Hoàng Tuấn Công
Hoàng Tuấn Công học chuyên
ngành Dân tộc học, khoa Lịch sử Đại học Tổng hợp Hà Nội, nghĩa là không phải
chuyên môn về ngôn ngữ nhưng lại "dám" viết hẳn cuốn sách TỪ ĐIỂN
TIỂNG VIỆT CỦA GS NGUYỄN LÂN – PHÊ BÌNH VÀ KHẢO CỨU, dày 561 trang khổ 16 x
24cm, làm các hậu duệ của cụ Nguyễn Lân nhảy cẫng lên, gây áp lực "dằn
mặt" tác giả. Còn giới chuyên môn, nhất là những nhà khoa học xu thời,
bằng cấp lởm khởm, học hàm mua, thì hè nhau ném đá để bênh vực mấy cuốn
từ điển rởm. Trong số những nhà "phản biện" trên tinh thần học phiệt
có GS ngôn ngữ học Nguyễn Đức Tồn, PGSTS. Lã Trọng Long, TSKH Phan Đình Tân, TS
Nghiêm Thúy Hằng và nhà báo Thanh Hằng, người có chiếc răng nanh gần thư thò ra
khỏi mồm, trông rất hãi. Lấy tiêu chí khoa học làm thước đo giá trị tác phẩm
biên khảo công phu này, hầu hết các nhà chuyên môn trong giới ngôn ngữ đều lên
tiếng bảo vệ Hoàng Tuấn công một cách nhiệt tình, công tâm đầy sức thuyết phục,
khiến phe học phiệt lúng túng, cãi cùn, làm trò cười cho thiên hạ. Một trong
hàng loạt bài viết có sức nặng "điểm huyệt" các nhà khoa bảng mũ cao
áo dài nhưng thiểu năng trí tuệ là của tiến sĩ Chu Mộng Long.
Tiến sĩ Chu Mộng Long chỉ ra
một hiện tượng rất đáng phê phán của giới học thuật, phần lớn các nhà khoa học
hay nhà báo viết bài "bắt lỗi" Hoàng Tuấn Công đều chưa đọc hoặc chỉ
đọc lướt tác phẩm nhưng lại rất giỏi "ăn theo nói leo" xuất phát từ
một thói quen của giới học phiệt "Tao không thèm đọc của mày nhưng tao ghét
mày vì mày dám bóc mẽ thần tượng của chúng tao".
Vì những lý do trên, tôi xin đăng
tải dần những phần quan trọng nhất của tác phẩm TỪ ĐIỂN TIỂNG VIỆT CỦA GS
NGUYỄN LÂN – PHÊ BÌNH VÀ KHẢO CỨU để bạn đọc rộng đường dư luận
Đ.V.S.
PHẦN I
PHÊ BÌNH, KHẢO CỨU
“TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM”
Nhà báo Thanh Hằng |
Sách Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS
Nguyễn Lân xuất bản lần đầu năm 1989, khi ông còn trường mạnh. Tuy nhiên, cũng
như hai cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt (1989) và Từ điển từ và ngữ Việt Nam (xuất
bản sau đó hơn 10 năm), Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân có
quá nhiều sai sót. Sai sót là thế, nhưng từ các năm 2010 đến 2016 sách vày vẫn
được nhiều nhà xuất bản tái bản với số lượng khá lớn. (Riêng Nhà xuất bản Văn
học, các năm 2014, 2015, 2016 đã tái bản với số lượng 6 ngàn cuốn).
Nguyên văn nội dung mục từ đưa ra phê bình và khảo
cứu trong sách Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân được
chúng tôi để trong ngoặc kép, sau kí hiệu “○”.
A. GIẢI THÍCH SAI CÁC SỰ VẬT, HIỆN TƯỢNG, KINH
NGHIỆM DÂN GIAN, TIỀN HẬU BẤT NHẤT
Thành ngữ, tục ngữ thường có nhiều dị bản, gần nghĩa
hoặc đồng nghĩa. Người làm từ điển có thể thu nhận tất cả để độc giả tham khảo
và chọn ra dị bản được sử dụng rộng rãi, hay nhất để giải thích. Thế nhưng,
không ít trường hợp GS Nguyễn Lân tự chữa thành ngữ, tục ngữ, hoặc phỏng đoán
theo ý chủ quan của mình, bác đi dị bản trung tâm, khiến thành ngữ, tục ngữ mất
đi cái hay, cái đẹp, sự tinh tế trong ngôn từ của dân gian:
○ “dứt dây động dừng (Có người viết và đọc
nhầm là rừng) Ý nói: chạm đến một việc nhỏ có thể ảnh hưởng đến cả một việc lớn
(Như dứt một dây ở bức vách có thể làm rung cả bức vách)”.
○ “rút dây động dừng (Dừng là cốt để trát bức
vách) Ý nói: Đả động đến điều gì thì ảnh hưởng đến điều khác (Có người nói nhầm
là: Rút dây động rừng)”.
Trong hai mục từ thuộc phần chữ cái D và R, GS
Nguyễn Lân đều khẳng định “Rút dây động RỪNG” là “nhầm”, phải là “DỪNG” mới
đúng, và giải thích “dừng” là “bức vách” hoặc “cốt để trát bức vách”. [Trong Từ
điển từ và ngữ Việt Nam một lần nữa GS lại khẳng định: “dứt dây động DỪNG (dừng
ở đây là bức vách, có người viết là RỪNG là không đúng)”]. Thế nhưng với “phát
hiện” này, GS Nguyễn Lân đã biến nghĩa đen của câu tục ngữ trở nên rất vô lý và
tầm thường hoá cách ví von, so sánh rất đắt của dân gian. Mặt khác, dù khăng
khăng “có người viết và đọc nhầm” “dừng” thành “rừng”, nhưng GS Nguyễn Lân
không đưa ra được lý lẽ chứng minh là họ đã “nhầm” như thế nào.
Nếu theo cách hiểu của GS Nguyễn Lân, xin được hỏi
về nghĩa đen: Thứ nhất, dứt dây gì ở bức vách? Thứ hai: giả sử “dây” đây là dây
buộc ở một bức vách đất bé nhỏ đã long lay (nên lòi cả dây lạt buộc xương vách
ra) người ta cầm và giật (dứt) thì việc nó “động” cũng là chuyện thường thôi.
Bởi cái dây đó ràng buộc, liên quan trực tiếp tới bức vách (mà bức vách đã
hỏng, đã long lay rồi). Nghĩa đen tục ngữ này phải được hiểu đúng ý dân gian:
“rút dây động RỪNG” mới thâm thuý. Rừng là nơi quy tụ nhiều loại cây, chia
thành nhiều tầng, nhiều tán: thảm cỏ, cây bụi, dây leo, cây thân gỗ… Ngoài thực
vật còn có muôn loài động vật, muông thú lớn nhỏ. Dây leo trong rừng có thể dài
đến cả trăm mét, luồn lách, vấn vít, đeo bám vào cây nọ sang cây kia. Thế nên,
“rút dây động rừng” có nghĩa chỉ cần rút, dứt (lấy) một cái dây leo cũng có thể
làm động cả một cánh rừng! “Động” theo nghĩa đen ở đây là làm rung đến cây
khác, đụng chạm đến thực thể khác. Dứt dây, cây động, lũ chim giật mình đập
cánh, khiến bầy nai cũng hoảng sợ, náo động... Thế là loạn cả lên, cứ như là
như động rừng vậy! Một hình ảnh ví von không gì sinh động hơn về mối quan hệ
chặt chẽ giữa cá thể này với cá thể kia trong tự nhiên và trong quan hệ xã hội
của con người. Dứt hay rút một sợi dây mà làm động đến cả cánh rừng! Tục ngữ
lời ngắn mà ý nghĩa lớn! Thế nên Tục ngữ Hán cũng có các câu: “Một cây cột bị
lay, tất cả cột kèo ngôi nhà rung chuyển [Nhất căn trụ tử động, căn căn phòng
lương dao 一根柱子動, 根根房梁搖]; Lay một nhánh mà làm rung chuyển trăm cành lá
[Nhất tiết động nhi bách chi dao 一節動而百枝搖].” (trích Tục ngữ Hán, tên
viết tắt của “Từ điển tục ngữ Hán Việt”, Lê Khánh Trường-Lê Việt Anh, NXB Thế
giới-2002), đều dùng sự so sánh một sự vật bé nhỏ nhưng liên quan, gắn bó, tác
động tới nhiều sự vật khác.
Tham khảo: Với câu “Tai vách mạch
dừng”, thì dừng ở đây lại là bức vách. Không phải “Tai vách mạch rừng”. Vì dừng
là bộ phận của vách, vách là bộ phận của ngôi nhà, nơi (theo nghĩa đen) hai
người trao đổi chuyện bí mật, riêng tư, sau hiểu theo nghĩa rộng chỉ tất cả địa
điểm khác. Địa điểm nào thì những cái có thể “nghe lén” được đều tập trung ở
xung quanh hai người. Nếu nói “Tai vách, mạch rừng” thì một là bức vách, một là
cái mạch gì đó tận trên rừng thì nghe thật vô lý. Tục ngữ gốc Hán có câu “Tường
hữu phùng, bích hữu nhĩ - 墻有縫壁有耳 - Tường có mạch, vách có
tai”. Tục ngữ Việt còn có dị bản Bờ vách có tai, bờ rào có mắt; trong đó
“tường” và “vách”; “bờ vách” và “bờ rào” cũng đều gần nhau, ở xung quanh người
nói chuyện. Nghĩa bóng: Bí mật rất dễ bị tiết lộ, ngay kể cả nơi bốn bề tường,
vách vắng vẻ, rào dậu kín đáo.
○ “đãi cát lấy vàng Ý nói ra công chọn những
điều quý báu hiếm hoi trong một đám tài liệu hỗn độn”.
Thành ngữ này vốn có hình thức là “Đãi cát TÌM
vàng”. Từ “LẤY” trong dị bản GS Nguyễn Lân đưa ra làm hỏng ý, vì chữ “lấy” đơn
giản, dễ dàng quá. Phải là “tìm” mới nói lên sự hiếm hoi, khó khăn. Mặt khác,
thành ngữ không chỉ riêng việc “chọn những điều quý báu, hiếm hoi trong đám tài
liệu”, mà nói chung việc dày công tìm kiếm, sàng lọc một lượng lớn những thứ
tầm thường, bỏ đi, để hy vọng kiếm tìm thứ quý hiếm nào đó. Nếu được phép
“chọn” như cách giải thích của GS Nguyễn Lân, có nghĩa là thứ thì đó rất sẵn,
tha hồ “chọn” lấy cái tốt nhất, đẹp nhất. Lúc này, lại phải hiểu đãi vàng cám
để lấy vàng thỏi, vàng cục, chứ không phải Đãi cát tìm vàng nữa. Mặt khác, dân
gian đâu có sử dụng, tiếp xúc với “đám tài liệu hỗn độn” như nhà nghiên cứu hay
giới trí thức, học giả để rồi dùng hình ảnh đó làm chất liệu đặt nên tục ngữ, thành
ngữ?
Tham khảo: Ở Thanh Hoá có câu Đãi cứt
chó lấy vỏ khoai, đãi cứt gà lấy mẳn. (Mẳn là hạt tấm, hạt gạo bị vỡ nát). Vỏ
khoai, hạt mẳn là thứ phụ phẩm, phế phẩm đã tận dụng cho chó, gà ăn, mà vẫn còn
tiếc, muốn “tận thu” lại một lần nữa! Từ “lấy” ở đây lại đắt hơn từ “tìm”, bởi
“lấy” thể hiện “ý tưởng”, mục đích rất rõ ràng và phải thực hiện bằng được của
anh chàng bủn xỉn, keo bẩn. Ngôn ngữ dân gian rất tinh tế, đâu có tuỳ tiện thay
đổi mà được!
○ “run như dẽ (Dẽ là một con chim hay ăn
giun, nên cũng gọi là dẽ giun. Dân gian lẫn lộn từ giun và từ run nên mới đặt
ra câu này)”.
○ “sợ run như dẽ (Dẽ là loài chim hay ăn
giun, nên gọi là dẽ giun. Ở đây, với mục đích chơi chữ, đã đồng nhất từ “giun”
và từ “run”).
Hai thành ngữ này xuất hiện trong hai mục từ thuộc
phần chữ cái R và S của cuốn sách, nhưng GS Nguyễn Lân giải thích tiền hậu bất
nhất. Ban đầu thì cho rằng “Dân gian lẫn lộn từ giun và từ run nên mới đặt ra
câu này”, đến sau lại giải thích “với mục đích chơi chữ đã đồng nhất từ “giun”
và từ “run”.
“Lẫn lộn” và “chơi chữ” là hai khái niệm hoàn toàn
khác nhau. Và điều đáng nói, hai cách giải thích của GS Nguyễn Lân đều sai cả.
Theo sách Chim Việt Nam hình thái và phân loại của GS Võ Quý (viết tắt là Chim
Việt Nam), chim dẽ giun (hay rẽ, rẽ giun) thuộc bộ Rẽ (Limicolae hay
Charadriiformes) gồm khoảng 189 loài, 8 họ, phân bố hầu như khắp các nơi trên
thế giới. Ở Việt Nam có khoảng 48 loài, phần lớn là những loài trú đông. Trong
số 8 họ của 189 loài, thì họ Choi choi (Charadriidae) là họ cơ bản của bộ Rẽ.
Chim dẽ giun (hay rẽ giun) thuộc họ Choi choi. Chim dẽ giun có một tập tính kỳ
lạ là thân mình liên tục cử động: đầu gật, đuôi giật theo nhịp bước chân, thỉnh
thoảng chúng dừng lại, xù lông, rùng mình, rồi rung rung đôi cánh, cổ rụt lại
giật giật như bị ai bóp nghẹt, trông chẳng khác nào đang run lẩy bẩy vì sợ hãi
(đặc biệt là khi chim trống quyến rũ chim mái). Theo Chim Việt Nam: “Trước thời
kỳ làm tổ ở nhiều loài có hiện tượng khoe mẽ, thể hiện lúc bay, tiếng kêu hay
dáng chuyển động như múa lúc ở mặt đất.” Cũng do đặc điểm thân mình luôn cử
động rung lắc, khi kiếm no mồi thì chạy nhảy, đánh đuổi nhau, nên ở Thanh Hoá
có thành ngữ Nghịch như thọc trùn, chỉ bọn trẻ con nghịch ngợm, thọc mạch,
không lúc nào chịu ở yên; hoặc Nhảy như con choi choi, chỉ bọn trẻ con hiếu
động, nhảy nhót đùa nghịch.
Như vậy, “Run như dẽ” hoặc “Sợ run như dẽ” là hai dị
bản đồng nghĩa. Nghĩa diễn giải của thành ngữ là: Run như con chim dẽ giun nó
run. Dân gian không nhầm lẫn, cũng chẳng chơi chữ gì ở đây, mà trong thực tế có
nghĩa đen như phân tích ở trên.
Tham khảo: Trong Truyện Kiều, đoạn Thuý Kiều báo oán,
Nguyễn Du viết: “Cho gươm mời đến Thúc lang, Mặt như chàm đổ mình dường dẽ
run.” Ta có thể hiểu, Nguyễn Du mô tả Thúc lang sợ hãi, run lẩy bẩy như con
chim dẽ giun. Từ điển Truyện Kiều - Đào Duy Anh giải thích: “Dẽ run: Tức là
chim dẽ hay rẽ, người ta cho rằng thứ chim này mình thường run luôn.” Khi Đào
Duy Anh viết: “người ta cho rằng…”, chứng tỏ ông cũng chưa có hiểu biết thực tế
về loài chim dẽ, nhưng cách giải thích trên là đúng.
○ “cát liền tay, thịt chầy ngày Kinh nghiệm
nông dân cho là nếu cấy ở đất cát có thể cấy ngay, còn cấy ở đất thịt thì phải
cày bừa cho kỹ”.
Giải thích theo kiểu hú hoạ, nên chỉ hơi đúng nửa
đầu nói về cấy trên đất cát. Chúng tôi nói “hơi đúng”, vì nếu liên hệ với vế
thứ hai theo cách giảng của GS Nguyễn Lân, “đất cát có thể cấy ngay” (tức không
cần làm đất, hoặc làm đất qua loa), trong khi “ở đất thịt thì phải cày bừa cho
kỹ”. Nhưng đất nào khi cấy mà chẳng phải cày bừa kỹ?
Thực ra ở đây, tục ngữ nói đến kinh nghiệm gieo cấy
trên chân đất cát và đất thịt của nông dân: Với đất cát nhanh lắng, bừa xong
nên cấy ngay (“liền tay”) kẻo đất nén chặt xuống rất khó cấy, chứ không phải
“có thể cấy ngay”. (Nói về kinh nghiệm cấy trên chân đất cát còn có câu Trâu ra
mạ vào, tức trâu vừa bừa xong thì đưa mạ vào cấy ngay là tốt nhất); với đất
thịt nhiều bùn non (bùn loãng), nếu bừa xong đã cấy ngay, cây lúa sẽ không đứng
được, thế nên phải để “chầy ngày” (sau một ngày) cho bùn lắng xuống, đặc lại,
mới cấy là tốt nhất. “Chầy ngày” (“chầy” là chậm, muộn hơn, trái nghĩa với
“liền”, “chóng”; như “chẳng chóng thì chầy”) là tính thời gian một ngày sau khi
bừa lần cuối rồi cấy, chứ không có nghĩa “phải cày bừa cho kỹ” (cày bừa liên
tục trong thời gian một ngày) như GS Nguyễn Lân giải thích.
○ “ruộng giữa đồng, chồng giữa làng Đó là lý
tưởng của một chị nông dân thiển cận”.
Giải nghĩa sai! “Giữa” ở đây không những chỉ vị trí
(địa lý) mà còn có nghĩa là ngay tại, ở chính tại, rất gần. [Vè nhật trình từ
Ninh Bình vào Thanh Hoá: “Thùng thùng trống đánh ngũ liên, Chợ Gia trước mặt,
quán Nam giữa đàng”. “Giữa đàng” đây tức là ở ngay trên con đường, đoạn đường,
ở ngay bên đường]. “Ruộng giữa đồng” là ruộng gần, ruộng làng (đồng nhà), tiện
canh tác, thăm nom, cũng có thể hiểu là mảnh ruộng “giữa đồng”, không bị trâu
bò xâm phạm; “chồng giữa làng” là chồng gần, ngay ở trong làng. Trai gái đã
hiểu nhau, lại tiện đi về thăm nom, chăm sóc bố mẹ. Câu tục ngữ trên đúc kết
kinh nghiệm chọn nơi canh tác, lấy vợ, lấy chồng, sao cho tiện lợi của nông dân
trong đời sống làng xã Việt Nam xưa kia, chẳng có gì gọi là “thiển cận”, đáng
chê như cách phân tích của GS Nguyễn Lân.
Tham khảo: Tục ngữ Mường Thanh Hoá
- Cao Sơn Hải - NXB Văn hoá thông tin - 2002 (viết tắt là Tục ngữ Mường)
thu thập câu: “Đồng ruộng ven làng, trước cổng - Đo ống ná chân quên trưởc
voòng”. Ý nói: Đồng ruộng ven làng trước cổng thuận tiện canh tác; và “Lấy
chồng trong làng như sống giữa vườn hoa, lấy chồng đàng xa như con gà diều quắp
- Lế dầu trong lùng nhơ vùng vướn va, lế dầu đáng xa nhơ kha tràng đành”. Tục
ngữ Việt: Trâu ta ăn cỏ đồng ta; Ruộng nhất ở xa, không bằng ruộng ba ở gần; Ca
dao: Có con mà gả chồng gần, Có bát canh cần nó cũng đem cho [“Canh cần” là thứ
canh chẳng phải ngon lành, béo bổ gì. Ý dân gian là con gái lấy chồng gần thì
có điều kiện quan tâm chăm sóc bố mẹ, kể cả những điều vụn vặt, nhỏ bé nhất]”.
H.T.C.
(Xem tiếp kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét