Đặng Văn Sinh
Tôi chả ưa
gì cái cách ứng xử sặc mùi chauvinism của tay đảng
trưởng họ Tập cũng như tập đoàn lãnh đạo Trung cộng với bàn dân thiên hạ, thậm
chí bọn hậu Maoisme này đang là mối đe dọa thường trực với nền hòa bình thế
giới, không chỉ bởi vũ khí hạt nhân mà còn bởi các học thuyết chính trị cực
đoan bắt nguồn từ tư tưởng Đại Hán. Tuy nhiên phải công bằng trong việc đánh
giá và vận dụng các thành tựu văn hóa của họ.
Từ thời cổ
đại, Trung Quốc đã là một nhà nước phong kiến tập quyền, một ngôn ngữ phong
phú, hơn nữa, lại có chữ viết từ rất sớm nên người Tàu kiến tạo được một nền
văn hóa mạnh, có ảnh hưởng không nhỏ đến các quốc gia lân cận như Triều Tiên,
Nhật Bản, Việt Nam. Trong nền văn hóa Hoa Hạ đặc thù ấy có các loại ca dao, tục
ngữ, thành ngữ, mà một phần trong đó được ông tổ của đạo Nho là Khổng Khâu san
định thành “Thi Kinh”. Ngoài tục ngữ, ca dao, người Hán còn sử dụng khá nhiều
điển cố, mà phần lớn có nguồn gốc từ trước tác của những triết gia, học giả nổi
tiếng từng được ghi chép trong chính sử.
Thế nhưng,
không hiểu vô tình hay cố ý, người Việt chúng ta lại cứ hay nhân vơ làm của
mình. Không ít kẻ chơi trò lập lờ đánh lận con đen, gộp tất cả những lời hay ý
đẹp ấy cho một người với mục đích biến đối tượng thành vĩ nhân, mở miệng là lập
tức thành lời vàng ý ngọc. Trong phạm vi bài nhỏ này, tôi xin dẫn ra vài thành
ngữ bắt nguồn từ điển cố Tàu mà dân ta vẫn ngộ nhận là có xuất xứ từ Việt Nam gần sáu
mươi năm qua.
1/ “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm
năm trồng người”
Đây là câu
thành ngữ được người Hán dùng trong đời sống thường nhật, nguyên văn “Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân” (十年樹木,百年樹人), (không
có ba chữ “Vì lợi ích”). Tuy nhiên bản thân câu này lại nằm ở một đoạn văn trong
bài triết luận “Quyền tu đệ tam” của
Quản Di Ngô (管夷吾), tức Quản Trọng(管仲)(723 hoặc 716 TCN - 645 TCN), vốn là tể tướng của Tề
Hoàn Công. Quản trọng được lịch sử Trung Quốc đề cao như một nhà lập thuyết,
nhà chính trị, nhà quân sự, nhà kinh tế, nhà cải cách lỗi lạc, có công chấn
hưng nước Tề thành quốc gia đứng đầu Ngũ Bá thời Xuân Thu. Trong bài “Quyền tu đệ tam” (權修第三), Quản Trọng viết “Nhất
niên chi kế, mạc như thụ cốc, thập niên chi kế, mạc như thụ mộc, chung thân chi
kế, mạc như thụ nhân. Nhất thụ nhất hoạch giả, cốc dã; nhất thụ thập hoạch giả,
mộc dã; nhất thụ bách hoạch giả, nhân dã”
(一年之計,莫如樹穀;十年之計,莫如樹木;終身之計,莫如樹人。一樹一穫者,穀也;一樹十穫者,木也;一樹百穫者,人也).
Có thể dịch nghĩa
như sau: “Kế hoạch một năm không gì bằng trồng
(ngũ) cốc, kế hoạch mười năm không gì bằng trồng cây, kế hoạch cả đời không gì bằng
trồng người. Trồng một được một là trồng (ngũ) cốc; trồng một được mười là trồng
cây; trồng một được một trăm là trồng người”. Thiết nghĩ đây là một mệnh đề
có nội hàm phong phú, súc tích mang tính ẩn dụ cao nhưng lại dễ nhớ, dễ hiểu,
người viết xin phép miễn bàn.
Có thể
nói, lời Quản Trọng đã trở thành thành ngữ đặc thù xuyên suốt mấy thiên niên kỷ,
giống như một thứ “quốc hồn quốc túy” không thể lẫn được và cũng không ai có thể
phủ nhận được của văn hóa Hoa Hạ. Nó nổi tiếng đến mức, tổng thống Barack Obama,
đã từng nhắc đến trong cuộc hội kiến với đảng trưởng Hồ Cẩm Đào ngày 19 tháng
01 năm 2011. Gần đây, trong chuyến thăm Đại lục, nữ tổng thống Hàn Quốc, trong
lời phát biểu mở đầu bằng tiếng Hán với sinh viên Đại học Thanh Hoa, bà Park
Geun-hye đã dẫn nguyên văn câu thành ngữ trên, kèm theo lời bình rất sâu sắc,
qua đó tỏ thái độ kính trọng với Quản Di Ngô.
2/ “Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”.
Thực chất đây là bản dịch sang
tiếng Việt không trọn vẹn (bị lược mất câu thứ hai) trong bốn câu trích từ bài
thơ ngũ ngôn “Huấn mông ấu học thi” (訓蒙幼學詩), nghĩa là “Thơ dạy
học trò nhỏ” của tác giả Giang Chu (Thù) thời Bắc Tống. Nội dung chủ yếu khuyến
khích các em nhỏ cố gắng học tập, sau này lớn lên thành tài, thi đỗ làm quan
làm vẻ vang cho gia đình, dòng họ, giúp ích cho đời. Trong số 108 câu thơ, các
câu 29, 30, 31 và 32 có nội dung như sau:
“Tạc sơn thông đại hải
Luyện thạch bổ thanh thiên
Thế thượng vô nan sự
Nhân tâm tự bất kiên”…
(鑿山通大海,煉石補青天,世上無難事,人心自不堅)
Tạm dịch:
“Đục núi thông ra biển
Luyện đá vá trời xanh
Trên đời không có việc khó
(Chỉ sợ) lòng người không bền bỉ”.
Bài
thơ ngũ ngôn này, trước năm 1945 được sử dụng khá rộng rãi tại các lớp học vỡ
lòng chữ Hán ở làng quê Việt Nam.
Các cậu học trò “tí nhau” khi nhập môn đạo Khổng Mạnh đều phải thuộc nằm lòng
cùng với “Tam tự kinh” và “Tam thiên tự”. Trong tác phẩm “Lều chõng”, được giải
nhì Tự lực văn đoàn”, nhà văn Ngô Tất Tố đã khắc họa rất thành công ông đồ
Nguyễn Khắc Mẫn cầm roi nẹt đám học trò thò lò mũi xanh lải nhải đọc những câu
thơ mà bản thân chúng chẳng hiểu gì, đại loại như “Thiên tử trọng hiền hào/ Văn
chương giáo nhĩ tào/ Vạn ban giai hạ phẩm/ Duy hữu độc thư cao” (Nhà vua trọng
người hiền/ Văn chương dạy các người/ Muôn nghề đều thấp kém/ Chỉ đọc sách là
cao). Như vậy, những câu thơ trên có “nguồn gốc xuất thân” hẳn hoi, không phải
là của giời ơi, bất cứ ai hứng lên cũng tùy tiện nhận là của mình được.
Người
phương Tây có câu ngạn ngữ “Cái gì của Caesar hãy trả lại cho Caesar”. Tôi xin
mượn câu ngạn ngữ trên thay cho lời kết của bài viết này.
Đ.V.S.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét