Nhãn

Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2018

BÀ TỔ NGHỀ GỐM SỨ CHU ĐẬU LÀ MỘT NHÂN VẬT NGỤY TẠO (kỳ 2)




Đặng Văn Sinh




2 - phiến gạch nung bôi bác chân dung Bùi Thị Hý và những dòng chữ Hán lởm khởm
Sau khi cố tình dịch sai những dòng chữ Hán viết trên chiếc bình gốm hoa lam đang được bảo tồn trong Viện Bảo tàng Topkapi Saray ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey), ông Tăng Bá Hoành cùng các cộng sự, được sự hỗ trợ nhiệt tình của một số quan chức vai vế tỉnh Hải Dương bắt đầu chiến dịch truy tìm nhân vật Bùi Thị Hý. Nhưng khốn nỗi, làm gì có mà tìm? Sau một thời gian đắn đo, cân nhắc họ mới nghĩ ra hạ sách, cho dù có phải đào bới, lật tung các tầng đất hay cưỡng bức lịch sử cũng phải tạo ra cho được một Bùi Thị Hý bằng xương bằng thịt, giống như trước đây đã từng hư cấu ra nữ tiến sĩ Hán học Nguyễn Thị Duệ làm vẻ vang cho nền văn hóa Xứ Đông

Thế là nhất hô bá ứng, hình như có sự phù trợ của âm hồn người nữ tượng nhân, chỉ sau một thời gian ngắn, hàng loạt những "tư liệu quý" dồn dập đổ về bằng nhiều kênh khác nhau mà nguồn hiện vật quý nhất do chính tay ông Bùi Văn Lợi ở thôn Quang Tiền (thời Hậu Lê gọi là trang Quang Ánh), xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc, trực tiếp giao cho ông Tăng Bá Hoành. Trước đấy ít lâu, cũng chính ông Lợi đã từng mang gia phả dòng họ Bùi đến nhờ ông Hoành thẩm định.
Theo mô tả của hai phóng viên bảo Tuổi Trẻ Thái Lộc và Trần Mai, thì, "trong nhà có rất nhiều gốm hoa lam phế phẩm. Ông Lợi đưa ra hai viên gạch cỡ lớn, trên có khắc hình, được ông Hoành giới thiệu là hình nhân của cụ tổ Bùi Thị Hý và danh tướng Bùi Quốc Hưng - một trong 18 người tham gia hội thề Lũng Nhai mà sử sách ghi lại.
Hình khắc chìm trên viên gạch có nét tương tự với bức tượng gốm tìm thấy trong con tàu đắm Cù Lao Chàm, được ông Hoành khẳng định: “Đây là cơ sở gốc để chứng minh bức tượng tàu Cù Lao Chàm là của cụ tổ nghề gốm Bùi Thị Hý!”.
Vật chứng tiếp theo là một cái mâm đồng cháy sém một phần, ông cho biết đó là “văn bia mộ chí của bà Bùi Thị Hý, được sao từ bia đá vào năm 1932”.
Ngoài ra còn có một vật gốm khác dài chừng 50cm, cũng có khắc chữ Bùi Thị Hý... Dẫn chúng tôi đến ngôi chùa làng “Viên Quang tự”, ông chỉ vào cột trúc đài cổ bằng đá thời Lê dựng trước chùa có ghi chữ “Bùi Thị Húy Hý” (báo điện tử Tuổi Trẻ ra ngày 28 tháng 1 năm 2016).
Thế nhưng, chuyện chưa dừng lại ở cuốn gia phả họ Bùi vốn rất đáng ngờ, chiếc mâm đồng có những dòng chữ Hán cháy sém một cách cố ý, những đống phế liệu gốm hoa lam được di dời từ nơi khác về nhà ông Bùi Văn Lợi, hay cột trúc đài cổ bằng đá có ghi danh Bùi Thị Hý với thứ chữ mới viết thêm vào theo vết lồi lõm do phong hóa ở chùa Viên Quang... Những sản phẩm ngụy tạo này, sẽ bàn đến trong một dịp khác. Trong phạm vi bài này, mục đích của chúng tôi là vạch trần sự giả dối của ông Tăng Bá Hoành, người được coi là nhà sử học Hải Dương, từng làm giám đốc Bảo tàng tỉnh, đã cố tình ngụy tạo bức chân dụng "cụ tổ nghề gốm" Bùi Thị Hý trên phiến gạch nung và sự thật về những dòng chữ Hán viết trên đó như thế nào.
Tượng hình bà Bùi Thị Hý và danh tướng thời Lê Bùi Quốc Hưng được khắc chìm trên hai phiến gạch cỡ lớn đang được bảo quản tại nhà ông Bùi Văn Lợi. Theo ông Lợi (đương nhiên là do ông Hoành tư vấn), thì bản khắc này "có nét tương tự với bức tượng gốm tìm thấy trong con tàu đắm ở Cù Lao Chàm", từ đó có thể khẳng định đây chính là cụ tổ nghề gốm Chu trang.
Tuyệt vời! Nhưng trước hết ta phải khảo sát những dòng chữ Hán viết trên phiến gạch màu đỏ nhạt, chiều dài 22 cm, chiều rộng 17,2 cm, hình nữ tượng nhân nghề gốm mà ông Cựu Trưởng ban Thông sử Tỉnh ủy Hải Hưng gọi là "minh văn" đã. Đó là một sản phẩm đất nung mà trên đó vẽ bôi bác hình một phụ nữ trong trang phục mớ ba mớ bảy chẳng khác gì loại áo quần của các bà đồng thời nay, hình dáng khá xấu giống như hý họa của tích chèo nào đó. Chỉ dựa vào bức ký họa thô sơ ấy mà bảo "có nét tượng tự với pho tượng gốm tìm thấy trong con tàu đắm ở Cù Lao Chàm" thì tôi xin bái phục ông Tăng Bá Hoành có đầu óc tưởng tượng của người ngoài hành tinh. Nhưng chuyện ấy cũng không mấy quan trọng, quan trọng là 27 chữ Hán mà ông bịa tạc để lừa thiên hạ kia. Nó đây:
 古像形祖姑號望月元是主十餘庄坊陶磁瓶大亂化像畫來傳後也
Phiên âm: Cổ tượng hình tổ cô, hiệu Vọng Nguyệt, nguyên thị chủ thập dư trang phường đào từ bình, đại loạn hóa tượng họa lai truyền hậu dã
Dịch Nghĩa (lời dịch chắc là của tác giả Tăng Bá Hoành): Hình tượng cổ tổ cô tên hiệu là Vọng Nguyệt, nguyên là chủ trên mười trang phường gốm. Do đại loạn tượng phải hóa (hủy đi) mất, vẽ lại để truyền cho đời sau.
Xin nói ngay, đây là một đoạn văn bất thông, sai nghiêm trọng cả về cách dùng từ lẫn cấu trúc ngữ pháp. Tôi phỏng đoán, người viết chỉ nhận mặt được khoảng vài trăm chữ, thậm chí đọc lõm bõm, không đủ trình độ tra cứu các sách công cụ như "Hán điển", "Hán ngữ từ điển" hay "Từ nguyên", "Từ hải" để tìm được chữ thích hợp, tránh chuyện "râu ông nọ cắm cằm bà kia", bởi tất cả các sách này đều bằng chữ Hán trung đại (hoặc Trung văn). Tin tôi đi, ông Tăng Bá Hoành nhìn vào những cuốn sách này khác gì nhìn vào bức vách(?!).

Trước hết là từ
祖姑 (tổ cô). Người đảm nhận cương vị bà Tổ cô phải thỏa mãn hai điều kiện, một là chưa lấy chồng, bị chết khi còn trẻ, có khi chỉ vài tháng tuổi, và hai là, vong linh dưới cõi âm tu tập theo đạo Mẫu hoặc đạo Phật. Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ là bà Tổ cô không theo đạo nào, có người còn bị giam dưới địa ngục. Trong khi ấy bà Bùi Thị Hý đã có đến hai đời chồng mà lại không chết trẻ, vậy làm sao có thể trở thành bà Tổ cô?
Thứ hai là, tại sao lại dùng từ 古像形 (cổ tượng hình)? Thời điểm vẽ chân dung bà chủ phường gốm là đồng thời hoặc sau khi đương sự chết ít lâu, vì thế nó chỉ "cổ" với thời nay, còn lúc ấy không thể là "cổ". Chữ "cổ" là rất thừa, không hợp văn cảnh.

Thứ ba là hai chữ
元是 (nguyên thị). Chỉ riêng hai chữ này vô hình chung đã chỉ ra sự dốt nát của người viết. Chắc chắn không có từ 元是(nguyên thị). Đây là sự lắp ghép vô tội vạ hai từ Hán Việt theo cấu trúc từ loại hiện đại với hàm ý "vốn là..." hoặc "nguyên là...". Nhưng hại thay, ngay cả chữ "nguyên" trong tổ hợp "nguyên thị" cũng sai be bét. Cực chẳng đã, nếu buộc phải chấp nhận "nguyên thị" thì phải dùng chữ(nguyên) mới đúng.
Cụm từ 陶磁瓶 (đào từ bình) cũng có chuyện cần phải bàn. 陶磁 (đào từ) là gốm sứ (lẽ ra phải dùng chữ của thời trung đại mới đúng), còn (bình) là danh từ chỉ các loại chai, lọ. Hóa ra, sản phẩm của phường gốm Chu Trang chỉ là chai lọ, còn các đồ gia dụng khác như bát, đĩa, âu, chum vại thì không làm? Vì thế ở phần này chỉ cần viết "đào từ phường" là trọn nghĩa. Chưa hết, các thư tịch cổ người ta không viết 大亂 (đại loạn) mà thường dùng 亂世 (loạn thế), còn từ (hóa) thì hoàn toàn của ngôn ngữ thời @ được hiểu như là hóa vàng mã hay hay hình nhân thế mạng.

Về cấu trúc ngữ pháp, một đoạn văn chỉ có 27 chữ nhưng vừa đọc lên tôi đã phải phì cười vì sự ngây ngô, liều lĩnh của người viết bởi trật tự mẹo luật bị đảo ngược theo lối hành văn chữ Quốc ngữ. Và chính bởi đây là sản phẩm ngụy tạo, người "sáng tác" không am hiểu cách viết văn bản chữ Hán trung đại nên dẫn đến một sản phẩm bát nháo, nửa dơi nửa chuột, không thể nào dịch thoát nghĩa trừ người bịa ra nó. Ví dụ, không ai đặt định ngữ sau danh từ "Cổ tượng hình tổ cô" mà phải viết "Tổ cô cổ tượng hình". Tương tự, không ai viết "nguyên thị chủ thập dư trang phường đào từ bình" mà phải là "đào từ bình phường thập dư trang chi chủ" v.v...
Vẫn 27 chữ, viết đúng trật tự ngữ pháp và dùng từ loại hợp lý sẽ là:
鄧夫人裴氏號望月像形,陶瓷坊十餘庄之主,亂世毀,重繪以傳後也
Phiên âm: Đặng phu nhân Bùi thị, hiệu Vọng Nguyệt tượng hình, đào từ phường thập dư trang chi chủ, loạn thế hủy, trùng hội dĩ truyền hậu dã
Dịch nghĩa: Hình của vợ ông họ Đặng là bà Bùi thị, tên hiệu Vọng Nguyệt (ngắm trăng), là chủ phường gốm hơn chục làng, thời loạn tượng bị hủy, vẽ lại để truyền cho đời sau.
Với những dẫn chứng và kiến giải ở trên, một lần nữa ta có thể khẳng định, Bùi Thị Hý là nhân vật hư cấu của ông Tăng Bá Hoành. Cũng vì sự hư cấu khá tinh vi này mà tỉnh Hải Dương tốn khá khiều công sức và tiền bạc để theo đuổi dự án Gốm Chu Đậu. Vậy sự thực gốm Chu Đậu có phải của người Chu Đậu, chúng tôi sẽ trình bày trong loạt bài tiếp theo.
Chí Linh, 02.5.2018

Đ.V.S.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét