HẬU
CHUYỆN KỂ NĂM 2000
(Thời
biến đổi gien)
Kỳ
3
Bùi
Ngọc Tấn
Khi chuyển đi trại trung ương, tôi đã dúi cho một người bạn tù tin
cậy cả ba quyển và dặn anh ta cố giữ, đừng đánh mất. Được tha về nhà, tôi không
ngờ lại gặp chúng, tuy rằng thiếu đi một quyển. Thế là trong nhà tôi vẫn có hai
tập sách. Nó đã vào tù cùng một ngày với tôi, cùng chia xẻ đắng cay hoạn nạn,
chia xẻ thân phận xà lim tối tăm với tôi, im lặng trò chuyện cùng tôi, giúp tôi
giảm được bao nhiêu đòn tra tấn của những phút giây ngục tối.
Vợ tôi gói kỹ hai quyển sách cất vào trong
tủ như vật gia bảo. Đó là những người bạn tù chung thuỷ của tôi! Đã rất nhiều
bạn tù chết, nhưng người bạn tù có ghi tên một đại văn hào này vẫn sống dù là
một đời sống thực vật: Nằm im trong tủ. Thú thật là tôi không muốn giở ra xem
lại. Bởi những dòng chữ từ cựa gà chiếc bút máy Pilot thôi ra tí nước uống của
tôi, thứ chữ li ti bợt bạt thoi thóp ấy cứa vào lòng tôi. Nó làm tôi sống lại
những phút giây căm phẫn đắng cay tuyệt vọng. Nó làm tôi đau lại nỗi đau của bố
mẹ tôi giờ đây khuất núi, nỗi đau của vợ tôi, của các con tôi. Tôi cũng không
muốn các con tôi đọc nó. Đừng làm tổn thương thêm những tâm hồn non nớt trong
trẻo của chúng. Đôi mắt chúng, trái tim chúng đã trúng thương rồi.
Tôi cố giữ sự trong sáng trong đôi mắt nhìn đời của các con tôi,
nhưng đó là cuộc chiến đấu không cân sức, đúng hơn, cuộc chiến đấu trong tuyệt
vọng. Bởi chính quyền đâu muốn thế. Họ tìm mọi cách để vợ chồng tôi, các con
tôi luôn nhớ mình là ai và không bao giờ được phép quên điều đó. Những buổi gọi
bố rồi gọi con ra đồn khai lại lý lịch. Những giấy tờ của các con tôi trong khi
đi học cần được chính quyền, công an chứng nhận đều bị ngâm cứu, kéo dài từ
ngày nọ sang ngày kia, nhiều lần lên đồn xuống phủ khiến chúng tôi lo lắng, mất
ăn mất ngủ và thêm một lần thấm thía thân phận của mình, thêm một lần ngấm cụm
từ “triệu lần dân chủ hơn”.
Hơn mười năm sau, khi cháu Bùi Quang Dũng
học đại học Hàng Hải, nhà trường có chủ trương tất cả sinh viên đều làm hộ
chiếu. Tôi biết điều gì sẽ đến với cháu, nhưng chẳng lẽ bảo con đừng khai, đừng
nộp hồ sơ lên công an. Quả nhiên hồ sơ cháu được Công An Phường ghi: “Bố đi tù 5 năm về tội phản tuyên truyền”.
Tôi đã không giữ được bình tĩnh, xé ngay tờ đơn có lời nhận xét của các nhà
đương cục, ném vào sọt rác — Thật là một sai lầm. Nếu bây giờ còn, làm một cái scan kẹp vào giũa những trang này có
thích không.
Các con tôi đều hiểu nỗi lo của bố mẹ chúng nhưng làm như không
biết và giấu biệt nỗi buồn kém chúng kém bạn ấy để tránh cho chúng tôi những
tiếng thở dài. Nói đến thở dài thì cực nhất là những buổi kiểm tra hộ khẩu. Nửa
đêm. Rầm rầm lên thang. Náo động xóm làng. Vợ chồng tôi quần áo chằm đụp ra
khỏi màn đứng để các ông ấy đếm. Các con tôi đang ngủ, ngồi bật dậy hoặc ngóc
đầu lên như tằm ăn rỗi trong chiếc màn xô rách phải dán bằng giấy báo, để các
ông ấy đếm.
Chỉ đập cửa kiểm tra nhà tôi. Với nhà anh Hồng Sỹ ([1])
liền
bên. Mỗi nhà không quá năm phút. Và rầm rầm xuống thang. Không ai nói một câu,
trừ ông tổ trưởng dân phố ra đến cửa bỗng quay lại nói với vợ chồng tôi vừa như
động viên vừa như trách móc:
– Sao không cố mua cho các cháu cái màn.
Ông buột mồm nói vậy đấy thôi. Chứ tiền đâu? Tem phiếu đâu? Cái
màn là cả một tài sản lớn. Khi yên tĩnh trở lại, chúng tôi, vợ chồng con cái
nằm im không ngủ. Không một tiếng thở dài. Cả hàng chục lần, hàng trăm lần như
vậy nhưng tuyệt nhiên không một tiếng thở dài sau những buổi kiểm tra hộ khẩu.
Bố mẹ, con trai, con gái, lớn, bé, tất cả không ai bảo ai đều nuốt tiếng thở dài
vào bụng, lặng lẽ tiêu hóa nó, với vợ chồng tôi là một uất hận vón cục, còn với
các con đang tuổi ăn tuổi học của tôi là sự biết thân biết phận và tránh cho bố
mẹ thêm buồn. Tôi thương các con tôi còn bé đã có ý thức về việc nuốt tiếng thở
dài. Bài học vỡ lòng về cuộc sống của chúng là bài học “ Nuốt tiếng thở dài vào bụng”.
Rõ ràng cuộc chiến đấu của tôi giữ cho đôi
mắt các con trong trẻo để tâm hồn chúng khỏi méo mó đi trước tuổi là cuộc chiến
đấu vô vọng. Những ngón võ gia truyền của mấy ông làm tôi đo ván. Đo ván và ghê
sợ. Mà cái loa Ngã Sáu thì cứ oang oang — cho đến tận hôm nay là năm thứ 13 của
thế kỷ 21, khi cuộc sống đã tồi tệ một cách khủng khiếp:
Tôi lại nhìn như đôi
mắt trẻ thơ
Tổ quốc tôi chưa đẹp
thế bao giờ…
Sao tôi thèm đôi mắt của ông nhạc sĩ nào đó đến thế. Thèm cho tôi
và thèm cho các con tôi đang tuổi trẻ thơ. Để xanh núi xanh sông xanh đồng xanh biển, xanh cuộc đời xanh cả ước mơ.
Tôi không muốn chút nào các con tôi nhìn
đời bằng đôi mắt của tôi, đôi mắt của những người bị giầy xéo dưới đáy mà tai
luôn nghe những điều tốt đẹp “triệu lần
hơn” của chủ nghĩa, của các bậc chí thánh, tôi cũng hoàn toàn không muốn
chúng có đôi mắt mang tia X nhìn thấu tới gan ruột cốt lõi của chế độ, để thấy
trước những gì cuộc sống đang chờ chúng.
Xin các người đừng tước đoạt của chúng tuổi thơ!
Nhà tôi không có sách văn chương — và tất nhiên không có sách lý
luận! — vẫn chưa làm tôi thật yên tâm khi hai cháu Bùi Thị Hải Yến và Bùi Quang
Dũng rất giỏi văn. Học lớp 4, Hải Yến đã được chọn đi thi giỏi văn thành phố.
Thật may, Hải Yến học giỏi toàn diện. Khi ra thành phố học cấp 2, Yến rất mê
môn toán. Lên cấp ba, Yến học chuyên toán, mỗi tháng được học bổng 9 đồng. Món
tiền này rất quan trọng, có thể nói một cách dễ hiểu, giống như cách mạng Cuba đối với phe xã hội chủ nghĩa vậy — bằng Cuba
thôi chứ không thể như cách mạng Trung Quốc được. Vợ tôi tháng nào cũng ngóng
cũng nhắc: “Yến chưa lĩnh lương nhỉ?” Hoặc: “Mãi chưa thấy Yến lĩnh lương”.
Còn cháu Bùi Quang Dũng giỏi văn đấy nhưng
không thích học văn. Bởi cô giáo dạy văn không thể chấp nhận những bài văn không đúng với bài
mẫu, không chịu được những nhận xét ngây thơ hồn nhiên của cháu khi tả cuộc đi
chơi tắm biển hay một buổi sáng ở làng quê. Tôi đã đi họp phụ huynh cho cháu,
biết cô giáo có chồng là một sĩ quan hải quân, thường xuyên sống xa chồng, đành
cắt nghĩa sự “khó tính” của cô, ngoài trình độ, còn do hoàn cảnh ấy và tự an ủi
rằng thôi cũng may, sự thui chột về văn này của cháu càng có lợi. Kết quả thật
như ý. Bùi Thị Hải Yến và Bùi Quang Dũng có năng khiếu văn, nhưng đều học kinh
tế, kỹ thuật.([2])
Do phúc ấm gia đình, tổ tiên để lại, các
con tôi đều ngoan, thương bố thương mẹ. Nhìn bạn chúng đến nhà, tôi yên tâm.
Toàn chuyện học, chuyện bài vở, và thật mừng làm sao... chúng cãi nhau về những
bài toán khó. Không đứa nào phải giục giã, nhắc nhở trong việc học. Hơn thế,
nhiều đêm ngủ một giấc, tỉnh dậy vẫn thấy con cặm cụi bên bàn, tôi phải giục:
Đi ngủ thôi. Khuya rồi. Sáng mai còn biết đường mà dậy.
Dù học khuya hay đi ngủ sớm, Giáng Hương bao giờ cũng là người đầu
tiên trở dậy vào sớm hôm sau. Nhồi bếp mùn. Đun nước. Nấu cơm ăn sáng. Ngày ấy
ăn cơm sớm lắm. Làm hai tầm sáng, chiều. Các cháu đi học còn sớm hơn. Hai bữa
cơm lên đèn. Đèn dầu hỏa — vì không có điện — nên chúng tôi hay đọc câu ca dao
thời yên bình làng xóm làm ăn thuở xa xưa “một
ngày hai bữa cơm đèn, còn chi má phấn răng đen hỡi chàng”.
Các con tôi đều hiểu chúng đã chẳng may sinh trong một gia đình đối tượng của cách mạng. Phải cố gắng
hơn mọi đứa trẻ khác. Sống không đòi hỏi điều gì, từ quyển vở cho đến chiếc
quần phíp may bằng vải vụn, lại càng không nghĩ tới một chiếc áo len. — Mãi sau
này khi đã lấy chồng, Hải Yến vẫn còn kể lại hồi học cấp 3, đã là thiếu nữ, mặc
chiếc quần phíp đen can nối ngang hông, thầy gọi lên bảng, mỗi khi với tay lên
cao để viết lại xấu hổ về chiếc sơ mi ngắn bị kéo lên không che nổi đường can ở
phía sau.
Mùa rét, chăn không có, vợ tôi nhờ sự quen
biết, xin được từ nhà máy Thảm Len một bao tải “đề sê gầm”, thứ phế thải từ
lông súc vật ẩm bết, vụn, rơi ra trong quá trình chế biến len thảm, đầy vi
khuẩn, đem về trải ra, dàn ra như một thứ lõi bông. Vỏ chăn là những miếng vải
bao bì, in hằn những vết han gỉ của nẹp sắt, của những dòng chữ hắc ín không
thể tẩy sạch. Yên tâm là hai đứa con gái đã có chăn “len” chống rét nhưng khi
chúng nằm xuống chiếc chiếu trải trên sàn gỗ giữa buồng, thử cái chăn mới mà ba
mẹ con khâu khâu, níu níu chần chần ấy mới thấy cái yếu kém của nó: Những mũi
kim đường chỉ của suốt một buổi tối vất vả không thể giữ được những vụn đề sê gầm. Chúng rời ra, xô vào nhau,
chỗ là một cái túi phồng lên, chỗ trơ ra hai lượt vải bao bì.
Nằm trong chăn, bốn cái đầu gối của hai đứa con gái đội lên hai
lượt vải, trong khi dưới chân chúng, những vụn lông thú dồn lại, cộm lên. Chúng
cười rúc rích về cái kết quả bất ngờ này
và lấy chân hất hất cho lớp ruột chăn bên trong dàn đều trở lại, nhưng đâu có
được và lại cười. Tiếng cười của hai đứa con gái đang tuổi ăn tuổi lớn cứa vào
lòng tôi.
Không chỉ túng đói, cuộc đời chúng tôi còn liên tiếp những mối lo
sợ. Một nỗi lo mới ám ảnh chúng tôi khi cậu con lớn Bùi Ngọc Hiến vào lớp 10,
lớp cuối cấp 3 chuẩn bị thi đại học. Liệu cháu có được thi không? Muốn thi đại
học, điều kiện trước tiên phải là đoàn viên thanh niên cộng sản. Với cái lý
lịch tối tăm, con một tên phản động, bố là phần tử chống đảng chống chế độ, đi
tù 5 năm mới về, làm sao được vào đoàn? Cánh cửa đại học như đã đóng chặt trước
cháu.
Nhưng như một chuyện cổ tích, một chuyện
thần kỳ, và cũng có thể do học giỏi và hiền ngoan, cháu Hiến được kết nạp vào
đoàn. Cái huy hiệu tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên cài trên ngực áo cậu con
trai lớn làm sáng cả khuôn mặt vợ chồng tôi. Từ cháu Hiến được kết nạp đoàn, có
thể lãng mạn cách mạng nghĩ rằng các
em nó, Bùi Thị Giáng Hương, Bùi Thị Hải Yến và Bùi Quang Dũng cũng có thể sẽ
được kết nạp. Bởi trong bản lý lịch mục kê khai về anh chị em sẽ có một dòng
sáng ngời: Bùi Ngọc Hiến đoàn viên thanh
niên cộng sản. Đó là dòng chữ ghi chất lượng chính trị cao nhất của gia
đình tôi: Có một cậu con trai là đoàn viên thanh niên cộng sản!
Việc cháu Hiến được vào đoàn ngoài kết quả sự phấn đấu của cháu
chắc chắn có sự đóng góp của cả sáu người chúng tôi mà bằng chứng là tờ giấy
khen “Gia Đình Văn Hóa Mới” của khu
phố trao tặng. Một kết quả tổng hợp của mọi thành viên. Ngày này sang ngày
khác, ngày cũng như đêm, căn buồng của chúng tôi không một tiếng nói to. Chúng
tôi im thin thít trong khi xóm láng thường xuyên cãi nhau, chửi nhau, đã có
những vụ chửi nhau hẹn giờ kéo dài cả tháng, chỉ nghỉ ngày chủ nhật mà tôi đã
viết trong tiểu thuyết. Chúng tôi biết phải chịu thiệt, tuyệt đối không tham
gia vào cuộc chiến tranh đất đai âm ỉ và sục sôi bên dưới. Các con tôi lễ phép,
chăm học, học giỏi trong khi con các ông bà thì bỏ học, lêu lổng…cũng đã góp
phần quan trọng vào cái chứng chỉ này, cái chứng chỉ bằng văn bản có đóng dấu
son hẳn hoi. Và tôi suốt tháng này sang năm khác im lặng như một người câm.
Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất chắc chắn là những cố gắng phi
thường của vợ tôi, cố gắng của một người biết rằng cuộc đời mình đã chấm hết,
chỉ còn một mục đích, một ý nghĩa duy nhất: Sống vì những đứa con.
Dọn vệ sinh hàng tuần trong xóm ngày Thứ
Bẩy. Tổng vệ sinh khu phố nhân ngày quốc khánh Mùng 2 Tháng 9, ngày Quốc Tế Lao
Động mồng 1 tháng 5. Họp xóm, họp tổ dân phố tới tối khuya dù đi làm cả ngày
mệt nhừ người. Vợ tôi luôn là một trong những người bỏ phiếu bầu cử các cấp
ngay sau lễ khai mạc khi các vị chức sắc long trọng bỏ những là phiếu đầu tiên.
Hơn thế, bao giờ vợ tôi cũng gạch đúng tên những người đã được phổ biến bằng cách
rỉ tai hoặc nói xa xôi trong những cuộc họp trước đó.
Riêng tôi, trong những lần đi bầu để cho có mặt đã định gạch văng
tê ngẫu hứng, nhưng rồi lại thôi, nhỡ có ai trông thấy thì toi đời, vả lại có
bầu thế nào thì những người họ giới thiệu vẫn trúng. Cũng phải thú thật là lần
đầu tiên được đi bầu sau khi ở tù ra tôi phấn khởi vô cùng. Phấn khởi hơn cả
những người được đi bầu quốc hội lần đầu tiên năm 1946. Khi danh sách cử tri
được trương lên quanh khu bầu cử từ nhiều ngày trước đó, vợ chồng tôi nhìn nhau
mà đọc thấy mối lo không thành lời: Trong những dòng chữ ghi tên họ cử tri chi
chít như kiến bò kia có tên tôi không? Không có tên trong danh sách đi bầu thì
không chỉ nhục nhã cho mình, cho vợ mà còn khốn nạn suốt đời mình, khốn nạn
suốt đời con.
Vợ tôi đi thám thính, làm như có việc ra Ngã Sáu mua bán cái gì
đó, ghé qua xem danh sách như những người vô công rỗi nghề và trở về nhà cố nén
để khỏi reo lên: “Có tên bố nó. Em xem
rồi. Bùi Ngọc Tấn. Mười. Điện Biên Phủ”.
Tôi như vừa qua được căn bệnh hiểm nghèo, thoát khỏi chứng ung thư
di căn, dù vẫn còn lo có người nào đó gửi đơn lên trên phản đối.
Tôi lại được vào Nhân Dân rồi! Tôi lại
đứng trong hàng ngũ những người được đảng lãnh đạo rồi! Không bị đảng ruồng bỏ
trừng phạt nữa!
…Tôi đem dán cái chứng chỉ dấu son Gia Đình Văn Hóa Mới, vốn liếng chính trị và tài sản lớn nhất của
gia đình, ngay phía trên bàn tiếp khách của tôi và cũng là bàn học của các con
tôi. Nơi đập vào mắt mọi người. Để ai đến nhà cũng thấy ngay, biết gia đình tôi
đã lại được là một gia đình bình thường như mọi gia đình khác, hơn thế còn là
một gia đình văn hóa mới.
Là đoàn viên, cháu Bùi Ngọc Hiến đã có được bộ hồ sơ thi đại học
đầy đủ. Đành rằng học tài thi phận nhưng chúng tôi tin cháu sẽ thi đỗ. Bởi cháu
học rất giỏi. Văn thì trung bình — thật trúng với mong ước của bố mẹ cháu —
nhưng những môn tự nhiên thì vào loại giỏi. Còn đang học lớp bẩy, lớp tám, cháu
đã nghĩ ra những đề toán khó đăng trên báo Toán Học Và Tuổi Trẻ của ông Nguyễn
Cảnh Toàn. Nộp đơn thi vào đại học Đường Thủy, cháu đỗ rất cao: 21,5 điểm.
11,5 điểm được vào trường, 18 điểm được đi học nước ngoài, nhưng
cháu không được gọi. Điểm thi của cháu cũng phải mãi về sau mới biết, dù ông Tạ
Quang Bửu, bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đại Học Chuyên Nghiệp ngày ấy đã có quyết
định công khai điểm thi của các thí sinh.
Cá chuối đắm đuối vì con. Quên cả nhục nhã, quên cả sợ hãi, tôi đã
vác cái mặt của một kẻ đi tù, một kẻ chống đối, phản cách mạng, một cái mặt ai
cũng có quyền khinh bỉ đến gặp nhà trường, gặp công an, gặp ủy ban, gặp tuyển
sinh thành phố.
Dân thường đến những nơi tôn nghiêm ấy
cũng nem nép sợ hãi nữa là tôi. Đến đâu cũng là những cái lắc đầu không biết,
hồ sơ của cháu không có ở chỗ chúng tôi, con anh cũng như con tôi, nếu cháu thi
đủ điểm chúng tôi cho cháu đi học chứ giữ cháu làm gì.
Cho đến khi biết điểm thi của cháu, mà vẫn không được gọi, tôi
càng thấm thía tội lỗi làm bố của mình. Chỉ vì tôi. Chỉ vì tôi nên con tôi có
thể thất học. Mà có thể gì nữa. Thất học rõ ràng, rành rành ra rồi. Con người
ta vào học một tháng rồi. Con mình vẫn nằm nhà.
Người tôi sôi lên. Hỡi bọn chó đểu kia. Chúng mày làm gì tao thì
làm, bỏ tù lại tao cũng được. Nhưng đừng triệt hạ con tao!! Các đồng chí ơi.
Hãy cho con tôi vào học. Chúng vô tội. Chính đảng đã nói: Con làm con chịu, bố
làm bố chịu cơ mà! Con tôi cũng như con các đồng chí… Tôi cơ hồ tuyệt vọng.
Hoàn toàn không nghĩ là con mình được vào đại học, bởi con em nông dân lao động
không vào hợp tác xã cũng không được học đại học huống hồ con một tên phản
động!
Tôi không dám nhìn vào mặt cháu. Còn vợ tôi sinh ốm. Ốm thật,
không phải “bệnh tư tưởng” như người ta thường nói. Sau này hễ cứ có một đứa
con thi đại học là vợ tôi đổ bệnh thật sự. Một triệu chứng mới xuất hiện là đau
thắt ngang ngực, khó thở, triệu chứng này xuất hiện thường xuyên hơn trong
những năm tháng căng thẳng hậu Chuyện Kể
Năm 2000 và được bác sĩ xác định là thiểu năng động mạch vành, phải dùng
vastarel suốt đời.
Trong những ngày đằng đẵng tuyệt vọng chờ mong ấy, thật may, cháu
được một người quen nhận vào làm bốc vác cho mậu dịch. Cháu không phải nằm dài
ở nhà nữa. Đã có công việc làm. Đỡ buồn chán. Lại có thu nhập. Cháu Hiến năm ấy
mười sáu tuổi, người nhỏ nhắn giống mẹ, mặt búng ra sữa. Những tưởng cháu làm
theo sức của mình, nào ngờ đâu, trong đội bốc vác, cháu phải làm như mọi người,
cũng vác những bao đường nặng một tạ như những công nhân bốc vác chuyên nghiệp
người Hoa cao lớn khác. Và khi giải lao, những ông phu poóc tê uống rượu với đùi gà ([3])
thì cậu học sinh duy nhất trong đội ngồi một mình dựa lưng vào gốc cây ba giăng
ngoài vỉa hè, lấy bút chì và giấy trong túi áo ra làm toán.
Làm bốc vác gần hai tuần, cháu bị sút lưng, nằm nhà, không ngồi
dậy được. Ăn uống tại giường, đái ỉa tại giường. Các bạn cháu đã vào học biết
tin, đến nhà xúm quanh giường, động viên cháu: Cứ yên tâm. Chưa học gì đâu. Mới
là học nội quy và tập quân sự thôi.
Cuối cùng cháu cũng được vào học, vào cái khoa ngày ấy không cháu
nào muốn học, chỉ những học sinh xuất thân từ những gia đình kém cỏi mới phải
vào: Khoa công trình! Không phải khoa máy, khoa điện…những khoa có thể xuống
tầu,tới Nhật tới Hồng Kông, tới Xanh- ga-po, kể cả tới Bắc Âu, tới Mỹ để có cơ
hội buôn bán làm giầu. Cứ yên tâm ở lại với đất nước, với đói nghèo!
Bùi Ngọc Hiến. Rồi Bùi Thị Giáng Hương. Và tới Hải Yến. Có lẽ cũng
cần nói thêm về trường hợp Hải Yến thi đại học. Cũng như khi hai đứa con đầu đi
thi, chúng tôi cũng lo cháu có đỗ hay không, nhưng điều lo lắng nhiều hơn là
người ta có cho con mình vào học hay không. Dù hai cháu lớn học đại học, chuyên
nghiệp đã như một tiền lệ. Chúng tôi luôn sợ hãi. Việc gì cũng có thể xẩy ra.
Vợ tôi ngày nào cũng thắp hương khấn vái rồi theo lễ hết đền này phủ khác. Và
ốm khi Yến đến ngày thi như đã ốm khi hai đứa lớn đến ngày thi. Thi xong ít
lâu, một cháu gái, bạn học với Hải Yến đến chơi nhà. Là con ông cháu cha, cháu
được ban tuyển sinh thành phố cho chép danh sách và điểm thi của các thí sinh
đại học, một hình thức làm thêm trong dịp hè để có thu nhập. Cháu đến nhà chơi
và hỏi Yến một câu rất vô tư:
– Hải Yến ơi! Sao không có tên cậu?
Như có một luồng gió độc đánh mạnh vào ngực, tôi biết người ta đã
ra đòn. Tưởng đến Giáng Hương là thôi. Nhưng vẫn tiếp tục. Ngón đón này dù đã
nhiều lần làm tôi thổ huyết nhưng vẫn không sao quen được.
Thương con. Uất hận. Nhưng đừng để lộ ra.
Vẫn phải giữ vẻ mặt nhẫn nhục cam chịu của kẻ biết thân biết phận.
Giữa trời mưa to, tôi cùng con gái đạp xe đến trường Thái Phiên. Người ta phát
giấy báo điểm. Cháu này nhận. Cháu khác nhận. Mặt xịu xuống, mắt rơm rớm nước
vì điểm dưới chuẩn. Nhẩy lên trong mưa vì thừa điểm vào trường. Ấp tay vào
ngực, xuýt xoa vì may mắn: Vừa đủ điểm…Cho đến cháu cuối cùng.
Rồi sân trường chỉ còn hai bố con. Tôi tiến lại cái bàn kê ở hành
lang hỏi một thầy giáo về phiếu điểm của cháu. Ông ta nhìn tôi nửa như khinh
bỉ, nửa như ái ngại:
– Không có. Chúng tôi không
nhận được. Khi nào nhận được chúng tôi sẽ báo…
Vẫn phải vác cái mặt kẻ chống đảng đi tù về mà đến những nơi cần
đến, những căn phòng tượng trưng cho quyền uy cách mạng để dò hỏi.
Tuyển sinh thành phố, công an khu phố, ủy ban và lại quay lại
trường trung học.
Chầu chực. Chờ đợi. Tùy từng nơi, từng lúc mà gặp những vẻ mặt
khác nhau. Khinh bỉ. Khinh khỉnh. Ái ngại. Lạnh nhạt. Làm ra thông cảm. Nhưng
những lời nói thì giống nhau. “Chúng tôi
chưa nhận được giấy báo điểm, chưa nhận được hồ sơ của cháu. Anh cứ yên tâm. Hễ
nhận được là chúng tôi sẽ báo cho anh ngay. Con anh cũng như con tôi…” Đến
đâu cũng cái điệp khúc “con anh cũng như con tôi”. Các cán bộ công nhân quốc
doanh đánh cá Hạ Long ([4])
nghe tôi kể lại cơ đận con gái tôi thi đại học đã đặt cho tôi cái tên
Chết-Giữa-Tình-Thương.
Cuối cùng chúng tôi cũng biết điểm thi của Hải Yến: 20,5 điểm so
với điểm chuẩn 18. Về số điểm của cháu, một thầy giáo quen nói với tôi:
– Con Yến nó thương hai ông bà đấy. Nếu nó được thêm nửa điểm nữa,
21 điểm là điểm được đi học nước ngoài ông bà càng đau hơn. Thằng Hiến đã thế
rồi…
Chúng tôi đã chịu cái đau ấy khi cháu Hiến
thi. Và cũng thuộc lòng bài học của ông Trần Đông và Sở Công An Hải Phòng dạy,
một bài học không thành lời nhưng thấm thía: Con mày được đi học đại học là tốt
lắm rồi. Vâng. Cảm ơn các ông. Cảm ơn các đồng chí của tôi. Chúng tôi đâu dám
mong ước gì hơn.([5])
Biết điểm nhưng không biết hồ sơ của con gái nằm ở đâu. Tôi cố giữ
bình tĩnh để đừng phát điên, đến những nơi cần đến. Vẫn là không biết. Vẫn là
Chết Giữa Tình Thương. Hay thất lạc đâu rồi trong khi ngày hết hạn nộp hồ sơ cứ
đến dần. Rồi ngày cuối cùng của hạn nộp cũng đến. Buổi chiều trước cái hạn định
cuối cùng ấy, anh Bùi Đức Thành, anh thứ hai tôi, người quen nửa thành phố đã
dành rất nhiều công sức dò hỏi điểm thi và hồ sơ của cháu Yến, đạp xe đến nhà
với khuôn mặt tươi ngời lên:
– Hồ sơ con Yến xong rồi. Tuấn tuyển sinh gặp anh nói sáng mai chú
lên gặp nó nhận hồ sơ cho cháu rồi chú trực tiếp cầm lên nộp cho trường..
Tôi vội chuẩn bị ngay mọi thứ để đi Hà Nội như sửa lại xe đạp cho
thật tốt, tránh mọi trục trặc khi tới Hà Nội, xin giấy lấy vé ô tô ưu tiên —
Thật may mắn Giáng Hương, con gái tôi học với con gái ông bí thư đảng uỷ công
ty xe khách, đã xin được một cái giấy viết tay của ông gửi quầy bán vé.
Tôi đến Ban Tuyển Sinh sớm. Chờ. Chờ lâu. Hàng tiếng đồng hồ. Tôi
đâu hiểu rằng ông Tuấn tuyển sinh, người tôi đã nhiều lần tìm gặp để hỏi về hồ
sơ thi đại học của các con tôi, không thể đi thẳng từ nhà đến cơ quan được. Sáng
nào cũng có người chờ ông sẵn ở cửa. Người ta bắt cóc ông. Người ta mời ông.
Người ta đèo ông bằng xe đạp ([6])
đi ăn sáng. Ăn xong vào hiệu cà phê. Không ngày nào ông được — phải — ăn
sáng một mình hay ăn sáng với vợ con.
Chín giờ, ông Tuấn mới bước vào phòng làm
việc. Thấy tôi ngồi chờ, ông Tuấn cười động viên tôi và nhanh nhẩu bắt tay vào
công việc. Ông lấy dao rọc một tờ báo Nhân Dân, phết hồ dán lại làm túi đựng hồ
sơ cho Hải Yến, những tờ giấy quyết định cả một đời người. Cầm túi hồ sơ ông
đưa, tôi đứng dậy định đi ngay, nhưng ông nói:
– Gượm đã. Anh chờ tôi một
tí.
Ông làm rất nhanh một cái phong bì khác:
– Còn trường hợp này nữa. Cháu này cũng
giống như con anh. Cũng đến hôm qua mới có quyết định chính thức. Con người ta
cũng như con anh. Một công đôi việc, nhờ anh cầm lên hộ cháu. Đại học Sư Phạm.
Cũng gần trường Thương Nghiệp. Anh biết trường Sư Phạm chứ. Cùng khu Cầu Giấy
cả.
Tôi không biết trường Sư Phạm ở đâu.
Trường Thương Nghiệp mà Hải Yến vào học tôi cũng chưa biết, nhưng Cầu Giấy thì
tôi biết. Sáu năm làm báo ở Hà Nội thật đắc dụng trong trường hợp này. Tôi cầm
hồ sơ ông Tuấn đưa và hứa sẽ chuyển tận nơi cho cháu, nhưng thật may, ông bố
bất hạnh như tôi cũng vừa lò mò đến. Tuấn reo lên và đưa hồ sơ của con ông cho
ông. Đó là một người có bộ mặt lo lắng sợ sệt, ngơ ngác, không dám nhìn vào mặt
ai, chỉ một kiểu nhìn xuống đất. Tôi nghĩ hẳn tôi cũng có bộ mặt ấy, bộ mặt của
người biết thân biết phận vừa nhận một cái ơn trời bể. Muốn nói với ông mấy
câu, nhưng ông đã giơ hai tay nắm lấy tay Tuấn lắc lắc, cúi thấp đầu chào Tuấn,
không nhìn tôi lấy một lần, cầm hồ sơ của con bước nhanh ra cửa.— Hình như ông
không biết tôi cũng cùng một thân phận như ông nên ông thu mình lại, không muốn
bắt chuyện.
Tôi cũng ra theo ông. Tôi rất vội. Mặt
trời đã lên cao. Đạp thẳng ra bến ô tô Niệm Nghĩa.
Không thể quan niệm được cái bến ô tô nhất là phòng bán vé thời
đó. Chen. Huých. Cãi cọ. La hét. Sừng sộ. Dòng người cứ dài mãi. Và bâu vào cửa
bán vé, vòng trong vòng ngoài những người chen ngang, không muốn xếp hàng mà
vẫn có vé. Đó là nguyên nhân của những tiếng la hét chửi bới, cãi cọ nhiều khi
đi đến ẩu đả. Cửa ưu tiên cũng đông cực kỳ. Nhiều loại ưu tiên lắm. Giấy viết
tay như tôi. Nhà báo. Cán bộ công nhân trong ngành. Dân phe vé đã móc ngoặc
thành nếp làm ăn. Và thương binh nhiều vô kể. Thương binh xếp hàng mua vé, bán
lại giá cao, một nghề kiếm sống. Chuyến ô tô tôi đi khởi hành 12 giờ trưa. Xe
đạp vất trên nóc xe. Tháng Tám nắng rám cành bưởi. Tôi xì bớt hơi trong lốp xe
để dù có phơi nắng cũng không bị nổ lốp và đến bến Nứa có thể cứ thế guồng ngay. Tôi lấy luôn vé khứ hồi.
Tôi nghĩ nếu không có cái giấy viết tay ưu tiên của ông bí thư
đảng uỷ công ty xe khách chắc con gái tôi sẽ thất học. Vì đã là thời hạn cuối
cùng nộp hồ sơ. Và nếu ô tô nổ lốp hay bị sự cố gì đó, con tôi cũng chẳng được
nhập trường. Ngày ấy ô tô Hải Phòng – Hà Nội chạy thông đồng bén giọt mất bốn
tiếng đồng hồ. Phải bốn giờ chiều mới tới bến Nứa.
Chuyến xe suông sẻ, không chết máy cũng không nổ lốp. Bốn giờ
chiều tới bến. Nhận xe đạp, tôi phóng nhanh về Cầu Giấy. Đến Cửa Nam, va vào xe
một cháu gái cũng trạc tuổi Hải Yến đi từ phía Hàng Bông lại, hai chú cháu ngã
xoài, rồi cười với nhau, dựng xe lên, ai đi đường nấy. Tới trường đại học
Thương Nghiệp là gần 5 giờ. Hơn nửa tiếng nữa mới tan tầm. Nhưng phòng giáo vụ
vắng tanh. Nộp hồ sơ cho ai bây giờ. Còn đang đứng lơ ngơ giữa chốn xa lạ với
mặc cảm về thân phận hèn kém của mình cùng nỗi lo không biết bấu víu vào đâu
thì có tiếng nói lễ phép:
– Chú đi đâu đấy hở chú?
Thật là chết đuối vớ được cọc. Một giáo viên của trường, anh của
một cháu bạn học với Giáng Hương. Còn may mắn nào hơn. Anh giáo viên trẻ nhận
hồ sơ và bảo đảm với tôi rằng sẽ nộp được cho phòng giáo vụ.
Tôi vội đạp xe trở ra bến Nứa.
Không còn chuyến ô tô nào dù có vé khứ hồi.
Rất nhanh, tôi quành về ga Trần Quý Cáp, lấy vé tầu đêm, để sáng hôm sau có mặt
tại xí nghiệp đón Ban Thi Đua khen thưởng thành phố về làm việc tại xí nghiệp
theo lịch đã thông báo.
B.N.T.
([1])
Trung tá công an bị bắt trước tôi và tha trước tôi. Xem Đêm Giữa Ban Ngày của
Vũ Thư Hiên.
(2) Gần đây Hải Yến muốn giải trí với những kỷ
niệm ấu thơ khi còn ở với ông bà, đã viết bài Những Ngày Giáp Tết hưởng ứng
cuộc thi của báo Phụ Nữ thành phố HCM và đã được giải nhì.
(3) Một thứ thức ăn
khủng ngày ấy để bồi bổ lại sức khỏe tiêu hao.
(4)Tôi đi làm ở đây nhờ sự cứu giúp của ông
Hoàng Hữu Nhân, tổng cục trưởng tổng cục Thủy Sản và sự vượt rào của ông Tưởng,
trưởng phòng lao động khu phố Ngô Quyền, những người tôi hàm ơn suốt đời.
(5)Viết
đến đây tôi bỗng nhớ đến lời ông Bill Clinton, tổng thống Mỹ nói với sinh viên
tại Hà Nội một câu mà tất cả ông bố bà mẹ, các trẻ em còn đang bú mẹ hay đã
chuẩn bị thi vào đại học ở Việt Nam đều mơ ước: Tất cả trẻ em ở Mỹ đều có cơ
hội ngang nhau. Ai cũng hiểu rằng ông Tổng Thống đang nói một sự thật chứ không
phải đọc một câu ghi trong hiến pháp để không bao giờ thực hiện.
(6) Thời ấy
đâu có xe máy và
không có kiểu phong bì như hiện nay.
(Xem tiếp
kỳ sau)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét