Thụy Khuê
Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia
Long
Chương 4
Tác phẩm của John
Barrow (1764-1848)
Phần 2
Hành trình Bá Đa
Lộc
Về Bá Đa Lộc Barrow viết trong chương IX:
"Trong thời
gian Tây Sơn nổi dậy ở Nam Hà, ba anh em giết vua [Định Vương Nguyễn Phước
Thuần] và tất cả những người bị bắt, gia quyến và tuỳ tùng; ở trong triều có
một giáo sĩ người Pháp, tên Adran [tức Bá Đa Lộc, chức Giám Mục Adran],
trong nhiều văn bản in trong tập "Lettres édifiantes et curieuses",
tự nhận là khâm sứ của Giáo Hoàng ở Nam Hà.
Vị giáo sĩ này rất
thân với hoàng gia và cũng nhận được nhiều ân huệ, ông đã lập ở đây một họ đạo
và nhà vua, thay vì đán áp, lại che chở. Nhà vua rất tin tưởng ở người này, dù
khác đạo, đã giao cho việc dạy dỗ người con trai duy nhất của ông, người sẽ nối
nghiệp. [Chỗ này Barrow nhầm Nguyễn Ánh với Định Vương]. Adran, ngay từ những
ngày lửa đạn đầu tiên của cuộc khởi loạn, đã thấy, ông và bạn hữu, muốn sống
còn, phải trốn tránh.
Nhà vua đã bị địch
bắt, nhưng hoàng hậu, hoàng tử, các con và một người chị hay em, được Adran cứu
thoát. Nhờ đêm tối, họ rời xa kinh thành [Gia Định] và trốn vào
rừng. Ở đấy, trong nhiều tháng, vị vua trẻ của nước Nam cũng như một ông Charles mới [chỉ
Charles I (1625-1649) vua Anh và Ái Nhĩ Lan], trốn cùng với gia đình, không
dưới lùm cây sồi rậm rạp mà dưới lùm đa hay bồ đề vì [thiêng] ở đây
không ai dám xâm phạm. Một nhà tu công giáo tên Paul [Paul Nghị, tức Hồ Văn
Nghị] liều mình đem đồ ăn mỗi ngày, cho đến khi [quân đội đi
lùng] không còn tìm kiếm nữa và sau cùng được lệnh rút về.
Sau khi quân thù
rút lui, những người đi trốn trở về Sài Gòn, dân chúng kéo nhau đến dưới cờ của
vị vua chính thức, được họ tôn lên làm vua dưới tên của cha ông, vị vua cuối
cùng, Caun-shung.
Cùng thời điểm này
có chiến hạm Pháp do một người tên là Manuel điều khiển, đậu ở Sài Gòn cùng với
7 tầu buôn Bồ Đào Nha và rất nhiều thuyền buồm và tầu Trung Hoa. Theo lời
khuyên và sự giúp đỡ của Adran, hạm đội Bồ nhập trận [đánh Tây Sơn]
với khí giới được trang bị bí mật, tấn công chớp nhoáng hạm đội địch đậu ở Qui
Nhơn. Gió mùa thận tiện. Đoàn chiến hạm xông vào vịnh nơi hạm đội địch đang bỏ
neo bất động. Được cấp báo, quân địch lên tầu, đổ xô ra đánh, chiến hạm Pháp
thua, người Pháp không tiếc lời ca tụng lòng dũng cảm [của Manuel]. Bọn
chỉ huy tầu Bồ bỏ chạy tuốt sang tận Macao.
Ông hoàng trẻ tuổi tỏ ra cam đảm và điềm tĩnh nhưng vì ít quân đành phải rút
lui" (Barrow II, t. 200-202).
Đây là đoạn văn
"tiêu biểu" có thể là đoạn văn đầu tiên, viết về giai đoạn này.
Nó có nhiều sai lầm
"tiêu biểu", và những sai lầm như vậy, sẽ còn được lập lại nhiều lần
trên các văn bản của những người viết sau.
Sau đây là những
sai lầm chính:
1- Vì không hiểu rõ
liên hệ gia đình phức tạp trong triều Nguyễn lúc bấy giờ, cho nên người viết
thường lẫn lộn cha, con, cháu, với nhau, và viết sai đi.
2- Nguyễn Ánh không
phải là con Định Vương, mà là cháu gọi ĐịnhVương bằng chú ruột.
3- Nguyễn Ánh trao
con là hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc dạy, chứ không phải Định Vương trao con cho
Bá Đa Lộc.
4- Tuy nhiên sau đó,
Barrow cũng không đi sâu nữa trong sự sai lầm này, ông vẫn coi Hoàng tử Cảnh là
học trò của Bá Đa Lộc, không phải như Sainte-Croix, từ đầu đến cuối đều nhầm
Nguyễn Ánh với Hoàng tử Cảnh, và coi Nguyễn Ánh là học trò của Bá Đa Lộc. Rồi
sau đó, một số tác giả Pháp - Việt, sẽ biến sự sai lầm này thành "sự thật
" để thổi phồng công nghiệp của Bá Đa Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh, sẽ nói đến
sau.
5- Việc giết Định
Vương Nguyễn Phước Thuần là do Nguyễn Huệ trách nhiệm, bởi lần đánh Gia Định
năm 1777, không có Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ.
6- Lúc ấy, Nguyễn
Ánh trốn một mình, chưa có vợ, cũng chưa có con. Bà mẹ đang ở Quảng Trị, đến
tháng 4/1799, mới rước về Gia Định.
7- Việc Adran (Bá
Đa Lộc) đưa Nguyễn Ánh và gia đình chạy trốn là không có thực.
8- Hồ Văn Nghị,
liều mình đem thức ăn cho Nguyễn Ánh, có thể rất thực, chúng tôi sẽ nói đến
sau.
9- Sau khi trốn, về
lại Sài Gòn, Nguyễn Ánh được dân chúng tôn làm vua, cũng sai. Nguyễn Ánh xưng
vương năm 1780, tức là ba năm sau.
10- Manuel hay Mạn
Hoè, chết ở mặt trận Ngã Bảy (Biên Hoà) năm 1782, chứ không phải ở Quy Nhơn.
Việc 7 tầu Bồ Đào Nha tham chiến chưa biết hư thực thế nào.
Ở đầu, Barrow có
nhắc đến tập Lettres édifiantes et curieuses, vậy xem chừng ông lấy tư
liệu này từ nhà dòng. Và những sai lầm cũng phát xuất từ đấy. Tuy nhiên Maybon
lại dùng thoại Bá Đa Lộc "cứu" Nguyễn Ánh của Barrow, (Maybon, Histoire
moderne du pays d'Annam, Plon, 1920, t. 192-193, note số 2) có lẽ bởi vì nó
phù hợp với thoại Bá Đa Lộc "cứu mạng" Nguyễn Ánh, được phía Pháp chủ
trương.
Nhưng, những đoạn
Barrow viết về thời kỳ trôi nổi của Nguyễn Ánh, việc gửi hoàng tử Cảnh cho Bá
Đa Lộc sang Pháp cầu viện, khá gần với những điều ghi trong chính sử.
Barrow có chép lại
bản hiệp ước cầu viện Versaillles 28/11/1787] (t. 208-210), nhưng bản này hơi
khác với bản "chính thức". Rất có thể Barrow đã có một văn bản khác.
Theo Barrow, qua
nhiệm vụ này, Bá Đa Lộc được "thăng thưởng" như sau:
"Ngoài những
điều ước [ghi trong bản hiệp ước], còn có vài điều nữa, ít quan trọng hơn,
nhưng tất cả, như chúng ta thấy, đều rất có lợi cho nước Pháp. Adran được giáo
hội thăng chức Giám Mục Nam
Hà và được nhậm chức Đặc sứ toàn quyền (Ambassadeur extraordinaire et
plénipotentiaire) [của Louis XVI] ở triều đình này [triều đình Gia
Long]" (Barrow II, t. 211).
Về vấn đề xung đột giữa
Conway và Bá Đa Lộc ở Pondichéry, khiến Conway từ chối không chịu xuất quân
giúp Nguyễn Ánh, Barrow đưa ra một giai thoại "lèm bèm" có lẽ được
truyền tụng trong giới ngoại giao Anh ở Pondichéry: vì Bá Đa Lộc khinh bỉ một
người đẹp, bà de Vienne, là vợ một sĩ quan tuỳ viên của tướng Conway và cũng là
nhân tình của tướng Conway, nên mới có sự khủng hoảng trong mối liên lạc giữa
hai người.
Sự thực có lẽ đơn
giản hơn: De Conway, gửi tầu về Nam Hà thám thính, biết tình trạng sức mạnh vô
địch của Quang Trung lúc bấy giờ, và khám phá ra những "báo cáo láo"
của Bá Đa Lộc về sự tồi tệ yếu kém của quân Tây Sơn, nên ông đã viết thư thẳng
cho Louis XVI; vì thế Louis XVI quyết định không giúp nữa.
Về việc Bá Đa Lộc
trở về Sài Gòn tay không, Barrow cho biết: Bá Đa Lộc về Sài Gòn trên một tầu
buôn nhỏ, đem theo khí giới và đạn dược, nhưng thuyền trưởng Richerie [Richery]
(bị buộc tội) đã bán phần lớn trọng tải của tầu này ở Malaca, lấy tiền bỏ túi
(Barrow II, t. 213-216).
Sau cùng, Barrow đã
dành cho Bá Đa Lộc, những lời lẽ đặc biệt tôn kính:
"Phải công bình với linh hồn Adran, người đã mất
năm 1800, [ông mất ngày 9/10/1799] mà
công nhận rằng, tính tình của vị đế vương, sự trở về nước của ông, chiến thắng
của ông, những tiến triển ở nước ông, trong khoảng thời bình và tất cả những
tiến bộ nhanh chóng trong mọi địa hạt khoa học và nghệ thuật, những cơ sở,
nhũng công xưởng, hoàn toàn nhờ vào sự hiểu biết, vào tài năng và vào sự gắn bó
trung thành của giáo sĩ này. Nhà vua cũng yêu quý ông đến độ khâm phục. Vua
thường gọi ông là danh sư (maître illustre) [thực ra là thượng sư], ở
bên Tầu tiếng này chỉ dành riêng để chỉ Khổng Tử" (Barrow II, t.
234-235).
Sau đó Barrow kể một chuyện, có lẽ vẫn rút từ tài liệu
nhà dòng: Khi Bá Đa Lộc mất, được chôn cất theo thánh lễ công giáo, nhưng sau
vua sai cải mộ và chôn lại theo nghi lễ Việt Nam, làm cho các cha cố hết sức
phẫn nộ. Ông viết: "Nhiệm vụ của Bá Đa Lộc lúc sinh thời cũng không dễ
dàng, vì vừa là cố vấn của vua lại là thày dạy con vua, dĩ nhiên ông bị các
quan ganh tị" (Barrow II, t. 235). Tuy nhiên vẫn theo Barrow, nhà vua
lúc nào cũng giữ trọn tình bạn và lòng tin đối với ông cho đến khi ông mất
(Barrow II, t. 236).
Những nhận định của Barrow về Bá Đa Lộc, tuy rút từ tư
liệu nhà dòng, nhưng được viết với sự thận trọng cần thiết, khác hẳn lối viết
sau này của những người Pháp như Faure. Rồi chúng ta sẽ khám phá ra mối liên hệ
giữa Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc không phải hoàn toàn tốt đẹp như những gì vẫn được
nhà dòng truyền tụng. Nhiều lần Bá Đa Lộc đã muốn bỏ đi, trong những trường hợp
khẩn cấp, vv... Tất cả những vấn đề này, sẽ được bàn lại sau.
Về công trạng của những người lính Pháp giúp Nguyễn
Ánh, Barrow có nhắc đến trận Thị Nại 1792, ông viết:
"Mùa xuân 1792, ông [Nguyễn Ánh] xuống thuyền đi đánh Qui Nhơn, để trên
đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, quản hai tầu chiến Tây phương. Người ta đồn rằng,
một trong hai người này, ông Dayot, đã làm cho hạm đội địch thiệt hại lớn, đốt
cháy, đánh đắm, hoặc xâm chiếm tất cả những thuyền gặp trên đường. Hăng say
chiến thắng, tiến sâu quá, thuyền ông bị nạn. Người ta cũng đồn rằng, nhà vua,
tuy chứng kiến tai nạn có thể làm cho ông thua trận, vẫn tỏ chút mãn nguyện,
nói: "Ông ấy đã làm nhiệm vụ của mình, tôi không mong ông ấy làm cả nhiệm
vụ của tôi". Nguyễn Nhạc không ngờ trận tấn công này, ngày hôm ấy, ông
cùng triều đình đi săn cách [Quy Nhơn] ba mươi dặm (trang 117-118).
Đó là đoạn văn duy nhất Barrow viết về công trạng của
những người lính Pháp giúp vua Gia Long, và viết với sự thận trọng "người
ta đồn rằng".
Triều đình Cảnh Thịnh tiếp hạm đội đại sứ Anh
Phần quan trọng nhất trong chương X, là đoạn Barrow mô
tả việc triều đình Cảnh Thịnh tiếp phái đoàn Anh. Barrow viết:
"Như tôi đã nói trong ở trên, khi những lời vu
khống man trá của Manuel Duomé loan truyền báo động về sự ghé bến của hạm đội
chúng tôi, được giải toả, chợ búa càng ngày càng có nhiều thực phẩm hơn và các
quan chức đối đãi với chúng tôi bớt gay gắt hơn. Đã có sự tin cậy lẫn nhau, có
những thông giao nối kết không ngừng giữa những người dân cảng với tất cả thành
phần của hạm đội: các sĩ quan và quan chức ngoại giao đoàn, vì công việc, hay
vì hiếu kỳ, muốn lên bộ vài ngày, đều được chính thức mời ăn tối; về phiá Việt,
mỗi ngày có một vài người lên thăm hạm đội của chúng tôi, họ cũng được mời ăn
bữa thường, mặc dầu món ăn của chúng tôi chắc không hợp vị họ lắm (...)
Vì trong thành phố không có nơi nào lớn để tiếp đãi
một phái đoàn đông người như chúng tôi, nên quan trấn thủ cho dựng một phòng
lớn, bằng tre, luôn luôn tiện dụng trong những lúc cần kíp, xong trong vài giờ:
mái và bốn phía được phủ bằng chiếu đan siết và dày. Trong phòng bầy một dãy
bàn nhỏ đặt ghế ngồi hai phiá, khoảng 20, 24 người ngồi thoải mái.
Người Trung Hoa có thói quen bầy đầy kín bàn ăn những
điã, hay những bowls (bát, tộ?). Nhưng người Việt, còn lễ độ quá dân láng
giềng, nên họ không chỉ bầy đầy bàn thức ăn, mà còn bầy bowls tô trên hai ba
chồng. Tôi nghĩ, có thể đếm không dưới 200 bowls, chưa kể những chén cơm mà họ
đưa tay cho thực khách, thay thế bánh mì. Cơm ở xứ này cũng như Tầu và hầu như
tất cả phương Đông, là nền của thức ăn. Họ không dùng khăn ăn, không dùng dao
và niã, cũng không có đồ uống, không có cốc; nhưng họ để trước mặt mỗi ngưòi
một thià bằng đất nung, hai cái gì giống như ống hay que [đũa] bằng tre, hay gỗ
hồng, hay gỗ đàn hương (santal), nhiều khi bọc bạc, gióng như [đũa] Tầu, mà
người Anh gọi là chop-sticks.
Những bowls (tô, bát) đựng đồ ninh nấu (ragouts), thịt
bò, thịt lợn, thịt gà, cá, cắt miếng nhỏ, hầm, nấu với rau, làm súp và nước
cốt, nêm khác nhau, và dể các thứ gia vị khác nhau. Không có thịt quay, cũng
không có món gì khô; không có rượu vang, cũng không có ruợu mạnh gì cả; cũng
chẳng có nước uống trong cả bữa; nhưng sau khi ăn, được mời seau-chou Tầu [trà
Tầu?] trong chén sứ.
Vì cả hai bên đều không biết tiếng của nhau nên không
nói chuyện được, chúng tôi không kéo dài bữa ăn. Quan trấn thủ hay tướng trấn
thủ không cho chúng tôi danh dự được ăn cùng.
Nhưng bình thường trong những dịp như thế này, ông
ngồi ở đầu phòng ăn, dựa trên sập vuông, có trải chiếu, hút thuốc, ăn trầu, trong
khi hai ba tên hầu phe phẩy kéo cái quạt lông công cho mát. Bình thường ăn xong
chúng tôi sang phòng xem hát, cũng là một nhà rạp bằng tre. Ở đó, cũng giống
như bên Tầu, có sẵn những diễn viên sẵn sàng đóng tuồng suốt ngày, lúc nào cũng
diễn hăng say, dù không có người xem cũng như lúc đầy khán giả, bởi vì được
thuê diễn cả ngày, cho nên họ hoàn toàn thản nhiên trước sự đông hay vắng
khách, miễn là được trả lương mỗi khi diễn xong.
Tất cả phân khu Nam Hà, nơi có vịnh Đà Nẵng, ở dưới
quyền cai trị của vua trẻ Quang-tung [Quang
Toản], con trai của ông tướng ngụy [chỉ Bắc Bình Vương] người đã
chiến thắng Tổng đốc Quảng Đông (...)
Cung vua ở Huế, cách Đà Nẵng 40 dặm. Ngay khi biết
chắc sự thông thuận của chúng tôi đối với ông, nói khác đi, sự trung lập của
chúng tôi [đối với miền Nam], ông
gửi một quan đại thần đền mời ông Đại Sứ vào triều. Sứ thần trả lời từ chối, vì
nhiều lý do, mà lý do chính là vì thời gian không cho phép dự buổi lễ này (...)
Chúng tôi thích lợi dụng cơ hội có ít ngày để đi thăm các làng xóm xung quanh
(...).
Lá thư của ông vua trẻ [lúc đó Quang Toản mới 11 tuổi, thái sư Bùi Đắc Tuyên
làm phụ chính] biểu dương đầy tình cảm cao đẹp của nhà vua đối với dân tộc
Anh; và để chứng minh, ông gửi quan quân mang một món quà nhỏ cho những người
trong hạm đội (chữ vua dùng như vậy). Món quà gồm 10 con trâu, 50 lợn, khoảng
300 gà vịt, với hoa quả, rau và hành củ. Những thức bồi bổ này được chở đến
bằng thuyền buồm, đằng trước có một chiếc thuyền chèo dài, sơn và trang hoàng
bằng cờ và biểu ngữ, có các quan, theo nghi lễ.
Sứ thần viết thư trả lời và tặng lại vua 1 khẩu súng
trường đẹp, bắn hai phát liền, kèm phụ tùng và một cặp súng lục bằng gang có
lưỡi lê, một thanh gươm cán đồng, nhiều tấm vải và nỉ lớn mầu đỏ thắm. Sứ giả
của vua, lúc đầu mặc áo dài lụa, thêu hình hổ và rồng, giống như bên Tầu, nhưng
khi lên tầu Lion, ông đổi y phục và mặc hai ba chiếc áo lồng bằng tơ trắng
mỏng.
Một sự tò mò, do lỗi chúng tôi, đã phá rối trong chốc
lát, sự thông cảm giữa hai bên. Vì muốn vẽ một bản đồ đúng của vùng vịnh tuyệt
diệu này cùng với hải cảng, một buổi sáng, mấy người trong bọn tôi lấy thuyền,
đi sâu vào bờ đông, đo một căn cứ và lấy các góc độ cần thiết để xác định vị
trí những điểm chính. Chúng tôi chọn giờ sáng sớm và làm thực nhanh, tưởng
thoát khỏi con mắt của người dân ở đây; nào ngờ một ông quan đến ngay, bảo cho
biết là quan trấn thủ rất bất bình vì lối hành sự này và yêu cầu ngừng ngay mọi
việc đo đạc.
Một sự vụng về nữa, càng làm tăng mối nghi ngờ, khiến
họ cho rằng chúng tôi có những mục tiêu muốn giấu: Một viên sĩ quan tầu Lion,
ban đêm, đi dò dòng sông [Hàn] dẫn
ra Hội An, anh ta quá sốt sắng nhưng lại bất cẩn, bị bắt với cả ê-kíp và chiếc
xà lúp, bị giam trong một đồn nhỏ. Không thấy tin tức gì, chúng tôi tưởng
xà-lúp đã bị chìm, không ai thoát nạn. Sau cùng, quan quân lên tầu Lion, báo
cho chúng tôi biết, và cay đắng than phiền chúng tôi hành sự không thẳng thắn.
Sứ thần nói ông không biết việc này và xin thả ngay viên sĩ quan, gửi về tàu,
để anh ta sẽ phải trả lời trước cấp trên."
Rút cục rồi mọi việc cũng được bỏ qua. Barrow
viết tiếp:
"Nhà vua, trong lá thư thứ nhì, có ý muốn mở cửa
buôn bán hợp pháp với chúng tôi. Ông gửi kèm với thư này, quà cáp gồm ngà voi
và 10 giỏ hạt tiêu, biếu Sứ thần và tặng thủy thủ đoàn 3000 giỏ gạo, nặng
khoảng 100 tạ.
Ông Đại sứ chưa biết thành phố Đà Nẵng; nên những vị
chức sắc ở đây, tỏ chút lòng thành, muốn tổ chức một buổi lễ tiếp đón. Ông Đại
sứ chọn ngày 4/6, sẽ lên bờ dự lễ sinh nhật đức vua cùng với người Việt. Nhưng
tối hôm trước, chúng tôi đã thấy một chuyển động bất thường trong thành phố,
một số binh sĩ lớn lao hành quân trong và ngoài thành, và sau cùng là đàn voi
trận. Không thể biết đó là ngẫu nhiên, hay do những nghi ngờ trước, hay để biểu
dương sự rạng rỡ cho buổi lễ; nhưng về phía mình, chúng tôi luôn luôn đề phòng,
gửi ngay hai đơn vị quân đội đến con sông đối diện với thành phố để bảo đảm sự
triệt thoái nếu cần. Tuy nhiên ngày hôm đó mọi việc diễn ra trong không khí hết
sức hoà hợp..." (trích dịch
Barrow, t. 241- 251).
Đoạn văn này cho thấy nhiều vấn đề:
Trước tiên là sự hiếu khách hay là sự vồn vã thái quá
của chính quyền Phú Xuân, muốn "kết thân" với người Anh, cho nên
không nghe những lời vu khống của người Bồ Đào Nha. Mặc dù tiếp khách tử tế,
vồn vã, nhưng vẫn chưa biết lòng dạ của họ như thế nào.
Về phía Anh: từ chối không đến Huế, theo Barrow, lấy
lý do là không có thì giờ, và ông có viết thêm: vì biết sang Tầu sẽ có lễ to
hơn, đẹp hơn ở Huế. Cũng đúng. Nhưng có lẽ còn những lý do khác tác giả không
nói ra:
- Không muốn có liên lạc chính thức với Tây Sơn vì sợ
Nguyễn Ánh nghi kỵ, không giao thiệp, nhất là lúc đó Quang Trung đã mất, Nguyễn
Ánh ở thế thượng phong.
- Ở lại Đà Nẵng để đo đạc, dò thám vùng đất này mà họ
cho là có giá trị chiến lược. Sau này, các sứ bộ Anh đến Huế đều xin Cù Lao
Chàm làm đất mở thương điếm, chứng tỏ những gì Barrow viết ở đây, chắc ông đã
báo cáo với chính phủ Anh trước rồi.
Sau cùng, sự "tin cậy" lẫn nhau giữa đôi bên
Anh-Việt chỉ là bề ngoài. Có thể nói đó chính là bản chất mối lên hệ của người
Âu đối với các dân tộc mà họ nhòm ngó.
Thuật đóng thuyền, tầu của người Việt
Một điểm đáng ngạc nhiên nữa là chỉ trong một tháng,
mà Barrow đã có những khám phá sâu sắc về kỹ nghệ đóng tàu, thuyền của ta, ông
viết:
"Một ngành đặc biệt mà hiện nay người nước Nam có
thể tự hào rất hoàn hảo là đóng tầu; và phải nói ngay, họ được như vậy một phần
là nhờ có nhiều gỗ quý và gỗ lớn. Những du thuyền của họ đẹp tuyệt vời: dài từ
50 đến 80 pieds [1 pied Anh=0m3048].
Đôi khi tầu chỉ đóng bằng 5 mảnh ván, mỗi mảnh dài suốt chiều dọc tầu, ghép lại
với nhau bằng mộng và chốt gỗ, rồi siết chặt bằng sợi tre, không cần nẹp mà
cũng chẳng cần dây. Đầu và đuôi tầu rất cao được trang trí bằng những hình hài
trạm trổ rồng, rắn kỳ dị, sơn mầu và dát vàng. Một số lớn cột buồm treo đầy cờ
hiệu hay băng-rôn. Những bó lông đuôi bò nhuộm đỏ, đèn, ô, dù, và nhiều loại
trang trí khác, buộc trên đầu cọc cắm hai bên mạn tầu, cho biết cấp bậc các vị
quan trên tầu; và vì họ đứng đằng trước, nên nếu người chèo quay lưng lại họ là
bất nhã (tục lệ của những dân tộc này cũng như người Tầu khác hẳn phần đông
những nước khác trên thế giới), cho nên, người chèo phải quay mặt về phiá đầu
tầu, và đẩy chèo đằng trước họ, thay vì kéo chèo sau lưng, như Tây phương. Kẻ
hầu người hạ và hành lý để phía sau tầu.
Tầu buôn gần bờ biển, tầu đánh cá, đánh hải sâm và tìm
tổ yến ở quần đảo Hoàng Sa, có nhiều loại kiến trúc khác nhau. Phần lớn giống
như những thuyền tam bản của Tầu, sàn trải chiếu cho cả gia đình ngồi. Một số
khác, cả thân tầu lẫn thuyền cụ, giống tầu Mã Lai.
Còn tầu buôn của họ giống như ghe buồm của người Tầu,
cả hình dáng lẫn kiến trúc, nếu nhìn theo lối đóng tầu [Tây phuơng] hiện nay, thì chẳng thể coi là hoàn
hảo; cách đóng tầu của họ không hề thay đổi từ nhiều nghìn năm nay, song lối
kiến trúc thượng cổ đó, đáng được kính trọng. Vả lại tầu buôn không cần phải
chạy thật nhanh khi lẩn trốn hoặc rượt bắt, là phẩm chất chính của tầu chiến.
Chủ tầu cần an ninh hơn thần tốc. Ngoài ra, nhà buôn vừa là chủ vừa là người
lái tầu, vấn đề trọng tải đối với họ là quan trọng hơn cả. Để chở được nhiều
hàng hóa của các thân chủ khác nhau, tầu buôn được chia ngăn dành cho mỗi thân
chủ. Vách ngăn ấy là những tấm ván dầy 2 tấc được sắp đặt và trám kín các lỗ
hở, khiến nước không thể thấm qua. Dù có chống việc chia hầm tầu thành ngăn đến
thế nào (bởi nó gây khó khăn cho việc chất hàng) cũng không ai chối cãi được,
là lối kiến trúc này đem lại những lợi điểm quan trọng cho hải hạm: Nhờ những
bức vách giao nhau dưới hầm, tầu vững chắc thêm, có thể chạm vào đá mà không
suy suyển gì. Hoặc nếu hầm tầu bị thủng ở một ngăn nào đó, thì hàng hoá ở những
ngăn khác không bị thấm nước lây; và vì tất cả đều được liên kết bền chặt với
nhau nên thân tầu chịu được những sốc không quá mạnh. Thuỷ thủ nào cũng biết
khi một hải hạm bị trúng [sốc hay đạn] nếu nó gẫy thì dấu hiệu đầu tiên
là sàn tầu rời ra từng mảnh. Nhưng khi sàn tầu được nối kết chặt chẽ bằng những
vách ván giao nhau thì nó khó bung ra. Cho nên, ở Anh bây giờ người ta cũng
đang nghiên cứu lối làm tầu thượng cổ này của người Tầu. Người ta còn đề nghị
cho chúng tôi những phương tiện du lịch bình yên, trên những thuyền chèo lớn,
có bánh xe nước (roues de puits) đặt cạnh sống tầu (quille) hoặc thay thế sống
tầu, và còn có những "phát minh" khác, dù người ta cho nó những tên
gì đi nữa, thì tất cả, đều đã được người Tầu sử dụng thông thường từ hơn hai
ngàn năm nay.
Mặc dù vị vua trị vì xứ này [Nguyễn Vương] hiện nay, trong chừng mức nào đó, đã
chao đảo lối làm tầu chiến cũ, tuy nhiên ông cũng không bỏ hẳn những lề thói
bình dân -ở những xứ Á Châu này, ý dân là ý trời- đã trở thành thiêng liêng,
khó đạp đổ. Ông vẫn kính trọng những lề thói ấy, nên ông chỉ thay đổi những gì
ở trong bụng tầu (carène) và tất cả phần chìm dưới nước, còn phần nổi ông vẫn
giữ nguyên lối kiến trúc của nước Nam, như cột buồm, buồm và thuyền cụ [dây,
cáp, trục, buồm, ròng rọc ...] Thực ra, thì những dây cáp dầy [của Tây
phương] làm sao có thể thay thế được những sợi tre mềm, dai, bền và nhẹ
trong cấu trúc chính phần nổi của tầu; vì thế, ta không thể nào không thán phục
sự phán đoán hoàn mỹ của nhà vua, vừa thận trọng vừa năng động, đã chọn giải
pháp trung dung, đạt được lợi ích thực thụ mà không cần một sự thay đổi trông
thấy.
Vài năm trước đây, Nhật Hoàng đã cho một bài học đáng
nhớ về sự kiên trì theo cổ lệ. Khi người Hoà Lan đến Batavia, đem biếu Nhật Hoàng một số quà trong
đó có một chiếc tầu chiến. Sứ thần thấy hoàng đế xem xét kỹ tầu này, liều tâu
sẽ đem thợ Hoà Lan sang chỉ cho người Nhật nguyên tắc đóng tầu. Nhật Hoàng sai
người đến hỏi Sứ thần rằng người Hoà Lan biết đóng tầu như thế này từ bao lâu
rồi. Sứ thần cho biết độ 300 năm. Nhật Hoàng bảo: "Ngươi về nói với ông ấy
[sứ thần] rằng hàng ngàn năm nay
thần dân của ta biết đóng những chiến thuyền mà ông ấy thấy đậu trong các hải
cảng của ta, và ta thấy chẳng ai than phiền gì về công dụng của chúng cả. Vậy
ta không việc gì phải tự lăng nhục mình và dân tộc mình, bằng cách bỏ những gì
đã được trải nghiệm qua bao nhiêu thế kỷ, để lấy một cái mới cải cách hôm qua.
Những hạm đội Hoà Lan có thể tốt ở Hoà Lan, nhưng không tốt ở nước Nhật. Ngươi
nhớ nói thêm rằng ông ấy có thể đem cái quà này về" (Barrow II, t.
287-293).
Những dòng trên đây khiến những ai cho rằng cái gì Tây
phương cũng "làm chủ" cả, sẽ phải thận trọng hơn. Dù có nói đến
"các sĩ quan" Tây phương, nói đến công trạng của "quân sư"
Bá Đa Lộc, Barrow luôn luôn giới hạn "công trạng" này trong một chừng
mức nào đó. Ông tôn trọng các giá trị phương Đông và không hề xác nhận: trước
khi người Âu đến, nước Nam không có tầu chiến, không có thành lũy (Vauban),
không có đại bác, không có tổ chức quân đội... như một số người Pháp lầm tưởng.
Sau cùng, cũng nên nói thêm: việc chia ngăn trong hầm tầu chở hàng của người
Tầu và người Việt hiện nay vẫn còn thấy áp dụng ở những các- gô trên thế giới.
Nhật Hoàng cho những kẻ đao to búa lớn về sự sức mạnh
Tây phương một bài học để đời.
Cũng nên nói thêm một chuyện nữa, năm 1942, ở Hà Nội,
Van Imbert cho in cuốn Le séjour en Indochine de l'ambassade de Lord
Macartney (1793) [Những ngày lưu lại Đông Dương của đức ông Đại sứ Anh
Macartney], nội dung có những điều chẳng biết Imbert lấy ở đâu, vì không thấy
có trong tác phẩm của Barrow, ví dụ như vài việc sau đây:
"Người Anh đi lạc trong thành Quảng Nam
không thấy có một khẩu đại bác nào".
Hoặc:
"Khi Macartney tới, viên trấn thủ Quảng Nam nài
nỉ người Anh bán khí giới và đạn dược, lộ cho họ thấy rằng Tây Sơn cần được
giúp với bất cứ giá nào!" (Tạ
Chí Đại Trường trích dẫn trong Lịch sử nội chiến Việt Nam, trang 218 và 220).
Lối viết này của Van Imbert dường như cũng nằm trong
đường lối hạ bệ người Việt nói chung: phiá Tây Sơn, là không có súng ống gì cả,
phải "van lậy" người Anh giúp, còn phiá Nguyễn Ánh vì được người Pháp
giúp nên có khí giới tối tân.
Thực ra, chúng ta có kỹ nghệ đúc từ trước, trong
khoảng hai mươi năm từ 1660 đến 1682, một
người Ấn Độ lai Bồ Đào Nha hay Y Pha Nho, tên Joao Da Crus (Jean de la Croix)
đã mở lò đúc súng đại bác cho chúa Nguyễn Phước Tần, dựng nên khu Thợ Đúc ở Huế
(Cadière, Le quartier des Arènes, Jean de la Croix et les premiers Jésuites,
(BAVH, 1924, IV, t. 307- 332). Nghề đúc súng, như vậy đã có ở ta, ít nhất, từ
thế kỷ XVII. Hà Nội cũng có phố Lò Đúc.
Khi Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân, ông chiếm được cả một
khu Thợ Đúc ở Huế. Súng đại bác của Tây Sơn, khi công kích các thành Diên Khánh
và Quy Nhơn lợi hại chẳng kém gì súng của Nguyễn Ánh. Điều đó càng chứng tỏ
không phải người Pháp "dậy" chúng ta đúc súng.
Những lợi ích buôn bán với nước Nam
Trong chương XI, tựa đề Những lợi ích buôn bán với
nước Nam
(trang 307-309), Barrow tỏ ra một nhà chính trị và chiến lược tầm cỡ. Có lẽ ông
là người ngoại quốc đầu tiên đã nhìn ra thâm ý của Bá Đa Lộc, khi ký kết thoả
ước cầu viện ở Versailles
tháng 11/1787.
Về thỏa ước này chúng tôi vẫn tin rằng Bá Đa Lộc đã tự
biên tự soạn không hề hỏi ý Nguyễn Ánh; bản "quốc thư" ông đưa ra để
chứng tỏ "triều đình" đã bàn xong thoả ước và trao cho ông thẩm quyền
ký chỉ là bản quốc thư giả, vì không tìm thấy bản gốc ở đâu. Vậy ta cần phải
nghiên cứu tất cả những chi tiết này bởi vì không một ông vua nào lại trao một
lúc bốn vị trí chiến lược quan trọng vào bậc nhất của nước mình là Đà Nẵng, Hải
Vân, Cù Lao Chàm và Côn Lôn, cho Pháp để đổi lấy một số lính và vài tầu chiến.
Nhưng khi đọc những dòng sau đây của Barrow, chúng ta
mới thấy ông chỉ ở Đà Nẵng có một tháng mà đã thông suốt điạ lý chính trị của
nước ta. Ông viết:
"Giám mục Bá Đa Lộc, khi thương lượng bản hòa ước
giữa vua Louis XVI và vua nước Nam, đã cho thấy rõ mối ràng buộc nào đó của ông
đối với vị vua này, nhưng ông ta cũng không quên quyền lợi của vua Pháp. Những
điều kiện trong bản hiệp ước tỏ cho biết khi đòi nhượng bán đảo Turon [Đà Nẵng] cho nước Pháp, ông đã rất chú ý đến những
điểm [chiến lược] trên bờ bể nước Nam. Ông ta biết rất rõ nếu nước
Pháp có được mảnh đất này, thì nó sẽ làm chủ một cơ sở vững chắc ở nước Việt.
Thực vậy, mỏm bán đảo Turon (hay Hansan) [Cửa Hàn] đối với nước Nam cũng
như Gibraltar đối với nước Y Pha Nho, mà còn hơn thế, bởi ngoài vị trí kiên cố
không thể đánh chiếm được, nó còn quan trọng hơn nữa vì có một hải cảng và một
bến tầu quanh năm khuất gió, hoàn toàn thích hợp với một hạm đội lớn. Đó cũng
là nơi các hạm đội có thể dừng lại bất cứ lúc nào để chấn chỉnh, sửa chữa trong
vịnh, nhất là hai bên bờ có nhiều thung lũng phì nhiêu, nhiều suối trong mát.
Ngay cạnh đó có một đảo nhỏ nối với đất liền bằng một giải đất khi thủy triều
xuống mới nổi lên [Hòn Sơn Trà?], chiến hạm lớn thế nào cũng có thể phơi
mình trên ấy để sửa chữa thân tầu. Trực diện với bán đảo là một vùng đất cao đủ
để xây một thành phố nhỏ với một xưởng đóng tầu và đủ loại cửa hàng, có thể trở
thành địa điểm phòng thủ nếu xây thêm các thành lũy kiên cố.
Một đảo nhỏ tên Callao [Cù Lao Chàm], cách vịnh Đà Nẵng 30 dặm về phía nam
cũng thuộc vào vùng đất sẽ nhượng [cho Pháp]. Đảo này chế ngự hoàn toàn
cửa chính [Cửa Đại] của con sông [Thu Bồn] chảy qua Fai-Fou [Hội
An], thành phố mà ngày trước người ngoại quốc đến buôn bán. Đảo này hoàn
toàn không thể vào được, trừ phía đối diện với cửa sông [Cửa Đại] nơi đó
có một thung lũng nhỏ có nhiều nước, ngay bên bờ biển, và ở đó tất cả các hạm
đội lớn nhỏ đều có thể vào đậu một cách an toàn.
Rất dễ nhận ra quan điểm của Pháp đối với bộ phận này
của bờ biển Việt. Những điều khoản trong bản hiệp ước cho thấy rõ chủ đích kiến
tạo và trang bị một hạm đội khá quan trọng để đe dọa những đất đai sở hữu của
chúng ta ở Ấn Độ; và chắc chắn là ý định này sẽ còn được lập lại. Nước Pháp-Đế
quốc [La France-Empire, chỉ thời
Napoléon] biết thi hành những điều mà nước Pháp-Vương quốc [La
France-Royaume, chỉ thời Louis XVI] chỉ mới dạm ra. Việc Pháp bị đuổi khỏi
bờ biển Ấn Độ càng làm cho bờ biển nước Nam trở nên hấp dẫn hơn nhiều; nhất là
nếu ta nhìn thấy vị trí này cũng sẽ nguy hiểm và không thuận tiện cho nền
thương mại béo bở (profitable) của chúng ta tại Trung Hoa, cũng như những sở hữu
của chúng ta ở Ấn Độ" (Barrow II, t. 309).
Không những Barrow nhìn thấy vị trí chiến lược hiển
nhiên của Đà Nẵng và Cù Lao Chàm, Ông còn lo ngại nếu Pháp chiếm được những nơi
quan trọng này thì sẽ trở thành kẻ thù đáng ngại cho đế quốc Anh của ông. Vì thế,
tiếp theo đó, Barrow dùng tài hùng biện để thuyết phục chính phủ Anh, phải bằng
mọi giá, thông thương với Việt Nam, vì mối lợi khổng lồ, không thể để cho Pháp
cuỗm mất, về các mặt giao thông, chính trị và chiến lược. Ông khuyên chính phủ
Anh nên xin Cù Lao Chàm làm nơi để lập thương điếm. Ông cũng đã nghiên cứu cặn
kẽ những thổ sản và tài nguyên, của Việt Nam để có thể lên một chương trình
đổi chác buôn bán (Barrow II, t. 310-321).
Barrow viết tiếp:
"Xét cho cùng, chúng ta đã tiến sâu, có lẽ quá
sâu vào con đường [thuộc điạ] này
để có thể lùi mà không nguy hiểm; bây giờ chúng ta phải hết sức thận trọng để
tiến tới đích, để bảo toàn và giữ vững nền thương mại này, chính nó đã giúp ta
phương tiện để đọ sức với một kẻ thù vừa ghê gớm vừa hùng mạnh [chỉ Pháp].
Con sư tử Anh cần phải toả rộng nanh vuốt hơn nữa để bảo đảm cho dân tộc Anh
những cuộc chinh phục [mới] nối tiếp với những cuộc chinh phục cũ, bằng
vũ dũng, kỹ nghệ, và sự táo bạo của mình.
Nhưng ngoài vấn đề an ninh mà sự sở hữu bán đảo phồn
vinh Đà Nẵng mang lại cho hàng bao hạm đội mà chúng ta đang sử dụng để buôn bán
với nước Tầu, còn có sự tai hại nếu để nó rơi vào tay một kẻ thù chủ động và
kiên quyết [chỉ Pháp]. Ta chẳng
nên trông mong vào những nhỏ nhoi mà nền thương mại ở Ấn Độ đem lại; [ta
cần] một hải cảng ở vùng này của thế giới, nơi các hạm đội của chúng ta luôn
luôn có được nước ngọt, có thể nghỉ ngơi, sửa chữa. Chỉ nhìn dưới góc độ này
không thôi: khi các chiến hạm ta đến nước Tầu còn chưa rõ hướng đi, khi những
phương tiện giữ gìn sức khoẻ cho thuỷ thủ đoàn còn kém hơn hiện tại, mà chúng
ta có được một cửa bể như thế này, để nghỉ ngơi, chờ tầu đi chậm hoặc bị bão
chận lại, là những trường hợp dễ xẩy ra, thì tốt biết mấy. Sẽ còn nhiều khảo
sát nữa để chứng minh việc cần phải buôn bán với nước Nam. Ở đây tôi
chỉ đưa ra vài nhận xét cho thấy công ty Ấn Độ [Anh] có lợi khi lập một
thương điếm trong vùng bán đảo vịnh Đà Nẵng" (Barrow II, t. 312-313).
Sau đó, Barrow phân tích sự thất bại của phái đoàn Hastings năm 1778, vì
không chuẩn bị kỹ. Kể cả chủ ý sau cùng cách đây 2 năm [tức là năm 1804], cũng
hỏng, vì trong triều chỉ còn thông ngôn là thừa sai Pháp, làm sao
biết được họ dịch cho vua những gì mà họ muốn, chúng ta thừa biết họ đối với
Anh như thế nào! Và cuối cùng, Barrow vẫn nhất quyết rằng vua Gia Long có
cảm tình với nước Anh, muốn giao dịch với nước Anh mà bị Pháp cản trở (Barrow
II, t. 325-327).
Đối với chúng ta, những dòng trên đây chứng tỏ ý định
thực dân của Pháp và của Anh, đã có từ thời chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn Ánh, qua
hành động kín đáo và khôn khéo của Bá Đa Lộc và qua những điều Barrow viết
trong tác phẩm này. Vua Gia Long không chấp nhận việc để cho Anh đặt quan hệ
ngoại giao và nhượng cho Anh Cù Lao Chàm để mở thương điếm sau này, là sáng
suốt và nhìn rộng. Vua Minh Mạng nhất quyết ngăn ngừa Anh và Pháp đặt chân đến
Việt Nam dù chỉ là "mở thương điếm" (với những điều kiện nhượng đất)
và không nhận Chaigeau làm "lãnh sự" như người Pháp mơ ước, là đúng.
Những sự kiện này giúp ta hiểu hơn chính sách của các vua Gia Long, Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức: không cho người Âu lập thương điếm, bởi đó chỉ là mặt tiền
của hành động xâm chiếm sẽ đến sau. Sự sáng suốt của các vua, cũng là một trong
những lý do khiến nước ta không bị xâm lược từ đời Gia Long.
Thụy Khuê
(Còn tiếp)Nguồn: Thụy Khuê
© Copyright Thuy Khue 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét