khá nổi đình đám:
Em đi tu
Anh đi tu
Ước gì hai đứa thành sư một chùa
Đã mang danh
tu hú thì chuyện này cũng là lẽ thường.
Tình yêu, một mặt nhân đạo hóa con người, mặt khác lại có khả năng cải tạo hoàn
cảnh cho tốt đẹp hơn kể cả tôn giáo do chính con người đặt ra. Chớ nên lo lắng
cho thế hệ các chú tiểu, cô tiểu mới ra đời. Tương lai là của họ, do họ tự định
đoạt. Lúc ấy có khi chúng ta đã vào sáu tấm hoặc lên Đài hóa thân Hoàn Vũ. Bài
thơ như một màn kịch rất ít lời thoại mà trọng tâm là câu tám. Khi nút thắt được
gỡ ra trò diễn kết thúc làm người xem
ngỡ ngàng bởi tình huống bất bình thường mang đậm tinh thần giỡn.
Phong cách
ngôn ngữ của Hoàn Nguyễn gần như đã trở thành sự chuẩn mực của dòng thơ giễu nhại.
Với bài không đề dưới đây, người đọc nhận ra một Hoàn Nguyễn tinh quái, rõ
ràng chủ động tán giai mà lại giả bộ
như tiểu thư khuê các cấm cung thấm nhuần tam
tòng tứ đức:
Sáng nay ưng ửng nắng vàng
Gặp người tưng tửng - liếc ngang em cười
Muốn đưa đẩy gió trao lời
Mà lưng lửng thấy ngại ơi ngại à...!
Hình ảnh tưng tửng
- liếc ngang hay trạng thái tâm lý ngại ơi ngại à đều là ngôn ngữ đong đưa
của chèo, dân ca bắt nguồn từ khẩu ngữ được vận dụng một cách linh hoạt làm cho
bài thơ có hồn vía, đã đọc một lần khó có thể quên.
Khác với dòng
thơ đám đông, cứ nhắc đến CHIỀÙ là phải hoàng
hôn, khói, tím hay hoang hoải ; nói đến MƯA, NẮNG không thể
thiếu gầy ; còn HOA PHƯỢNG hay HOA GẠO
dứt khoát phải là cháy, cháy đỏ hoặc thắp lửa…, Hoàn Nguyễn tìm được lớp từ lạ của riêng mình cho dù không ít lần chị bị mất quyền sở hữu trí
tuệ như lồng tồng, mĩm cỏ, vạ vơ, bẻ cong
một câu Kiều, xoắn bóng đêm, áo mỏng phây phây, lấn bấn tim, tụt váy trời…
Để khép lại mấy
lời lan man về thứ thơ Hoàn Nguyễn gọi là giỡn
này, không gì thuyết phục hơn là dẫn ra đây đoạn lục bát trong bài Toan tụt váy trời của chị để bạn đọc xa
gần thưởng lãm:
Quên đau đi- lúng liếng phiêu
Tuột say- lấp khuyết cô liêu bến tình
Chén cay đắng- cạn riêng mình
Chén này lăn lẳn mà khinh khích cười
Với tay tụt váy mây trời
Nếu gặp cơ may được Cô Dở mời cái món lăn lẳn
ấy, liệu rằng bạn có dám nâng cốc cùng nàng?
Bến Tắm, ngày
quốc khánh Hoa Kỳ
(04.7.2021)
Đ.V.S.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét